Skip to main content

Thẻ: cạnh tranh

Bối cảnh cạnh tranh trong kỷ nguyên của các gã khổng lồ trực tuyến

Nhờ vào sự phát triển của yếu tố công nghệ, nhiều doanh nghiệp hay chính xác là các gã khổng lồ đang trở thành những “con cá mập” tìm cách đánh chiếm các “đại dương lớn”, chính điều này đã không chỉ tạo ra vô số các thách thức cho doanh nghiệp nhỏ hơn mà còn kéo theo nhiều vấn đề khác liên quan đến việc mất bình đẳng và sự ổn định của xã hội. Hãy cùng MarketingTrips khám phá chi tiết hơn trong bài viết này.

Cạnh tranh trong kỷ nguyên của các gã khổng lồ trực tuyến
Cạnh tranh trong kỷ nguyên của các gã khổng lồ trực tuyến

Trong bối cảnh kinh tế hiện tại, một số ít các gã khổng lồ trực tuyến như Alibaba, Amazon, Microsoft, Google hay Meta đã trở thành một “tổ hợp trung tâm” khi các doanh nghiệp này đang sở hữu và kiểm soát hàng tỷ khách hàng, thứ mà gần như tất cả các doanh nghiệp khác đều thèm muốn.

Các tổ hợp trung tâm này thúc đẩy lợi nhuận ngày càng tăng theo quy mô và nhận được một phần giá trị không tương xứng với những gì tạo ra trong nền kinh tế toàn cầu.

Các nhà phân tích cho rằng nền kinh tế trung tâm (hub economy) sẽ tiếp tục lan rộng ra nhiều ngành hơn, tập trung nhiều quyền lực hơn vào tay một số ít doanh nghiệp, thứ cuối cùng có thể biến họ trở thành một gã khổng lồ trong ngành.

Mối nguy hiểm là điều này sẽ làm trầm trọng thêm tình trạng bất bình đẳng kinh tế và đe dọa sự ổn định xã hội.

Đứng trước bối cảnh đó, để có thể duy trì được vị thế cạnh tranh, các doanh nghiệp nhỏ hơn, các doanh nghiệp truyền thống, hay các công ty khởi nghiệp phải liên tục thay đổi và sáng tạo trong cách thức kinh doanh của mình.

Ở khía cạnh ngược lại với các gã khổng lồ, tức các doanh nghiệp lớn, cần phải có trách nhiệm vì lợi ích của tất cả mọi người, không chỉ tạo ra và nắm bắt giá trị riêng mà còn là để hỗ trợ các doanh nghiệp khác trong hệ sinh thái.

Nền kinh tế toàn cầu đang xoay quanh một vài gã khổng lồ công nghệ (kỹ thuật số).

Hãy thử nhìn vào các gã khổng lồ như Alibaba, Alphabet/Google, Amazon, Apple, Baidu, Facebook, Microsoft và Tencent, đây thực là những tổ hợp trung tâm của nền kinh tế.

Trong khi cũng tạo ra giá trị thực sự cho người dùng, các doanh nghiệp này cũng đang chiếm được một phần giá trị không cân xứng và ngày càng được mở rộng theo quy mô, đồng thời cũng góp phần định hình lại tương lai của nền kinh tế tập thể (collective economic).

Ngoài việc thống trị các thị trường riêng lẻ, các tổ hợp trung tâm trong nền kinh tế trung tâm cũng xây dựng và kiểm soát các kết nối thiết yếu trong mạng lưới kinh tế toàn cầu.

Android của Google và các công nghệ liên quan đã giúp hình thành khả năng sở hữu quyền truy cập vào hàng tỷ người tiêu dùng di động trên toàn cầu, thứ mà bất kỳ doanh nghiệp nào và kinh doanh gì cũng đều muốn tiếp cận.

Google không chỉ đơn giản là trung gian hưởng lợi từ các giao dịch phát sinh mà còn ảnh hưởng cả đến những luồng thông tin và dữ liệu được thu thập trên hệ sinh thái.

Các sàn thương mại điện tử (eCommerce) của Amazon và Alibaba cũng kết nối với một số lượng lớn người dùng, nhà bán lẻ và nhà sản xuất. Hay nền tảng nhắn tin WeChat của Tencent cũng tập hợp hơn 1 tỷ người dùng toàn cầu.

Càng nhiều người dùng tham gia các mạng lưới này, các doanh nghiệp càng trở nên hấp dẫn trong mắt người tiêu dùng hay thậm chí có không ít người tiêu dùng còn coi đó là thứ thiết yếu (vì nhiều người khác đang dùng).

Bằng cách thúc đẩy lợi nhuận ngày càng tăng theo quy mô và kiểm soát các nút thắt cạnh tranh quan trọng, các gã khổng lồ này lại trở nên mạnh hơn, chính điều này đã tạo ra những chia sẻ giá trị không tương xứng (giữa các bên) đồng thời vượt qua cả cán cân cạnh tranh toàn cầu (competitive balance).

Các gã khổng lồ hay các tổ hợp trung tâm (hub firm) vốn không cạnh tranh theo kiểu truyền thống (traditional competition), tức cạnh tranh với các sản phẩm hoặc dịch vụ hiện có, bán với giá thấp hơn hay cải tiến thêm các tính năng mới.

Thay vào đó, họ sử dụng cái được gọi là sức mạnh dựa trên mạng lưới (network-based power) đã được xây dựng đến một quy mô đủ lớn trước đó và sau đó sử dụng chúng để tham gia vào một ngành công nghiệp khác.

Các doanh nghiệp này cũng sẽ “tái cấu trúc” cấu trúc cạnh tranh của chính nó, chuyển đổi nó từ định hướng sản phẩm (product-driven) sang định hướng mạng lưới hay hệ thống (network/systemt-driven), những thứ được xem là lợi thế cạnh tranh mà họ đã kiểm soát trước đó.

