Skip to main content

Thẻ: nhà quản lý

Nghiên cứu: ‘Nơi làm việc độc hại’ làm tăng gấp 3 lần nguy cơ bị trầm cảm

Khi bạn biết những nơi làm việc độc hại (Toxic Workplace) có hại cho sức khỏe tinh thần đến như thế nào. Bạn sẽ rất ngạc nhiên bởi nó thực sự rất tệ hại.

Khi Google bắt đầu một dự án nghiên cứu lớn để tìm ra điều gì đã làm nên thành công của các đội nhóm cách đây vài năm, họ đã phát hiện ra một điều rất đáng ngạc nhiên.

Các thành viên trong đội nhóm đó thông minh như thế nào không quan trọng bằng việc họ tin tưởng lẫn nhau như thế nào.

Google gọi phẩm chất cần thiết này đối với các đội nhóm tuyệt vời là “sự an toàn về tâm lý” (psychological safety), nhưng trong cách hiểu thông thường, nó có nghĩa là các nhóm ủng hộ và tôn trọng nhau sẽ hoạt động hiệu quả hơn những nhóm còn lại.

Hóa ra bí quyết thành công ở đây chỉ là sự tử tế.

Đó cũng có thể là bí quyết giúp các đội nhóm không khiến các thành viên của họ cảm thấy chán nản hay vấn đề trở nên nghiêm trọng.

Khi các nhà nghiên cứu đến từ Australia xem xét dữ liệu của hơn 1.000 người lao động trong thời gian gần đây, họ phát hiện ra rằng làm việc cho một công ty thiếu sự an toàn về mặt tâm lý sẽ làm tăng gấp 3 lần khả năng mắc bệnh trầm cảm.

Đội nhóm độc hại có thể bóp nghẹt cả thành công và sức khỏe tinh thần.

Nghiên cứu được thực hiện từ Đại học Nam Úc (The University of South Australia) và gần đây đã được công bố trên Tạp chí Y khoa của Anh (British Medical Journal).

Tiền đề cơ bản của nó rất đơn giản: theo dõi một nhóm người lao động trong hơn một năm để xem ai trong số họ được chẩn đoán sẽ mắc các chứng trầm cảm nghiêm trọng, sau đó kiểm tra xem những yếu tố nào tại nơi làm việc đang ảnh hưởng đến khả năng mắc các vấn đề đó của họ.

Sau khi các con số được phân tích, kết quả rất rõ ràng. Nếu bạn làm việc tại một công ty không coi trọng sức khỏe tâm lý của bạn, nguy cơ trầm cảm của bạn không chỉ tăng lên một chút như bạn vẫn nghĩ – sự thật là nó tăng lên 300%.

Trong thực tế, việc không đánh giá đủ các vấn đề về sức khỏe tâm lý và sự an toàn sẽ được thể hiện như thế nào?

Nhóm nghiên cứu đã đánh giá cam kết của các doanh nghiệp đối với sức khỏe tinh thần bằng cách sử dụng thang điểm tiêu chuẩn yêu cầu người lao động đồng ý hoặc không đồng ý với những tuyên bố kiểu như “quản lý cấp cao hành động dứt khoát hơn khi mối quan tâm về tình trạng tâm lý của nhân viên được nâng lên” và “quản lý cấp cao xem xét sức khỏe tâm lý của nhân viên cũng quan trọng như năng suất.”

Nhóm nghiên cứu nhận xét:

“Các công ty không khen thưởng hoặc công nhận nhân viên của họ khi họ làm việc chăm chỉ, áp đặt những yêu cầu vô lý đối với người lao động và không cho họ quyền tự chủ đang đặt nhân viên của họ vào nguy cơ trầm cảm lớn hơn nhiều.”

Các doanh nghiệp và người lao động nên nắm bắt vấn đề này như thế nào.

Khái niệm về an toàn tâm lý của nghiên cứu này không hoàn toàn giống với của Google, vốn nhấn mạnh vào việc chấp nhận rủi ro và khả năng thất bại mà không cần sợ hãi, nhưng nó cũng gần tương tự như vậy.

Khi kết hợp với nhau, hai kết quả cho thấy rằng những nơi làm việc độc hại, nơi nhân viên bị bắt nạt, bị hạ thấp, không được đánh giá cao và làm việc quá tải, vừa kém thành công vừa có hại cho sức khỏe tinh thần của các thành viên trong đội nhóm.

