Skip to main content

Sam Altman từ chối quay lại OpenAI và đầu quân cho Microsoft

Bất chấp sức ép từ Microsoft để phục chức cho Sam Altman, phía OpenAI đã quyết định thuê CEO khác. Ngay lập tức, CEO Satya Nadella đã tuyển dụng nhà sáng lập này về để lập đội mới, dù công ty của ông vẫn đang đổ hàng tỷ USD cho OpenAI.

Sam Altman từ chối quay lại OpenAI và đầu quân cho Microsoft
Sam Altman từ chối quay lại OpenAI và đầu quân cho Microsoft

Theo thông tin mới đây, CEO Satya Nadella của Microsoft đã có hành động gây bất ngờ toàn thị trường khi tuyển dụng lại nhà sáng lập Sam Altman của OpenAI về lập một đội mới cho công nghệ trí thông minh nhân tạo.

Động thái này diễn ra sau khi có nguồn tin cho hay Hội đồng quản trị OpenAI không thuyết phục được Sam Altman quay lại và đã quyết định tuyển mộ Cựu CEO Emmett Shear của Twich về lãnh đạo.

Tham gia cùng Sam Altman để đầu quân cho Microsoft là Greg Brockman, vốn cũng là một thành viên của Hội đồng quản trị OpenAI nhưng cũng bị cách chức cùng nhà sáng lập. Bất bình về vụ việc, ông Greg đã quyết định từ chức để đi theo người bạn của mình về Microsoft.

“Phía Microsoft sẽ nhanh chóng cung ứng cho chúng tôi đủ nguồn lực để đạt được những thành công mới”, ông Greg tự tin cho hay.

“Chúng tôi vẫn cam kết hợp tác với OpenAI và tin tưởng vào khả năng ra mắt sản phẩm đúng lộ trình của mình như đã công bố, cũng như khả năng tiếp tục hỗ trợ khách hàng lẫn đối tác”, CEO Satya Nadella của Microsoft đăng tải trên LinkedIn.

*Nguồn: Bloomberg

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer

Hà Anh  | MarketingTrips   

Luckin Coffee chính thức vượt Starbucks trở thành chuỗi cà phê lớn nhất Trung Quốc

Theo tài liệu mới nhất, Luckin Coffee đã chính thức vượt Starbucks trở thành chuỗi cà phê lớn nhất Trung Quốc về doanh số bán hàng và số cửa hàng. Đây là màn trở lại ngoạn mục của công ty sau bê bối kế toán khiến tốc độ tăng trưởng của họ bị đình trệ.

Luckin Coffee chính thức vượt Starbucks trở thành chuỗi cà phê lớn nhất Trung Quốc
Luckin Coffee chính thức vượt Starbucks trở thành chuỗi cà phê lớn nhất Trung Quốc

Với số vốn lớn và dưới sự lãnh đạo mới, Luckin hiện nay điều hành khoảng 13.300 cửa hàng, hầu hết đều nằm tại Trung Quốc. Đây là con số lớn hơn gần gấp đôi so với số lượng cửa hàng của Starbucks, một trong những chuỗi cà phê lớn nhất thế giới, có khoảng 6.800 cửa hàng tại Trung Quốc.

Để thúc đẩy sự phát triển, Luckin đã sử dụng các dịch vụ giao hàng nhanh, tùy chọn thanh toán di động và các sản phẩm như latte vị phô mai, mà người tiêu dùng Trung Quốc rất ưa thích.

Starbucks, có trụ sở tại Seattle, đã xem việc mở rộng tại quốc gia có dân số đông thứ hai thế giới là một trong những ưu tiên hàng đầu của mình trong nhiều thập kỷ. Ông Howard Schultz, người từng là Giám đốc điều hành của Starbucks, đã nói rằng Trung Quốc đại diện cho một trong những cơ hội lớn nhất của Starbucks để phát triển – mặc dù đây là một thị trường kinh doanh phức tạp. Trung Quốc hiện nay là thị trường lớn thứ hai của Starbucks theo số lượng cửa hàng và doanh thu, sau Mỹ.