Ví dụ: công ty con chuyên về mảng tài chính Ant Financial (Ant) của Alibaba không chỉ cung cấp những dịch vụ thanh toán tốt hơn, thẻ tín dụng tốt hơn hoặc dịch vụ quản lý đầu tư tối ưu hơn (so với các đối thủ cạnh tranh khác); nó tận dụng các dữ liệu rộng lớn sẵn có của Alibaba (công ty mẹ) để biến các dịch vụ tài chính truyền thống thành các hàng hoá thông thường (Commodity) đồng thời tổ chức lại một phần lớn trong lĩnh vực tài chính tại thị trường Trung Quốc xung quanh nền tảng Ant Financial (Ant Financial platform).

Chỉ trong vòng 3 năm kể từ khi được thành lập, Ant đã có hơn nửa tỷ người dùng và có kế hoạch mở rộng ra ngoài Trung Quốc.

Điều tương tự cũng xảy ra đối với các đế chế như Google, Microsoft hay Amazon.

Nếu xu hướng này tiếp tục diễn ra, nền kinh tế trung tâm (hub economy) sẽ lan rộng ra nhiều ngành công nghiệp hơn, tập trung hơn nữa các yếu tố như dữ liệu, giá trị và quyền lực vào tay một số ít doanh nghiệp chỉ sử dụng một phần rất nhỏ lực lượng lao động (vì cơ bản mọi thứ được tự động hoá và giá trị có được từ lợi thế về quy mô), sự bất bình đẳng xã hội và nên kinh tế suy yếu là điều tất yếu.

Đứng trước bối cảnh “khốc liệt” này, không ít người sẽ tự hỏi, liệu xu hướng này của nền kinh tế có được thay đổi hay đảo ngược không. Câu trả lời phù hợp nhất có lẽ là KHÔNG.

“Nền kinh tế trung tâm” vẫn sẽ ở đó nhưng hầu hết các doanh nghiệp sẽ không trở thành trung tâm (Hubs), và họ sẽ cần phản ứng một cách khôn ngoan trước sự tập trung ngày càng tăng của cái gọi là quyền lực trung tâm (Hub Power).

Số hóa hay chuyển đổi số năng lực vận hành như cách mà người ta vẫn hô hào sẽ là không đủ. Ví dụ, các nền tảng nhắn tin kỹ thuật số (WhatsApp hay Zalo) đã giáng một đòn mạnh vào các nhà cung cấp dịch vụ viễn thông (Viettel, MobiFone); các nhà cố vấn đầu tư vẫn phải đối mặt với các mối đe dọa từ các công ty dịch vụ tài chính trực tuyến.

Trong kỷ nguyên này, để duy trì tính cạnh tranh, các doanh nghiệp sẽ cần phải sử dụng tài nguyên (con người, tài chính, công nghệ…) và năng lực của mình theo cách khác, chuyển đổi hoạt động kinh doanh cốt lõi, phát triển thêm các cơ hội tăng doanh thu mới và xác định các lĩnh vực có thể được bảo vệ khỏi sự xâm chiếm của các gã khổng lồ.

Mark Zuckerberg (hiện là CEO Meta) cũng đã từng tuyên bố trong bài diễn văn tốt nghiệp ở Harvard vào tháng 5 năm 2017 rằng: “Chúng ta đang chứng kiến một mức độ bất bình đẳng cao đến mức gây tổn thương đến mọi người. Kinh doanh như bình thường không phải là một lựa chọn tốt.”

Hiệu ứng Domino kỹ thuật số.

Sự xuất hiện của các gã khổng lồ hay doanh nghiệp trung tâm bắt nguồn từ 3 nguyên tắc của lý thuyết về mạng lưới và số hóa.

Đầu tiên là định luật Moore (Moore Law), nói rằng sức mạnh xử lý của máy tính (computer processing) sẽ tăng gấp đôi sau mỗi hai năm. Điều này hàm ý là những cải tiến về hiệu suất và công nghệ sẽ thúc đẩy việc tăng cường hay thậm chí là thay thế hoạt động của con người bằng các công cụ kỹ thuật số (Digital Tools).

Khi hầu hết các doanh nghiệp ngày nay đều cần công nghệ và liên quan đến công nghệ, điều này sẽ ảnh hưởng rất lớn đến toàn bộ nền kinh tế.

Nguyên tắc thứ hai liên quan đến sự kết nối (connectivity). Hầu hết các thiết bị máy tính ngày nay đều có kết nối mạng tích hợp cho phép chúng giao tiếp được với nhau. Trong khi các mạng lưới kỹ thuật số không ngừng phát triển, các công nghệ kỹ thuật số hiện đại sẽ cho phép việc chia sẻ thông tin với chi phí gần như là bằng không.

Định luật Metcalfe cho rằng giá trị của mạng lưới sẽ tăng theo số lượng các điểm kết nối hoặc người dùng (user), động lực vốn được gọi là hiệu ứng mạng.

Điều này có nghĩa là các công nghệ kỹ thuật số đang cho phép doanh nghiệp tăng trưởng đáng kể về giá trị khi kết hợp các điểm kết nối lại với nhau với mục tiêu đưa ra một đề xuất kinh doanh hay bán hàng mới.

Với Ant của Alibaba như đã phân tích ở trên thì đó là việc chuyển từ một công cụ thanh toán đơn thuần sang các dịch vụ tài chính và bảo hiểm rộng lớn.

Công nghệ kỹ thuật số đang cho phép tăng trưởng giá trị, nhưng việc nắm bắt giá trị đang trở nên chênh lệch và tập trung hơn.

Trong khi giá trị đang được tạo ra cho tất cả mọi người, việc nắm bắt giá trị đang trở nên chênh lệch và tập trung hơn. Điều này là do trong các mạng lưới hay hệ thống, lưu lượng truy cập hay người dùng (Traffic, User) có thể tạo ra nhiều lưu lượng truy cập (và người dùng) hơn và khi một số điểm kết nối nhất định trong mạng lưới được sử dụng nhiều hơn, chúng sẽ thu hút thêm nhiều hơn các kết nối tự nhiên khác, điều này càng làm tăng thêm tầm quan trọng của chính chúng và mạng lưới.