Điều này có thể không quá ngạc nhiên, nhưng quy mô của sự gia tăng nguy cơ trầm cảm đang là một vấn đề lớn.

Nếu bạn đang lãnh đạo tại một nơi làm việc độc hại, hãy nhanh chóng sửa chữa nó. Hay nếu bạn không, hãy bỏ nó đi và đừng bao giờ để nó xảy ra.

Các nghiên cứu riêng biệt cũng cho thấy rằng việc bỏ qua các kỳ nghỉ cho nhân viên cũng làm tăng gấp đôi nguy cơ mắc bệnh trầm cảm.

Vì vậy, tối thiểu, hãy nghỉ ngơi, hãy để nhân viên của bạn có đủ không gian và cơ hội để thư giản và vui vẻ với nhau.

Với tư cách là nhà quản lý, bạn nên nghiên cứu và xem xét cách bạn có thể cải thiện môi trường làm việc của mình hay tìm cách để nó trở nên thân thiện hơn. Bạn không thể phát triển doanh nghiệp với một môi trường đầy ắp những sự độc hại.

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: Link

Tra Nguyen

Nghiên cứu: Tại sao những nhà quản lý bỏ qua ý tưởng hay ý kiến của nhân viên

Khi nhân viên chia sẻ những ý tưởng hay đưa ra các mối quan tâm hoặc vấn đề mới, tổ chức sẽ đổi mới và hoạt động tốt hơn. Nhưng không phải lúc nào nhà quản lý cũng thúc đẩy ý tưởng của nhân viên.

Trên thực tế, họ thậm chí có thể chủ động bỏ qua những lo lắng của nhân viên và hành động theo những cách khiến nhân viên không thể lên tiếng.

Trong khi nhiều nghiên cứu hiện tại cho thấy rằng các nhà quản lý thường bị mắc kẹt trong cách làm việc của riêng họ và họ sợ lắng nghe những ý kiến trái chiều từ bên dưới, thì nghiên cứu mới đưa ra một quan điểm thay thế: các nhà quản lý thất bại trong việc xây dựng văn hoá, không phải chỉ từ việc họ tự cao tự đại, mà còn bởi vì tổ chức của họ đặt họ vào những vị trí không thể làm khác.

Họ phải đối mặt với hai rào cản khác biệt: Họ không được trao quyền để hành động dựa trên ý kiến đóng góp từ cấp dưới và họ cảm thấy bị bắt buộc phải chấp nhận một triển vọng ngắn hạn để làm việc.

Khi nhân viên chia sẻ những ý tưởng mới, đưa ra các mối quan tâm hoặc vấn đề mới, tổ chức sẽ đổi mới và hoạt động tốt hơn.

Nhân viên thường là những người đầu tiên nhìn thấy các vấn đề hiện có, vì vậy thông tin đóng góp của họ thực sự có thể giúp ích cho việc ra quyết định của các cấp quản lý.

Tuy nhiên, không phải lúc nào nhà quản lý cũng thúc đẩy ý tưởng hay các ý kiến đóng góp của nhân viên.

Điều này đưa ra một nghịch lý: Tại sao các nhà quản lý không khuyến khích tiếng nói và ý tưởng từ cấp dưới khi rõ ràng là nó có lợi cho họ và tổ chức của họ?

Nhiều nghiên cứu hiện tại về chủ đề này cho thấy rằng các nhà quản lý thường bị mắc kẹt trong cách làm việc của riêng họ và họ sợ lắng nghe những ý kiến ​​trái chiều từ bên dưới.

Trong những nghiên cứu gần đây của các Giáo sư đến từ trường kinh doanh Smith (Smith School of Business), của Đại học Maryland (University of Maryland):

“Các nhà quản lý thất bại trong việc xây dựng văn hoá, không phải chỉ từ việc họ tự cao tự đại, mà còn bởi vì tổ chức của họ đặt họ vào những vị trí không thể làm khác.

Họ phải đối mặt với hai rào cản khác biệt: Họ không được trao quyền để hành động dựa trên ý kiến đóng góp từ cấp dưới và họ cảm thấy bị bắt buộc phải chấp nhận một triển vọng ngắn hạn để làm việc.”

Lấy ví dụ giả định về Jane, một giám đốc sản xuất, người luôn cam kết với tổ chức và muốn hoàn thành tốt công việc đó của mình.

Jane biết rằng một số nhân viên của bà, những người ở gần dây chuyền sản xuất hơn bà, có thể có những ý tưởng hay để có thể cải thiện quy trình làm việc.

