Tại sao chúng ta cần triết học (P1)
“Để giành được tự do thật sự, anh phải làm nô lệ cho triết học”. Epicurus
Thời còn là sinh viên đại học, khi tôi nói với mọi người rằng tôi đang tính chọn triết học làm chuyên ngành chính, họ thường nhìn tôi với một chút kinh hoàng pha lẫn hoang mang, cứ như thể tôi vừa bảo với họ rằng tôi định dí một cục bơ vào mông. Một người bạn thậm chí còn nói đến độ này, “Này anh bạn, sao anh lại làm như vậy với bản thân?”
TRIẾT HỌC LÀ GÌ?
“Khoa học là những điều bạn đã biết. Triết học là những điều mà bạn còn chưa biết.”
— Bertrand Russell
Đây là một điều hài hước nhỏ về những lời chỉ trích đối với triết học: để chỉ trích triết học thì bạn phải tham gia vào triết học.
Triết học là sự nghiên cứu về hiểu biết của chúng ta về thực tế, kiến thức, và cách chúng ta nên sống. Khi bạn xâu chuỗi các suy nghĩ lại với nhau thành một hệ thống niềm tin nhất quán, bạn đang dệt nên một triết lý.
Khi bạn đưa ra những nhận định về giá trị để xác định điều gì là tốt và xấu, thì bạn đang dựa trên một triết lý. Khi bạn đang cười nhạo sự lố bịch của một cuốn sách có những câu chẳng hạn như thế này, “Việc tồn tại chính là bản chất của một sự vật hiện hữu,”—tôi cũng ghét phải báo cho bạn biết rằng, bạn đang dấn thân vào triết học.2
Do đó, triết học không thể bị loại bỏ bởi lý do đơn giản là nó bao trùm tất cả trải nghiệm có ý thức. Để phê bình triết học thì bạn phải dựa trên một cấp độ triết lý nào đó. Để đạp lên khung hiểu biết có tính hệ thống, bạn phải tạo ra một khung hiểu biết có hệ thống khác.
Vấn đề logic nho nhỏ này được gọi là “mâu thuẫn biểu hiện (performative contradiction).” Và nó đến từ đâu? Đúng rồi, mẹ kiếp: nó đến từ triết học.
Triết học rút lại còn ba câu hỏi lớn:3
Điều gì là sự thật về sự tồn tại? (Siêu hình học)
Làm thế nào chúng ta có thể biết được nó là sự thật? (Nhận thức luận)
Chúng ta cần làm gì từ kiến thức này? (Đạo đức)
Tôi sẽ đáp lại rằng, “Chính nó,” nhưng cả ba câu hỏi này đã dẫn đến hàng ngàn năm thẩm tra và tranh luận với rất ít sự đồng thuận trong bất kỳ câu hỏi nào.
Điều đó nghe có vẻ ngớ ngẩn nhưng không có nghĩa là triết học không đạt được những tiến bộ to lớn. Qua nhiều thiên niên kỷ, nhận thức luận đã mang đến cho chúng ta khoa học, logic/lý luận, kinh tế học, tâm lý học và nhiều lý thuyết tri thức làm nền tảng cho hệ thống chính trị và xã hội của chúng ta ngày nay.
Tương tự vậy, qua nhiều thiên niên kỷ, hiểu biết của chúng ta về đạo đức đã tiến bộ đến mức chúng ta không còn bắt phần đông dân số làm nô lệ, thiêu sống con người vì niềm tin của họ, hay nhìn người khác bị ăn tươi nuốt sống bởi những con sư tử hung hãn trong đấu trường để giải trí cuối tuần.
Ngày nay, các khái niệm như dân chủ và nhân quyền nói chung đã được chấp nhận trên toàn thế giới. Trên thực tế, “vòng tròn mở rộng” của sự thấu cảm đã phát triển rất nhiều trong những thế kỷ gần đây, đến nỗi giờ đây chúng ta không chỉ quan tâm đến phúc lợi của con người, mà chúng ta còn xem việc đối xử với động vật và môi trường cũng là các vấn đề đạo đức.4
Và về mặt siêu hình học… trong bốn trăm năm qua, chúng ta đã đi từ, “Tôi tư duy; do đó tôi tồn tại,”5 đến “Có thể bạn đang sống trong một giả lập máy tính khổng lồ?”6
Uhm, Tôi nghĩ đó là sự tiến bộ?
TẠI SAO TRIẾT HỌC LẠI QUAN TRỌNG?