Điều này cũng sẽ dẫn đến nguyên tắc thứ ba: quan điểm cho rằng sự hình thành của các điểm kết nối (kỹ thuật số) tự nhiên sẽ dẫn đến sự xuất hiện của các vòng phản hồi tích cực (feedback loops), thứ sau đó sẽ khiến cho các doanh nghiệp trung tâm (gã khổng lồ) có tính kết nối cao hơn và khó thay thế hơn.

Khi các mạng lưới kỹ thuật số thực hiện ngày càng nhiều giao dịch kinh tế (bán hàng), sức mạnh kinh tế của mạng lưới vốn là trung gian kết nối người tiêu dùng, doanh nghiệp và thậm chí cả giữa các ngành với nhau… sẽ càng được mở rộng nhiều hơn.

Khi một tổ hợp trung tâm được kết nối ở mức độ cao (và được hưởng lợi nhuận ngày càng tăng theo quy mô) trong một lĩnh vực nhất định của nền kinh tế (chẳng hạn như viễn thông di động), nó cũng sẽ được có lợi thế quan trọng khi bắt đầu kết nối tới một lĩnh vực hay ngành công nghiệp mới (ví dụ như ô tô).

Các doanh nghiệp cạnh tranh trong các ngành công nghiệp tách biệt theo cách truyền thống sẽ bị loại bỏ hoặc trở thành một gã khổng lồ khác với nhiều thị phần hơn.

Nếu như trước đây, các nhà sản xuất điện thoại di động chỉ cạnh tranh trực tiếp với nhau để giành lấy vị trí dẫn đầu trong ngành (Marker Leader) mà không có bất cứ sự cạnh tranh nào liên quan đến việc tận dụng sức mạnh của mạng lưới hay tổ hợp kinh tế (Economic Hub).

Trong bối cảnh ngày nay, với sự ra đời của các nền tảng như iOS và Android, ngành công nghiệp bắt đầu chuyển từ trọng tâm là cạnh tranh về sản phẩm hay phần cứng sang cạnh tranh theo cấu trúc mạng lưới tập trung dựa trên nền tảng.

Khi các nền tảng kết nối điện thoại thông minh với một số lượng lớn các ứng dụng và dịch vụ (điểm kết nối) khác, tự bản thân nó sẽ trở nên có giá trị hơn, tạo ra hiệu ứng mạng lưới mạnh mẽ hơn, và cuối cùng tạo ra nhiều rào cản gia nhập ngành hơn đối với các doanh nghiệp mới.

Ngày nay, các thương hiệu như Motorola, Nokia, BlackBerry hay Palm đã không còn kinh doanh điện thoại di động, còn Google và Apple, vốn không phải là doanh nghiệp chuyên về sản xuất điện thoại thì đang chiếm phần lớn giá trị của ngành (chuỗi giá trị).

Đó chính là sức mạnh của nền tảng, của mạng lưới hay của nền kinh tế trung tâm như đã đề cập nhiều lần trong bài.

Hiệu ứng domino này hiện đang lan sang các lĩnh vực khác và với tốc độ ngày càng nhanh hơn. Ngành công nghiệp âm nhạc đã nghiêng về Apple, Google và Spotify.

Thương mại điện tử cũng đang đi theo một con đường tương tự: Alibaba và Amazon đang giành được nhiều thị phần (market share) hơn và dần chuyển sang đánh chiếm các doanh nghiệp truyền thống kinh doanh hàng tạp hóa, việc Amazon mua lại Whole Foods là một minh chứng.

Việc tăng lợi nhuận theo quy mô khiến doanh nghiệp rất khó bị đánh bại.

Yếu tố lợi thế cạnh tranh trong nhiều ngành được điều tiết bằng cách sẵn sàng cắt giảm lợi nhuận để thúc đẩy quy mô (scale up).

Trong các ngành kinh doanh sản phẩm và dịch vụ truyền thống, đường cong tạo ra giá trị (VCC) thường phẳng hơn (thấp hơn) khi số lượng người tiêu dùng tăng lên.

Một doanh nghiệp sẽ không đạt được bất cứ lợi thế cụ thể nào khi lượng người dùng của họ tiếp tục tăng lên nhưng vượt lại quá mức hiệu quả vốn có (biên hiệu quả), chính điều này là nguyên nhân dẫn đến việc sẽ nhiều đối thủ cạnh tranh khác nhau cùng tồn tại trên cùng một thị trường.

Tuy nhiên, với các gã khổng lồ, các tổ chức trung tâm hay các doanh nghiệp dựa trên mạng lưới (công nghệ), điều này lại diễn ra theo cách ngược lại, họ tăng quy mô để tăng lợi nhuận hay tăng lợi nhuận bằng cách đẩy nhanh quy mô.

Một nền tảng quảng cáo địa phương sẽ trở nên mạnh hơn khi ngày càng có nhiều người dùng truy cập hơn và khi có nhiều người truy cập hơn, nó càng có thể thu hút nhiều quảng cáo hơn.

Và khi số lượng quảng cáo (ads) tăng lên, khả năng nhắm mục tiêu quảng cáo đến người dùng (Target) cũng tăng theo, điều này cuối cùng sẽ làm cho các quảng cáo trở nên có giá trị hơn (trong mắt cả người xem lẫn nhà quảng cáo).

Càng có nhiều người dùng, nền tảng hay doanh nghiệp càng có nhiều động lực để xây dựng và tối ưu ứng dụng và càng có nhiều ứng dụng, người tiêu dùng càng có thêm động lực để sử dụng dịch vụ và các sản phẩm liên quan khác.