Tuy nhiên, trong tổ chức của Jane, các nhà quản lý không được trao quyền để thực hiện bất kỳ thay đổi nào mà không phải trải qua quy trình phê duyệt tập trung tại tru sở chính.

Bà cũng cảm thấy không được khuyến khích để dành thời gian tìm kiếm những cải tiến, vì bà chỉ được thưởng khi đạt được những thành công ngắn hạn như hoàn thành thời hạn hoặc hoàn thành các mục tiêu tiếp theo.

Giờ đây, Jane chắc chắn có thể khuyến khích nhân viên của mình nói lên các ý tưởng.

Nhưng bà biết rằng nếu bà làm như vậy, họ sẽ mong đợi bà nhanh chóng thực hiện những ý tưởng đó, đó là điều mà bà không thể làm được.

Bà cũng nhận ra rằng việc thực hiện các thực hành hoặc thay đổi mới, mặc dù hữu ích trong dài hạn, nó sẽ dẫn đến sự gián đoạn trong quy trình sản xuất trong ngắn hạn.

Với các mục tiêu sản xuất cuối quý đang ở mức thấp, Jane sẽ khó tìm được thời gian để bắt đầu các cuộc thảo luận về sự thay đổi.

Trong dữ liệu của mình, các nhà nghiên cứu cũng đã tìm thấy nhiều nhà quản lý khác gặp phải tình huống tương tự như Jane.

Họ thường làm việc trong môi trường không cung cấp cho họ quyền tự chủ để thay đổi mọi thứ. Họ trải nghiệm một cấu trúc ra quyết định tập trung, trong đó quyền lực nằm ở đầu hệ thống phân cấp và họ chỉ đơn thuần là “những người theo sau”.

Trong những trường hợp như vậy, ngay cả những nhà quản lý có thiện chí nhất cũng rất khó trong việc trưng cầu ý kiến ​​của nhân viên và thậm chí có thể bóp nghẹt họ.

Nghiên cứu.

Các nhà nghiên cứu đã thực hiện bốn nghiên cứu. Đầu tiên, họ có 160 sinh viên đóng vai trò là nhà quản lý trong một thử nghiệm hành vi, nơi họ phải giám sát một nhân viên hoàn thành những nhiệm vụ ảo nào đó.

Các nhà quản lý này không được trao quyền thực sự, đồng thời họ có rất ít quyền tự chủ về cách họ có thể hoàn thành nhiệm vụ. Tuy nhiên, họ có cơ hội để học hỏi và nhận ý kiến đóng góp hay ý tưởng từ nhân viên của mình.

Nhóm nghiên cứu muốn kiểm tra xem mức độ tự chủ trong vai trò của họ có ảnh hưởng đến sự sẵn sàng tìm kiếm các ý kiến ​​đóng góp từ bên dưới hay không.

Như dự báo, các nhà quản lý trong điều kiện tự chủ thấp ít có khả năng khuyến khích nhân viên của họ lên tiếng và cung cấp các ý kiến ​​đóng góp.

Trên thực tế, những người tham gia này chỉ ra rằng họ sẽ phân bổ ít hơn 25% thời gian để thảo luận các vấn đề công việc với nhân viên của họ so với những nhà quản lý có điều kiện tự chủ cao hơn.

Đối với nghiên cứu tiếp theo, các nhà nghiên cứu đã sử dụng 424 người cho một thử nghiệm hành vi khác.

Thông qua một nghiên cứu, nhóm nghiên cứu yêu cầu những người tham gia tưởng tượng mình là một nhà quản lý có đủ cơ hội tìm kiếm ý kiến ​​đóng góp từ nhân viên về việc cải thiện quy trình làm việc trong nhóm.

Những nhà quản lý mới này có quyền tự chủ về những gì họ làm để có thể hoàn thành nhiệm vụ được giao.

Ở đây, nghiên cứu nhận thấy rằng các nhà quản lý ở điều kiện trao quyền thấp có khả năng tìm kiếm phản hồi từ nhân viên của họ thấp hơn 30% so với những người ở điều kiện trao quyền cao hơn.

Nghiên cứu cũng nhận thấy rằng ngay cả những nhà quản lý cảm thấy được trao quyền trong thử nghiệm nhưng thiếu định hướng dài hạn, cũng không khác gì người đồng cấp không được trao quyền – tức họ cũng ít có khả năng tạo ra cơ hội cho nhân viên lên tiếng.