“Cuộc đời không suy xét là cuộc đời không đáng sống.”
– Socrates
Triết học quan trọng vì đến một thời điểm nào đó trong cuộc đời, tất cả chúng ta đều phải tự mình hỏi và trả lời những câu hỏi ấy.
Sự thật là gì?
Tại sao tôi tin rằng nó là sự thật?
Tôi nên sống như thế nào dựa trên những điều mà tôi tin tưởng?
Việc không trả lời được một hoặc nhiều câu hỏi này sẽ nhanh chóng dẫn đến thứ mà chúng ta nhìn chung gọi là một sự khủng hoảng tinh thần hay cảm xúc—chúng ta rơi vào trầm cảm, sa vào lo âu, phải vất vả để tìm kiếm cảm giác ý nghĩa hoặc mục đích.
Do đó, triết học có tác động ngay lập tức và sâu sắc đến hạnh phúc và cuộc sống hàng ngày của chúng ta. Một người đàn ông biết mình là một nhân viên bán hàng xuất sắc. Toàn bộ bản sắc của anh ấy được gói gọn trong khả năng hoàn thành công việc và gây ấn tượng với đồng nghiệp.
Rồi đến một ngày nọ, anh ta bị sa thải. Và anh ta không chỉ nhận ra những gì anh ta tin là đúng hóa ra lại sai, mà giờ đây nó còn đặt nghi vấn về những hành động và động cơ của anh ấy trong hai mươi năm qua. Anh ta không biết điều gì là sự thật. Anh ta không tin tưởng nơi bản thân để khám phá ra sự thật. Anh không còn biết được mình phải làm gì nữa. Anh bị suy sụp về tinh thần và cảm xúc.
Những loại sự kiện này đều xảy đến với chúng ta. Chúng có thể được kích hoạt bởi sự ra đi của một người thân yêu, một nỗi lo sợ về sức khỏe, hay bị ăn hành trong công việc.
Nhưng cấu trúc tinh thần của chúng ta về cách chúng ta nhìn nhận và hiểu về thế giới bị sụp đổ và chúng ta thấy mình lạc lõng, không thể xác định đâu là sự thật về bản thân chúng ta, về cuộc sống của ta và về thế giới.
Trên thực tế, bạn có thể từng nghe nói đến những loại trải nghiệm được gọi là một cuộc “khủng hoảng hiện sinh”—như trong, “chồng của Jane làm tình với gã đưa thư và giờ đây cô ấy đang gặp phải một cuộc khủng hoảng hiện sinh.
”Nó là một thuật ngữ ban đầu được vay mượn từ các triết gia hiện sinh như Søren Kierkegaard và Jean-Paul Sartre và kể từ đó đã trở thành một trụ cột trong tâm lý học và tâm thần học.
Các triết gia hiện sinh nói rằng để lấy lại sức mạnh tinh thần và sự điềm tĩnh, chúng ta cần dựng lại một giàn giáo tinh thần—chúng ta phải định nghĩa lại những điều chúng ta biết là sự thật, làm sao chúng ta biết được nó là sự thật, và cách nó điều khiển hành động của ta.
Chúng ta phải tìm ra những nguồn ý nghĩa mới, những định nghĩa cơ bản hơn về bản sắc tâm lý và mục đích, những nguyên tắc hữu ích hơn để quan hệ với thế giới.
Trên nhiều phương diện, kiểu nâng cấp triết học này là cái mà trị liệu được thiết kế để giúp chúng ta làm. Những dạng thực hành như thiền định hoặc viết nhật ký cũng có thể hữu ích.
Sử dụng các công cụ đó, chúng ta có thể từ từ đánh giá lại những giá trị của chúng ta, thay đổi niềm tin của chúng ta và thực hiện những hành động mới để tạo ra một cuộc đời tốt đẹp hơn cho bản thân…
…tức là, chúng ta có thể thực hành triết học.
Triết học dạy chúng ta những kỹ thuật cơ bản để tìm thấy ý nghĩa và mục đích trong một thế giới nơi không có ý nghĩa cho trước, không có ý nghĩa vũ trụ. Triết học cho chúng ta những công cụ để xác định được điều gì có thể là quan trọng và đúng đắn và những gì có khả năng là phù phiếm và ngụy tạo.
Triết học chỉ cho ta những nguyên tắc giúp định hướng hành động của chúng ta, xác định giá trị bản thân và những giá trị của chúng ta, tạo ra một từ trường để định hướng la bàn nội tâm của chúng ta, nhờ vậy mà chúng ta không bao giờ cảm thấy mất phương hướng nữa.