Đây chính là bản chất của khái niệm cạnh tranh trong bối cảnh các nền kinh tế trung tâm hay tổ hợp trung tâm.

Các gã khổng lồ như MarketingTrips đã phân tích không chỉ tìm cách loại bỏ các doanh nghiệp truyền thống hay kinh doanh riêng lẻ khác, họ cũng không ngừng cạnh tranh với nhau.

Facebook mua lại Oculus để gia nhập nền kinh tế thực tế ảo (VR) mới nổi và theo đuổi tham vọng Metaverse. Microsoft đầu tư vào OpenAI thông qua ChatGPT và cải tiến công cụ tìm kiếm Bing (tích hợp AI mới) để đối đầu với đối thủ Google, hay Apple cũng sản xuất tai nghe thực tế ảo để đón đầu xu hướng kinh tế mới.

Hợp lực là cách để tránh bị đào thải bởi một đối thủ thống trị ngành.

Vào những năm 1990, cộng đồng mã nguồn mở (open-source) đã hợp lực để cạnh tranh với Microsoft Windows bằng hệ điều hành Linux. Các doanh nghiệp truyền thống như IBM và Hewlett-Packard (HP) cũng được truyền cảm hứng theo cách tương tự.

Ngày nay, Linux (và các sản phẩm liên quan đến Linux) đã được ứng dụng rộng rãi trong các doanh nghiệp, thiết bị tiêu dùng và cả điện toán đám mây (Cloud Computing). Tương tự như vậy, cộng đồng mã nguồn mở của Mozilla và trình duyệt Firefox cũng đã phá vỡ sự kìm kẹp của Microsoft trong thế giới khám phá internet.

Trong kỷ nguyên trực tuyến hay kỹ thuật số, sự hợp tác và phối hợp sẽ ngày càng quan trọng và đó là cách thức hiệu quả để duy trì sự cân bằng trong nền kinh tế kỹ thuật số (Digital Economy).

Để có thể trở nên bền vững, các bên (doanh nghiệp) tham gia phải đảm bảo lợi ích hài hoà trong toàn bộ sinh thái, đây chính là chìa khoá để có thể thoát khỏi sự thống trị của các gã khổng lồ, nền kinh tế trung tâm và hơn thế nữa.

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer

Nam Nguyen | MarketingTrips

Hàn Quốc phạt Google 32 triệu USD vì cạnh tranh không lành mạnh

Để tránh bị phát hiện vi phạm quy định cạnh tranh công bằng, Google còn ra lệnh cho nhân viên xóa email liên quan. Cơ quan quản lý chống độc quyền của Hàn Quốc đã phạt Google 42,1 tỷ won (31,88 triệu USD) vì chặn phát hành trò chơi điện tử di động trên nền tảng của đối thủ cạnh tranh.

Hàn Quốc phạt Google 32 triệu USD vì cạnh tranh không lành mạnh
Hàn Quốc phạt Google 32 triệu USD vì cạnh tranh không lành mạnh

Cơ quan quản lý chống độc quyền của Hàn Quốc đã phạt Google 42,1 tỷ won (31,88 triệu USD) vì chặn phát hành trò chơi điện tử di động trên nền tảng của đối thủ cạnh tranh.

Hôm 11/4, Ủy ban Thương mại Công bằng Hàn Quốc (KFTC) cho biết Google đã yêu cầu các nhà sản xuất trò chơi điện tử phát hành độc quyền các tựa game trên Google Play. Đổi lại, các game này sẽ được hiển thị trên Google Play dưới dạng “featured” (nổi bật) từ tháng 6/2016-4/2018.

Động thái này gây tổn hại đến doanh thu và giá trị của One Store – “chợ” ứng dụng đang thu hút sự chú ý của người dùng Hàn Quốc như một lựa chọn thay thế cho Google Play.

Theo KFTC, để tránh bị phát hiện vi phạm quy định cạnh tranh công bằng, Google còn ra lệnh cho nhân viên xóa email liên quan cũng như thảo luận miệng các vấn đề trên, nhằm tránh để lại dấu vết.

Nhà chức trách nhận xét thỏa thuận đã giúp Google củng cố vị trí thống trị trên thị trường chợ ứng dụng Hàn Quốc.

Google cho biết họ sẽ xem xét quyết định cuối cùng của KFTC để đánh giá hướng hành động tiếp theo.

“Google đầu tư nhiều vào sự thành công của các nhà phát triển và chúng tôi hoàn toàn không đồng ý với kết luận của KFTC”, người phát ngôn của Google cho biết.

KFTC cho biết động thái chống lại gã khổng lồ công nghệ Mỹ là một phần trong nỗ lực của chính phủ Hàn Quốc nhằm đảm bảo thị trường luôn ở trạng thái công bằng.

Cơ quan quản lý chống độc quyền tiết lộ, các nhà sản xuất game bị ảnh hưởng bởi hành động của Google gồm Netmarble, Nexon, NCSOFT và một số công ty nhỏ khác.

Năm 2021, Google đã bị KFTC phạt hơn 200 tỷ won vì chặn các phiên bản tùy chỉnh của hệ điều hành Android.

One store, một công ty con của nhà mạng không dây hàng đầu Hàn Quốc SK Telecom, ra mắt năm 2016 với tư cách như một đối thủ nhỏ hơn của Play store trên hệ điều hành Android của Google.

Theo One Store, chợ phần mềm của công ty có tốc độ tăng trưởng đều đặn kể từ khi ra mắt, ghi nhận lần đầu tiên có lãi vào năm 2020, trong khi các giao dịch mua phần mềm trên nền tảng chợ này đã tăng trưởng quý thứ 10 liên tiếp trong quý IV/2020.

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer

Nam Nguyen | MarketingTrips

Hiểu về lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp trong các thị trường khác nhau (P1)

Giả sử doanh nghiệp của bạn có lợi thế cạnh tranh ở một thị trường A nào đó, liệu những lợi thế này sẽ tiếp tục bảo vệ bạn ở một thị trường B khác, bài viết được chia sẻ bởi MarketingTrips sẽ giúp bạn làm sáng tỏ điều này.