Các nhà quản lý chỉ tìm kiếm ý kiến ​​đóng góp từ bên dưới khi họ đồng thời được trao quyền và ủng hộ sự thành công trong dài hạn từ tổ chức của mình.

Các nhà nghiên cứu đã sao chép kết quả của mình trong hai cuộc khảo sát độc lập về các cặp nhân viên – quản lý thực tế từ nhiều tổ chức ở Mỹ (145 cặp) và Ấn Độ (200 cặp).

Các nhà quản lý đã báo cáo về mức độ trao quyền của họ tại tổ chức cũng như định hướng lâu dài của họ. Các nhân viên đã báo cáo về mức độ khuyến khích tiếng nói trong đội nhóm của họ. Các kết quả là nhất quán và có thể so sánh giữa hai quốc gia.

Ví dụ, ở Mỹ, các nhân viên báo cáo rằng các nhà quản lý không được trao quyền trưng cầu ý tưởng của họ ít hơn khoảng 15% so với các nhà quản lý được trao quyền.

Hơn nữa, trong cả hai nghiên cứu, các nhà quản lý có xu hướng tìm kiếm thêm ý tưởng và ý kiến ​​đóng góp từ cấp dưới khi họ không chỉ được trao quyền mà còn có định hướng dài hạn từ tổ chức.

Những bài học có được.

Chúng ta có xu hướng đổ lỗi cho các nhà quản lý khi họ không tạo ra được một văn hóa nơi mà các nhân viên có thể thoải mái đưa ra các ý kiến đóng góp.

Nhưng những phát hiện từ nghiên cứu chỉ ra rằng điều này là không hoàn toàn hợp lý khi các nhà quản lý còn phải chịu sự trao quyền từ tổ chức của chính họ.

Điều quan trọng là các tổ chức phải kiểm tra mức độ trao quyền đang ảnh hưởng như thế nào đến cảm giác tự chủ của các nhà quản lý trong công việc.

Điều quan trọng nữa mà các doanh nghiệp cần phải hiểu là chủ nghĩa ngắn hạn có thể làm giảm mức độ các ý tưởng từ bên dưới được đưa ra.

Nuôi dưỡng quan điểm dài hạn và mở ra cơ hội cho các nhà quản lý thoát khỏi những đòi hỏi tức thời của công việc có thể giúp đảm bảo rằng các nhà quản lý có khả năng thúc đẩy sự sáng tạo và đổi mới một cách tốt nhất trong đội nhóm của họ.

Phân bổ nhiều nguồn lực và ảnh hưởng hơn cho những nhà quản lý có định hướng dài hạn có thể giúp doanh nghiệp gặt hái được nhiều lợi ích hơn.

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: Link

Hà Anh | MarketingTrips

Nghiên cứu của Google cho thấy người Sếp giỏi thường làm hai điều này

Các nhà quản lý làm việc cho đội nhóm của họ chứ không phải ngược lại.

google

Google không phải lúc nào cũng đánh giá cao những người quản lý của mình.

Quay trở lại vào năm 2002, Google đã thực hiện một thử nghiệm để xem liệu các nhà quản lý có thực sự cần thiết với Google hay không bằng cách loại bỏ các vị trí đó ra khỏi biểu đồ tổ chức lúc bấy giờ của mình.

Và kết quả là, bài thử nghiệm không diễn ra như Google nghĩ. Google không chỉ nhận thấy rằng các nhà quản lý là yếu tố quan trọng trong tổ chức mà còn xác định được danh sách các thuộc tính làm cho một người Sếp trở nên hiệu quả và năng suất hơn.

Dưới đây là hai thuộc tính có giá trị về cách người quản lý có thể trao quyền cho đội nhóm của họ.

Có năng suất và định hướng kết quả.

Google nhận thấy rằng một trong những vai trò quan trọng nhất mà người quản lý có thể thực hiện là dự đoán các rào cản tiềm ẩn và chủ động loại bỏ nó cho đội nhóm của họ.

“Huấn luyện, giao tiếp tốt và hợp tác là tất cả những điều quan trọng, nhưng nếu vào cuối ngày, nếu bạn không thể mang lại kết quả, thì không có kỹ năng nào khác trong số chúng có thể quan trọng.”