TRIẾT HỌC TRONG THẾ KỶ 21
“Khi bạn chiến đấu với quái vật hãy cẩn thận đừng để mình biến thành quái vật. Khi bạn chăm chú nhìn vực sâu cũng là lúc vực sâu đang chăm chú nhìn bạn.”
– Friedrich Nietzsche
Nếu tất cả chúng ta đều cần trả lời ba câu hỏi căn bản ấy để bản thân vẫn luôn giữ được sự lành mạnh về tâm thần và cảm xúc, thì tôi cho rằng cuộc sống ở thế kỷ 21 đã phá hoại khả năng trả lời những câu hỏi đó của chúng ta không giống những gì trước đây.
Điều gì tôi biết là sự thật? Tình trạng ngập lụt thông tin thật trớ trêu, không làm chúng ta tự tin hơn vào những gì là đúng và sai, mà thật ra lại kém hơn.
Giữa tin giả, khoa học tệ hại, tin đồn trên mạng xã hội, tiếp thị và tuyên truyền thao túng tâm lý, thật khó mà biết được liệu bạn có thể tin tưởng vào thông tin mà bạn đã đọc được hay không hơn bất kỳ thời điểm nào trước đây.
Làm sao tôi biết được nó là sự thật? Hơn nữa, các phương pháp truyền thống nhằm xác thực điều chúng ta biết về thế giới đang bị chỉ trích. Khoa học đang phải đối mặt với một cuộc khủng hoảng sao nhân bản trên diện rộng.7 Những vụ bê bối tham nhũng đang bị phanh phui ở hầu như mọi tổ chức lớn.
Các nhà chức trách thì không đáng tin. Và như đổ thêm dầu vào lửa, chúng ta ngày càng nhận thức rõ hơn về thiên hướng đối với những thành kiến, định kiến phi lý và những giả định sai lầm của chúng ta. Chúng ta không những không biết điều gì là sự thật mà nhiều lúc chúng ta thậm chí còn không biết cách phát hiện đâu là sự thật.
Dựa theo những gì tôi tin tưởng, tôi nên sống như thế nào? Không biết đâu là sự thật cũng như làm cách nào để tìm ra sự thật, chúng ta nên sống thế nào ngày càng trở nên thiếu rõ ràng hơn bao giờ hết. Thứ gì là tốt? Thứ gì là hữu ích? Thứ gì là quan trọng? Chúng ta đều tin rằng mình biết, nhưng nhìn chung thì có một sự bất định mà tôi nghĩ là đang tràn ngập hầu hết mọi nền văn hóa của chúng ta và tạo ra cảm giác lo lắng hiện sinh, bất an thường trực.
Triết học trở nên quan trọng hơn bao giờ hết vì nó đã suy ngẫm sâu sắc những câu hỏi này suốt hàng ngàn năm. Nó đã nhận thức được những cạm bẫy và sai lầm trong tâm trí con người, về sự không thể đi đến kết luận của mọi tri thức, về nhiệm vụ gần như là bất khả thi của việc giải mã điều tốt trên phương diện đạo đức và hành động theo nó.
Khi nói đến những câu hỏi hiện sinh này, chúng ta có thể đứng trên vai của nhiều người khổng lồ.
Dưới đây, tôi đã viết về ba cách thức đặc biệt mà triết học có thể cải thiện cuộc sống của bạn. Nó giúp bạn hoài nghi tốt hơn về những gì bạn đã biết. Nó giúp bạn lựa chọn cách sống. Và nó giúp bạn gây ảnh hưởng đến thế giới.
Tôi sẽ đi qua từng chủ đề và sau đó ở cuối bài viết, tôi sẽ đề xuất một số cuốn sách cũng như gợi ý về cách bắt đầu tự tìm hiểu về các tư tưởng triết học.
TRIẾT HỌC GIÚP BẠN HOÀI NGHI VỀ NHỮNG ĐIỀU BẠN ĐÃ BIẾT
“Điều duy nhất mà tôi biết đó là tôi không biết gì cả.”
—Socrates
Cái hay của triết học là nó luôn ở trong trạng thái hoài nghi. Không có dạng kiến thức nào chắc chắn đến nỗi triết học không thể túm cổ nó và uốn nắn nó một vài lần.