Getty Images

Với những người giữ các vai trò marketing nói riêng và kinh doanh nói chung, việc mở rộng thương hiệu hay doanh nghiệp sang các thị trường mới hay thậm chí là từ thị trường trong nước ra thị trường quốc tế là những điều hết sức bình thường.

Trong khi có không ít người cho rằng những lợi thế cạnh tranh của họ “có thể di chuyển được” giữa các thị trường khác nhau, sự thật là phần lớn các lợi thế đó chỉ tồn tại trong một hoặc một số ít phân khúc thị trường nhất định.

Khi xây dựng một doanh nghiệp hay thương hiệu nào đó, bước đầu tiên và là bước quan trọng nhất đó là phát triển một chiến lược phù hợp với từng thị trường của bạn.

Và khi bạn đã có được những thành công nhất định ở thị trường này thì liệu bạn có thể di chuyển nó sang một thị trường khác?

Mặc dù cũng có không ít các doanh nghiệp có thể dịch chuyển được các lợi thế cạnh tranh của họ ở một thị trường nhất định sang một thị trường khác.

Ví dụ: Intel đã có thêm được những khoản lợi nhuận béo bở khi bán chất bán dẫn cho các khách hàng ở thị trường Trung Quốc vì công nghệ sản xuất và thiết kế chip của họ khó có thể bị bắt chước.

Tuy nhiên, không phải tất cả các lợi thế cạnh tranh đều diễn ra theo cách tương tự.

Thông qua nhiều nghiên cứu khác nhau, các nhà nghiên cứu đến từ Đại học Pennsylvania đã xác định có 3 yếu tố chính quyết định việc liệu lợi thế cạnh tranh của một doanh nghiệp có thể di chuyển được hay không bao gồm: bối cảnh cạnh tranh địa phương, sở thích hay ưu tiên của khách hàng địa phương, và mức độ mà một thương hiệu sẵn sàng và có thể thích ứng để đáp ứng những yêu cầu của địa phương.

1. Bối cảnh cạnh tranh địa phương.

Một trong những rào cản phổ biến đầu tiên ảnh hưởng đến lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp đó là  sự khác biệt trong bối cảnh cạnh tranh.

Điều này có nghĩa là gì, là bạn có thể đã đánh bại thành công các đối thủ cạnh tranh tại thị trường sở tại của mình, nhưng chiến thắng đó không đồng nghĩa với việc bạn sẽ tiếp tục chiến thắng ở một thị trường mới, nơi mà đối thủ đang có những điểm mạnh yếu khác nhau.

Ví dụ, mặc dù đã thành công ở nhiều thị trường toàn cầu, gã khổn lồ ngành F&B Starbucks đã lỗ 143 triệu USD trong 7 năm đầu hoạt động tại thị trường Úc, cuối cùng, thương hiệu này buộc phải đóng cửa 61 trong số 84 cửa hàng ở Úc.

Tại sao lại xảy ra điều này?

Trong khi có nhiều yếu tố tác động khác nhau, một lỗ hổng lớn trong chiến lược của Starbucks là đánh giá thấp văn hóa cà phê vốn khá phong phú của Úc.

Trái ngược với các thị trường khác, nơi có ít khách hàng xem uống cà phê như là một “trải nghiệm phong cách sống”, những người nhập cư Ý và Hy Lạp đã phát triển một bối cảnh kinh doanh cà phê hết sức sôi động ở Úc từ những năm 1940 và 1950.

Vào thời điểm Starbucks gia nhập thị trường, Starbucks đã phải cạnh tranh với rất nhiều cửa hàng cà phê địa phương hiện đang cung cấp nhiều hương vị hơn với giá bán thấp hơn và điều này đã góp phần xây dựng nên một lòng trung thành hết sức mạnh mẽ của khách hàng Úc với cafe địa phương.

2. Sở thích của khách hàng địa phương.

Sự khác biệt trong bối cảnh cạnh tranh thường đi đôi với sự khác biệt về sở thích của khách hàng, khi các đối thủ cạnh tranh đã đáp ứng (và trong một số trường hợp là tạo ra) nhiều nhu cầu khác nhau từ thị trường nội địa.

Do đó, một sản phẩm hấp dẫn với người tiêu dùng ở một thị trường có thể hoàn toàn không liên quan ở một thị trường khác.

Walmart đã gặp phải vấn đề này khi cố gắng mở rộng sang Brazil.

Trong khi gã khổng lồ bán lẻ này đã thành công ở Mỹ vì đã mang đến cho khách hàng sự thuận tiện cùng với đó là một loạt các sản phẩm giá rẻ ở một cửa hàng tập trung duy nhất.

Khách hàng Brazil sẵn sàng dành nhiều thời gian để tìm kiếm các phiếu giảm giá và các chương trình khuyến mãi khác, họ đã quen với việc đến nhiều cửa hàng khác nhau để nhận được những ưu đãi tốt nhất.

Từ bối cảnh này, những lợi thế hay đề xuất giá trị (USP) của Walmart đã không mấy làm hấp dẫn người tiêu dùng Brazil.

3. Sự sẵn sàng và khả năng thích ứng của thương hiệu.

Tất nhiên, sự khác biệt về bối cảnh cạnh tranh hay sở thích của người tiêu dùng đều là những thách thức có thể vượt qua được khi sự sẵn sàng và khả năng thích ứng với những sự khác biệt đó có thể tạo nên thành công ở một thị trường mới.

Trong một số trường hợp, một doanh nghiệp có thể quan tâm đến việc thay đổi các khía cạnh của sản phẩm hoặc mô hình kinh doanh của mình.

Nhưng trong những trường hợp khác, một doanh nghiệp có thể không sẵn sàng thực hiện những thay đổi đó, cho dù đó là vì lý do đạo đức, yếu tố văn hóa hay các mối quan tâm khác.