Để đảm bảo rằng các đội nhóm của họ luôn đi đúng hướng, những người quản lý của Google đạt điểm cao nhất đã phát triển các thói quen sau:

  • Giữ cho đội nhóm tập trung vào kết quả.
  • Ưu tiên việc giúp đỡ đội nhóm.
  • Loại bỏ các rào cản.
  • Rõ ràng về việc ai làm hay chịu trách nhiệm về điều gì.
  • Là một người chăm chỉ; thiết lập tốc độ cho đội nhóm.

Khi các đội nhóm bị lôi cuốn vào những vấn đề phụ, nhỏ lẻ hay bổ sung, mục tiêu chính ban đầu của họ sẽ giảm dần theo thời gian.

Thoạt nghe thì đây có vẻ không phải vấn đề lớn, nhưng trước khi bạn biết điều đó, bạn có thể nhận ra rằng bạn đã không đạt được bất cứ sự tiến bộ nào so với mục tiêu chính của mình ngoài những mục tiêu nhỏ lẻ kia.

Các nhà quản lý giỏi ngăn chặn điều này xảy ra bằng cách giữ cho đội nhóm của họ luôn tập trung. Họ giúp nhân viên của mình nói không với những điều kém quan trọng và loại bỏ những trở ngại cản đường họ.

Có đủ kỹ năng chuyên môn để cố vấn cho đội nhóm.

Để các nhà quản lý trở nên đáng tin cậy hơn đối với đội nhóm của họ, họ phải có khả năng nhảy vào và giải quyết các vấn đề chuyên môn khi có bất trắc xảy ra. Các nhà quản lý của Google thường xuyên thể hiện những hành vi này:

  • Làm việc cùng với đội nhóm của họ.
  • Hiểu những thách thức của từng công việc.
  • Giúp nhân viên giải quyết các vấn đề dựa trên kỹ năng và kiến thức chuyên môn của họ.

Thông điệp mà những hành vi này gửi đi là người quản lý không phải là người ‘chỉ tay năm ngón’. Nó báo hiệu rằng công việc là ưu tiên quan trọng nhất chứ không phải vị trí hay chức vụ.

Google đã tổng kết điều này bằng cách đưa ra một tuyên ngôn mạnh mẽ: “Các nhà quản lý làm việc cho đội nhóm của họ chứ không phải điều ngược lại”.

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: Link

Hà Anh | MarketingTrips

Đây là 6 điều mà Google dạy những nhà quản lý mới của mình

Theo Google, quá trình chuyển đổi sang tầm quản lý đòi hỏi một sự chuyển đổi lớn về tư tưởng từ phía nhân viên.

CEO Google – Sundar Pichai

Quá trình chuyển đổi từ một người đóng góp cá nhân thành nhà quản lý không phải là một việc dễ dàng.

Trong nhiều trường hợp, những kỹ năng giúp bạn thăng tiến với tư cách là một nhân viên sẽ không giống với những kỹ năng giúp bạn trở nên hiệu quả với tư cách là nhà quản lý.

May mắn thay, chúng ta có những tổ chức như Google đã dành nhiều năm để nghiên cứu về quá trình chuyển đổi này, từ đó giúp chúng ta khám phá ra những bí mật thành công của các nhà quản lý mới.

Thông qua một nghiên cứu nội bộ đã phân tích hơn 10.000 nhà quản lý bao gồm đánh giá hiệu suất, khảo sát, các giải thưởng nhận được và sự công nhận của những nhà quản lý cấp cao, Google đã xác định những thuộc tính của các nhà quản lý hiệu quả cao.

Những thuộc tính này giờ đây đã trở thành ‘kim chỉ nam’ để Google hướng dẫn và đạo tạo những nhà quản lý mới của mình.

Dưới đây là chi tiết từng thuộc tính.

1. Tư duy và giá trị.

Thực hiện nghiên cứu từ Bà Carol Dweck, giáo sư tâm lý học tại Đại học Stanford, Google khuyến khích các nhà quản lý của mình phát triển tư duy tăng trưởng (growth mindset).

Trái ngược với một tư duy cố định (fixed mindset), người vốn có niềm tin rằng các kỹ năng và khả năng là được xác định trước, những cá nhân có tư duy tăng trưởng tin rằng trí thông minh có thể được trau dồi.

Ý tưởng đơn giản này giúp các nhà lãnh đạo ham học hỏi, thử thách bản thân và thử nghiệm nhiều hơn, và từ đó giúp nâng cao hiệu suất của họ hơn.