Hãy lấy ví dụ về René Descartes. Năm 1641, Descartes quyết định giải quyết câu hỏi triết học lớn đầu tiên: “Những gì tôi biết là sự thật?”
Trong khoảng 10 trang viết, Descartes sớm nhận ra gần như không có thứ gì mà bạn có thể nghĩ ra mà bạn lại không thể tưởng tượng ra một cách mà nó không đúng. Căn phòng bạn đang ngồi trong đó—nó có thể là một ảo giác. Những ký ức của bạn có thể được bịa ra hoặc ngụy tạo. Những tin tức mà bạn đọc hoặc nghe, là một lời nói dối được dàn dựng công phu.
Descartes còn đi xa tới mức đề ra thứ mà ngày nay chúng ta gọi là kịch bản “Ma trận”: rằng chúng ta có thể đang ngủ và toàn bộ cuộc đời này là một giấc mơ. Trên thực tế, ngay cả những lựa chọn và quyết định của chúng ta cũng có thể bị một số thế lực tà ác, thao túng nào đó kiểm soát.
Khả năng tự chủ của chúng ta có thể chỉ là một ảo tưởng. Ông ấy tạo ra một thí nghiệm ý nghĩ về một con ác quỷ có thể lừa bạn tin rằng bạn đang còn sống và được tự do và tận hưởng buổi chiều tuyệt vời này bằng một ly sữa lắc. Nhưng, chẳng có cái nào là thật cả.
Do đó, cuối cùng, Descartes nhận ra điều duy nhất mà ông ấy có thể nói một cách tuyệt đối chắc chắn đó là ông đang tồn tại. Có thể căn phòng là giả. Có lẽ thế giới chỉ là một giấc mộng. Có lẽ gia đình và bạn bè ông chưa từng tồn tại.
Nhưng trước thực tế rằng ông có thể đặt ra những câu hỏi đó ngay từ đầu—thực tế rằng có một cái gì đó biết ý thức và nhận thức —ông ta phải đang tồn tại ở dạng thức nào đó. Sau đó ông đã viết ra một trong những dòng nổi tiếng nhất từ trước đến nay: cogito, ergo sum.8
“Tôi tư duy; do đó tôi tồn tại.”
Việc phê phán tri thức của Descartes giúp xoá đi quá khứ lầm lạc và mở đường cho một sự bùng nổ trí tuệ sáng tạo ở châu Âu, kể từ đó được gọi là Thời kỳ Khai sáng. Descartes tin rằng sự hiểu biết sâu sắc của ông sẽ mang đến một khởi đầu mới mẻ cho siêu hình học (hoặc câu hỏi “Chúng ta có thể biết điều gì là sự thật?”) và sẽ đặt nền tảng cho một dạng hiểu biết mới—một hiểu biết dựa trên logic, lý trí và bằng chứng.
Descartes tin rằng khả năng tiếp cận sự thật duy nhất của chúng ta là thông qua toán học, rằng nhận thức của chúng ta là không đáng tin.
Và quả thật, ông đã đúng. Descartes có ảnh hưởng to lớn đến một phương pháp (luận) hiểu biết mới mà sau này được gọi là triết học tự nhiên, hay cái mà ngày nay chúng ta gọi là “khoa học.”
Nhưng sự điên rồ không dừng ở đó. Khoảng 100 năm sau Descartes, triết gia người Scotland David Hume, ở tuổi 29, đã xuất bản cuốn A Treatise on Human Nature (Luận thuyết về bản chất con người), trong đó ông xóa bỏ quan điểm về nguyên nhân/kết quả và/hoặc giả định cho rằng chúng ta có thể dự đoán được bất cứ chuyện gì.
Hãy thứ lỗi cho tôi ở đây, vì điều này nghe có vẻ điên rồ. Hume nói rằng, theo logic mà nói, không thể chứng minh được bất cứ điều gì sẽ xảy ra trong tương lai, bất kể việc nó đã xảy ra với tần suất hay mức độ thường xuyên trong quá khứ.
Nếu mặt trời mọc ở phía đông hàng ngày trong hàng triệu năm, điều đó vẫn không chứng tỏ được rằng nó sẽ mọc lại ở phía đông vào ngày mai. Nó chỉ đơn giản làm cho nó có khả năng điên rồ rằng nó sẽ mọc ở phía đông.
Hết phần 1 !
Tham gia Cộng đồng We’re Marketer để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: Link
Hà Anh | MarketingTrips
Theo Tâm Lý Học Tội Phạm