Để có thể làm rõ hơn về điều này, bạn có thể nhìn vào câu chuyện của Amazon.

Trong khi chiến lược đặt khách hàng lên vị trí hàng đầu đã giúp đế chế thương mại điện tử (eCommerce) này thành công ở nhiều thị trường khác nhau, cũng chính nó đã khiến Amazon không ít lần lao đao trên thị trường.

Cụ thể, đối với mỗi sản phẩm được liệt kê trên nền tảng của mình, Amazon sử dụng một thuật toán phức tạp để chỉ chọn một nhà cung cấp (Vendor) để làm nổi bật trên phần ‘Buy Box’ của sản phẩm đó (nơi người mua có thể nhấp vào “Thêm vào Giỏ hàng” hoặc “Mua ngay”), tất cả các nhà cung cấp còn lại được đưa vào danh sách bên dưới.

Trong khi người bán ở Mỹ đã quá quen với việc xử lý các thuật toán không rõ ràng như thế này và họ sẵn sàng chấp nhận nó vì những trải nghiệm người dùng mượt mà mà nó mang lại cho người mua.

Những người bán ở thị trường Trung Quốc nhận thấy khái niệm ‘Buy Box’ quá phức tạp và không thể tiếp cận được, vì vậy thay vì chọn bán hàng trên Amazon, họ chọn bán trên các nền tảng thương mại điện tử địa phương như Taobao hoặc JD.com.

Mặc dù đã nhiều lần nhận được phản hồi này, tuy nhiên, vì mục tiêu là mang đến những trải nghiệm tốt nhất cho người mua, Amazon đã không sẵn sàng thay đổi nó vì một số người bán trên nền tảng.

Hết phần 1!

Đọc tiếp phần 2: Hiểu về lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp trong các thị trường khác nhau (P2)

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: Link

 

Nam Nguyen | MarketingTrips

8 xu hướng bán lẻ doanh nghiệp cần biết nếu muốn cạnh tranh thành công

Như những lĩnh vực khác, ngành bán lẻ đang trải qua quá trình thay đổi và thích ứng với các tác động từ cách mạng công nghiệp 4.0 và quá trình dịch chuyển lớn về mặt xã hội.

Source: ADOBE STOCK

Khả năng kết nối của doanh nghiệp bán lẻ với khách hàng ngày càng quan trọng hơn bao giờ hết, khi thói quen mua sắm tiếp tục thay đổi trong bối cảnh nền kinh tế toàn cầu bị gián đoạn bởi đại dịch COVID-19.

Sau đây là những gì mà các doanh nghiệp bán lẻ cần phải nắm bắt để thích nghi và có được thành công:

1. Bán lẻ = bán hàng đa kênh.

Chúng ta đang sống thế giới lai, kết hợp giữa nền tảng trực tuyến và ngoại tuyến, với những kênh mới như qua giọng nói (Alexa và Google Home) và những thiết bị thông minh khác.

Với những thay đổi này, máy móc sẽ dần trở thành khách hàng của các doanh nghiệp bán lẻ. Ví dụ, thiết bị gia dụng như tủ lạnh có thể quyết định thời điểm đặt đồ ăn. Xe hơi có thể tự động tìm kiếm những dịch vụ hoặc trả phí đỗ xe.

Internet vạn vật (IoT) và thiết bị cảm biến cho phép các công ty thu thập dữ liệu và theo dõi toàn bộ các kênh bán hàng khác nhau, để có được cái nhìn tổng quát về khách hàng.

Các công ty như Burberry đã có nhiều bước tiến hướng đến lĩnh vực bán hàng đa kênh. Nếu khách bước vào cửa hàng của Burberry, hệ thống máy tính có thể nhận diện món đồ mà họ đã tìm trên nền tảng trực tuyến và còn xem qua lịch sử mua hàng trước đó.

Kết hợp những kênh bán hàng này lại với nhau là xu hướng chính cho những doanh nghiệp bán lẻ trong tương lai.

2. Tạo ra dịch vụ thông minh hơn nhờ AI.

Các doanh nghiệp bán lẻ có thể phát triển kinh doanh từ nguồn dữ liệu hiện có và tạo ra những dịch vụ thông minh dựa trên trí tuệ nhân tạo (AI). Khách hàng sẽ kỳ vọng mức độ dịch vụ được cá nhân hóa ngày càng tinh vi hơn từ người bán hàng, vì vậy những máy móc gợi ý ngày càng trở nên quan trọng hơn.

Ví dụ Vivino, ứng dụng về rượu vang, cung cấp tính năng “Match for You” (Dành cho bạn). Bạn có thể dùng điện thoại để quét mã bất kỳ chai rượu nào, hệ thống Vivino sẽ đưa ra lời khuyên về độ phù hợp của loại rượu đó.

Machine vision (thị giác máy) cũng giúp cho lĩnh vực bán lẻ trở nên thông minh hơn. Amazon Go, cửa hàng bán lẻ vật lý của Amazon ứng dụng thị giác máy để quan sát món đồ khách hàng đang nhìn và đặt vào giỏ hàng của họ. Từ đó, hệ thống tự động thanh toán và khách hàng có thể đi thẳng ra khỏi cửa hàng thay vì phải xếp hàng chờ đợi.

3. Nền kinh tế trải nghiệm.

Các doanh nghiệp bán lẻ cần gia tăng giá trị để thu hút khách hàng tới cửa hàng vật lý hoặc vào trang web bán hàng.

Chúng ta đang sống trong nền kinh tế, nơi tạo ra những trải nghiệm tận hưởng không chỉ là lựa chọn, mà có vai trò quan trọng cho những doanh nghiệp bán lẻ muốn vươn mình sau đại dịch COVID-19.