Mặc dù thành công luôn đòi hỏi sự kiên trì, chăm chỉ và tập trung, nhưng nghiên cứu này cũng cho thấy giá trị ‘tiềm ẩn’ và cần thiết của sự lạc quan.

Ngoài ra, Google khuyến khích các nhà quản lý của mình xác định các giá trị và tận dụng chúng trong phong cách quản lý của họ.

Mục đích không phải là áp đặt các giá trị đã định sẵn, mà là để trao quyền cho các nhà lãnh đạo tận dụng đạo đức cá nhân của họ để thúc đẩy ý nghĩa và tác động sâu sắc hơn đến công việc của mình.

2. Trí tuệ cảm xúc (E.I.)

Theo Daniel Goleman và Richard Boyatzis (các chuyên gia về vấn đề này), “trí tuệ cảm xúc là khả năng nhận biết và thấu hiểu cảm xúc của bản thân và người khác, đồng thời tận dụng nhận thức này để quản lý hành vi và các mối quan hệ của bạn”. Nói cách khác, đó là việc bạn có ý thức tự giác cao hơn.

Các nhà quản lý có khả năng tự nhận thức sẽ đưa ra những quyết định tốt hơn, giao tiếp hiệu quả hơn và dễ gần gũi hơn.

Theo Goleman, lãnh đạo dựa trên trí thông minh cảm xúc là động lực quan có thể thúc đẩy 20 đến 30% hiệu suất của tổ chức.

3. Chuyển đổi nhà quản lý.

Khi những người hướng dẫn khuyến khích những người giám sát mới chia sẻ những thách thức và thất vọng trong quá trình chuyển đổi lên nhà quản lý của họ với các đồng nghiệp của mình, họ đồng thời dạy rằng việc dễ bị tổn thương và trung thực là điều nên có.

Khi các nhà quản lý cởi mở và kể câu chuyện của họ một cách chân thực, những người khác sẽ reo hò và sẵn sằng để hỗ trợ thực hiện những chiến lược mới.

4. Huấn luyện.

Thông qua một số nghiên cứu, người ta thấy rằng phẩm chất số một của những nhà quản lý hiệu quả là một huấn luyện viên giỏi. Google định nghĩa huấn luyện tốt là:

  • Đưa ra phản hồi kịp thời và cụ thể;
  • Cung cấp những phản hồi khó khăn một cách có động lực và chu đáo;
  • Điều chỉnh các phương pháp tiếp cận để đáp ứng các phong cách giao tiếp cá nhân trong các cuộc họp trực tiếp thông thường;
  • Thực hành lắng nghe “tích cực” đồng cảm;
  • Nhận thức được suy nghĩ của riêng bạn và của nhân viên; và
  • Đặt câu hỏi mở để khám phá sự nhạy bén của nhân viên.

5. Phản hồi.

Lời nói của nhà quản lý có sức mạnh hoặc là xây dựng hoặc là tàn phá. Google hiểu rõ sự nhạy cảm này và dạy những nhà quản lý của mình tính không thiên vị khi cung cấp phản hồi trong đội nhóm của họ, cân bằng phản hồi tích cực (động lực) và tiêu cực (phát triển), xác thực và đánh giá cao, đồng thời nêu rõ các cơ hội phát triển một cách vị tha.

6. Ra quyết định.

Để đảm bảo rằng các phán quyết không được đưa ra một cách chủ quan, Google đã thiết lập một quy trình để giúp các nhà quản lý đưa ra quyết định tốt hơn.

  • Bạn đang giải quyết vấn đề gì? Nguyên nhân gốc rễ của nó là gì?
  • Tại sao nó lại quan trọng? (Nó có hỗ trợ các mục tiêu kinh doanh khác không?)
  • Ai là người ra quyết định?
  • Quyết định sẽ được thực hiện như thế nào?
  • Khi nào mọi người có thể mong đợi một quyết định? (Các bên liên quan phải theo dõi và quản lý sự kỳ vọng.)

Ngoài ra, để đảm bảo đưa ra các quyết định sáng suốt, Google khuyến khích các nhà quản lý thử nghiệm ý tưởng của họ bằng cách thu thập ý kiến ​​phản hồi của nhân viên (nêu quan điểm, lập luận của cá nhân và cung cấp dữ liệu).

Theo Google, khoảng 75% những nhà quản lý kém hiệu quả đã được cải thiện sau khi triển khai chương trình này.

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: Link

 

Hà Anh | MarketingTrips