Một ví dụ tiêu biểu là cửa hàng thời trang cao cấp của Gucci tại Ý đem đến sự hứng thú cho khách hàng bằng cách kết hợp quán cà phê, viện bảo tàng, triển lãm tranh và cửa hàng thời trang cùng một chỗ.

Các cửa hàng bán lẻ cũng xem xét sử dụng nền tảng thực tế ảo tăng cường (AR) hoặc thực tế ảo (VR) để đưa thêm nhiều thông tin về sản phẩm trong cửa hàng và trên trực tuyến tới khách hàng. TOMs Shoes (Tomorrow’s Shoes) đưa khách hàng tới Peru thông qua trải nghiệm VR để nhìn thấy được sức ảnh hưởng từ chiến dịch thiện nguyện “One for One”.

4. Giúp việc mua hàng dễ dàng hơn.

Chúng ta muốn mua được ngay sản phẩm yêu thích nhìn thấy trên TV, trò chơi điện tử hoặc từ YouTube “Nhìn thấy, thích, mua ngay”. Vì thế, trải nghiệm mua sắm như vậy cần phải trở nên dễ dàng hơn.

Điều này đã trở thành hiện thực. Khách hàng có thể xác định bài hát nghe từ radio hoặc bên trong một cửa hàng cà phê bằng ứng dụng Shazam trên điện thoại. Ứng dụng sẽ gợi ý mua bài hát đó.

Trong tương lai, tính năng này sẽ xuất hiện trên YouTube và những nền tảng trực tuyến khác. Vì vậy, khả năng mua sắm ngay lập tức là xu hướng quan trọng trong lĩnh vực bán lẻ.

5. Mô hình gói đăng ký phí không qua trung gian.

Nhiều doanh nghiệp muốn bán hàng trực tiếp tới khách hàng, nhằm xây dựng quan hệ mật thiết hơn và có khả năng tiếp cận tới nguồn dữ liệu khách hàng có giá trị.

Những công ty như Dollar Shave Club và Black Socks đang tiên phong trong hướng tiếp cận này, với gói giao hàng theo từng tháng hoặc từng quý cho sản phẩm cạo râu và vớ. BarkBox cũng áp dụng hướng tiếp cận tương tự để cung cấp sản phẩm thức ăn cho chó theo gói cơ bản.

Những tổ chức này sẽ cần phải cân bằng giữa doanh thu bán lẻ và bán sản phẩm thông qua kênh bán hàng riêng.

6. Doanh nghiệp bán lẻ giao hàng và thực hiện đơn hàng tự động.

Nhiều doanh nghiệp bán lẻ đang tìm hướng đi trong việc tự động hóa chuỗi cung ứng và phương thức giao hàng. Ví dụ, hãng công nghệ Ocado phát triển phần mềm và hệ thống tự động cho các đơn vị bán lẻ.

Ocado hỗ trợ tạo ra kho hàng có mức tự động cao, với robot hoạt động cùng lúc. Qua đó, tạo ra trải nghiệm mua hàng khác biệt cho khách hàng.

Về phương diện giao hàng, chúng ta cũng bắt đầu chứng kiến những thứ như xe tải và tàu vận chuyển vận hành tự động. Những đơn vị bán lẻ kỳ vọng sẽ có thêm nhiều quy trình tự động hơn nữa trong tương lai.

7. Tính minh bạch trong chuỗi cung ứng ngày càng quan trọng.

Tính minh bạch trong chuỗi cung ứng cho phép các công ty không chỉ nắm bắt chi tiết hơn về nhu cầu, từ đó đưa ra dự đoán về những thứ người tiêu dùng thực sự muốn, mà còn sử dụng thiết bị IoT và cảm biến để theo dõi khắp chuỗi cung ứng.

Các tổ chức ngày càng sử dụng công nghệ blockchain nhiều hơn để tăng thêm tính minh bạch cho chuỗi cung ứng. Ví dụ, De Beers Jewelers có thể giám sát nơi những viên kim cương được đào, sản xuất và cắt mài, để giúp khách hàng biết chính xác về nguồn gốc của sản phẩm.

8. Khách hàng ngày càng tỉnh táo hơn.

Khách hàng quan tâm tới tính bền vững, và hiểu ngày càng nhiều hơn về tác động của môi trường trong những sản phẩm họ mua. Trong tương lai, ta sẽ có thêm nhiều loại nhãn sản phẩm như nhãn khí thải carbon, thông tin xuất xứ.

Các doanh nghiệp bán lẻ nên suy tính về cách đưa sản phẩm ra thị trường và sẵn sàng giải đáp thắc mắc từ khách hàng về tính bền vững.

Các doanh nghiệp cần bắt kịp với những xu hướng đã nêu để có thể cạnh tranh trong tương lai.

Biên dịch: Minh Tuấn

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: Link

Theo Forbes

5 mẹo xây dựng thương hiệu cá nhân có thể thúc đẩy sự nghiệp của bạn

Việc xây dựng và tiếp thị một bản sắc riêng biệt (unique identity) về bản thân có thể giúp những người tìm việc phát triển sự nghiệp của họ ngay cả ở những thời điểm khó khăn nhất.

5 mẹo xây dựng thương hiệu cá nhân có thể thúc đẩy sự nghiệp của bạn

Tìm kiếm một công việc mới trong những thời kỳ kinh tế suy thoái hay khó khăn là một nhiệm vụ không hề dễ dàng – khi các doanh nghiệp đang tìm mọi cách để cắt giảm chi phí và sa thải bớt nhân viên là một cách để họ làm điều đó.

Một trong những cách mà bạn hay những người tìm việc có thể làm để bản thân có nhiều cơ hội hơn là thông qua việc xây dựng thương hiệu cá nhân, một lợi thế ngày càng thể hiện được sức mạnh của nó, đặc biệt là trong thời đại công nghệ và mạng xã hội.

Thương hiệu cá nhân giúp xây dựng lòng tin của người khác hay cộng đồng đối với bạn, thể hiện bạn là một người chuyên nghiệp trong lĩnh vực của mình và từ đó giúp bạn có nhiều lợi thế cạnh tranh hơn so với những người khác trên thị trường.

Dưới đây là 05 yếu tố có thể giúp bạn xây dựng thương hiệu cá nhân và thúc đẩy sự nghiệp của bản thân.

1. Thể hiện giá trị cốt lõi của bạn.

Thương hiệu của bạn nên được truyền đạt thông qua một tập hợp các giá trị cốt lõi (core values) mạnh mẽ giúp phân biệt bạn với các đối thủ cạnh tranh còn lại.

Các bộ phận nhân sự thường không chỉ tuyển dụng dựa vào sự uy tín hay các thông tin (chung chung) mà ứng viên đề cập. Họ cũng muốn biết liệu các ứng viên có tính cách, giá trị lõi hay phù hợp với doanh nghiệp hay không.

Do đó, tốt nhất là bạn nên chia sẻ thắng thắn các quan điểm của bản thân với nhà tuyển dụng, bạn cũng cần lưu ý rằng họ thường tìm kiếm các kỹ năng khác như sự đồng cảm, tò mò, hợp tác và làm việc nhóm.

2. Hãy khác biệt và sáng tạo.

Có một sai lầm kinh điển mà nhiều người tìm việc mắc phải đó là viết một bản sơ yếu lý lịch (CV) tương tự như bao hồ sơ khác. Nếu bạn muốn thu hút sự chú ý của các nhà tuyển dụng, hãy thể hiện bản thân môt cách khác biệt và sáng tạo nhất.

Hãy thể hiện cá tính và sự sáng tạo của bạn thông qua những điểm nổi bật của bản thân tới vị trí mà bạn đang ứng tuyển và bạn cũng có thể “đóng gói bản thân” như là một sự lựa chọn phù hợp nhất.

Bạn cần nêu bật những điểm mạnh và kinh nghiệm cụ thể từ các dự án mà bạn đã hoàn thành, tuy nhiên bạn cần tránh nói quá nhiều về những thành tích không mấy liên quan.

Trong các cuộc phỏng vấn, bạn có thể tạo cho mình nhiều lợi thế hơn nữa bằng cách sử dụng thuật kể chuyện để nâng cao thương hiệu cá nhân.

Hãy kể lại những trường hợp hay bối cảnh thể hiện rõ điểm mạnh của bạn – đó có thể là cách bạn đã giải quyết một vấn đề khó khăn của khách hàng hoặc doanh nghiệp hay cách bạn hỗ trợ các đồng nghiệp khác để đạt được mục tiêu chung.

Cuối cùng, đừng quên kết nối chuyên môn của bạn với bối cảnh kinh doanh của doanh nghiệp, nơi thực sự xác định bạn có giá trị như thế nào.

3. Xác định đối tượng mục tiêu.

Sức mạnh của thương hiệu cá nhân có thể định vị bạn như là một chuyên gia trong một lĩnh vực cụ thể nào đó. Marketing chẳng hạn.

Trong các điểm kinh tế khó khăn, đại dịch Covid-19 là môt ví dụ, khi tỷ lệ thất nghiệp gia tăng, hay doanh nghiệp cũng yêu cầu khắt khe hơn đối với các ứng viên.

Thương hiệu cá nhân của bạn đủ mạnh sẽ giúp bạn có nhiều cơ hội hơn trong việc gặp gỡ và gây ấn tượng với các nhà tuyển dụng.

Đối tượng mục tiêu của bạn chắc chắn không thể là tất cả mọi người, vì vậy điều quan trọng là bạn phải xác định họ là ai, bạn có thể tiếp cận họ như thế nào và sau đó cố gắng truyền tải các thông điệp đến họ.

Thương hiệu cá nhân càng được nhắm mục tiêu cụ thể thì bạn càng có nhiều cơ hội hơn và năng lực đàm phán mức thu nhập cũng tốt hơn.

Khi đã có được đối tượng mục tiêu cụ thể, nhiệm vụ của bạn là xây dựng các thông điệp hay nội dung mang tính liên quan và kết nối cao, và truyền tải nó đến họ.

4. Gia tăng các kết nối trực tuyến.

Chiến lược xây dựng thương hiệu cá nhân của bạn nên liên quan đến việc nâng cao danh tiếng của bản thân trên các nền tảng trực tuyến – cũng giống như sơ yếu lý lịch của bạn, danh tiếng trực tuyến nên tập trung vào một số nền tảng và điểm nhấn cụ thể.

Đầu tư vào SEO có thể là một sự trợ giúp lớn.

Có một số cách bạn có thể làm để thúc đẩy SEO và tăng lượng người kết nối với bạn, chẳng hạn như tạo blog/vlog và chia sẻ các nội dung có giá trị với người đọc, sau đó họ có thể chọn chia sẻ với những người khác.

Phát triển qua một chặng đường nhất định, bạn có thể định vị mình như một trong số các chuyên gia trong lĩnh vực bạn đang làm, và nhờ đó, bạn sẽ thu hút được nhiều cơ hội việc làm hoặc cơ hội kinh doanh hơn.

5. Xây dựng một mạng lưới gồm các mối quan hệ với những người có liên quan (trong ngành chẳng hạn).

Bạn càng biết và ở mức độ sâu hơn là kết nối và tương tác, với nhiều người trong ngành của mình, bạn càng có nhiều cơ hội hơn.

Những lời giới thiệu từ ​​những người bạn biết, cùng với thương hiệu cá nhân của bạn đã được xây dựng trước đó (qua các bước ở trên), bạn có thể mở ra những cơ hội mà trước đây bạn thậm chí còn không dám mơ tới.

LinkedIn là một nơi lý tưởng để bạn có thể tìm kiếm các kết nối (chuyên nghiệp), các buổi hội thảo hay sự kiện ngành và nhiều thứ khác.

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: Link

Giang Nguyễn