Trước đây, Trung Quốc là một xã hội uống trà truyền thống, ít tiêu thụ cà phê so với nhiều quốc gia khác, nhưng các công ty cho biết nhu cầu của người Trung Quốc đang tăng.

Các nhà phân tích dự đoán rằng Trung Quốc sẽ trở thành thị trường tiêu thụ lớn nhất thế giới trong vài năm tới. Các thương hiệu lớn từ phương Tây bán hàng cho người tiêu dùng Trung Quốc đối mặt với sự cạnh tranh ngày càng tăng từ các thương hiệu địa phương, khi người tiêu dùng bắt đầu thể hiện sự ưa thích đối với chúng.

Trên thực tế, doanh số bán hàng của gã khổng lồ ngành F&B Starbucks tại Trung Quốc vẫn đang tăng mặc cho sự cạnh tranh từ các đối thủ Trung Quốc.

Kiki Pang, một nhà quản lý tiếp thị đến từ Quảng Đông, uống cà phê khoảng hai lần mỗi tuần. Cô thường đặt một cốc latte của Luckin để giao hàng đến văn phòng vào buổi chiều khi làm việc, và thanh toán qua ứng dụng WeChat.

“Starbucks trước đây khá phổ biến trong số người tiêu dùng trẻ ở Trung Quốc”, Pang, 26 tuổi nói. “Bây giờ khi giới trẻ Trung Quốc có nhiều lựa chọn đồ uống hơn, động lực đã thay đổi”.

Starbucks đã tìm cách xây dựng lợi thế người tiên phong sau khi mở quán cà phê đầu tiên tại Trung Quốc vào năm 1999. Cá nhân Schultz cũng đã xây dựng mối quan hệ tại nước này. Chuỗi cà phê mở rộng từ các thành phố lớn của đất nước vào các thành phố nhỏ hơn, xây dựng hàng trăm cửa hàng mới mỗi năm và phục vụ người uống cà phê muốn thong thả thưởng thức trong các quán cà phê.

Đại dịch đã gây tổn thương nặng nề cho hoạt động kinh doanh của Starbucks tại Trung Quốc, với doanh số bán hàng tại cùng một cửa hàng giảm 17% trong năm tài khóa 2020 so với năm 2019. Hiện nay, nhiều người tiêu dùng Trung Quốc vẫn duy trì thói quen thắt chặt chi tiêu đã hình thành trong thời kỳ đại dịch.

Các nhà quản lý của Starbucks vẫn kiên định với thị trường Trung Quốc. Công ty cho biết vào tháng 11 rằng họ dự định thêm khoảng 1.000 cửa hàng mỗi năm tại Trung Quốc, lên đến 9.000 vào năm 2025. Các nhà quản lý nói rằng Trung Quốc một ngày nào đó sẽ trở thành thị trường lớn nhất của Starbucks. “Tôi rất tin tưởng rằng đó chỉ là sự bắt đầu”, Belinda Wong, Co-CEO của Starbucks Trung Quốc nói tại sự kiện đầu tư tháng 11.

Luckin, thành lập vào năm 2017 và được hỗ trợ bởi vốn đầu tư rủi ro trong thời kỳ bùng nổ đầu tư công nghệ tại Trung Quốc, mở cửa hàng với kiểu dáng đơn giản hơn so với các quán cà phê phức tạp của Starbucks.

Họ tập trung chiến lược của mình vào ứng dụng di động và dịch vụ giao hàng tích hợp ngay từ đầu, một tùy chọn mang đi mà Starbucks sau đó thêm vào hoạt động của mình tại Trung Quốc. Đến mùa thu năm 2019, Luckin có 3.680 cửa hàng, gần bằng con số 4.130 của Starbucks đã xây dựng trong hai thập kỷ trước đó. Luckin đã niêm yết công khai vào năm 2019.

Năm 2020, Luckin đã thừa nhận rằng họ đã tạo ra lượng doanh số bán hàng giả mạo khoảng 310 triệu USD trong năm trước đó. Sau đó, Sàn giao dịch Chứng khoán Nasdaq đã hủy niêm yết công ty vào cuối năm đó.

Luckin đã tuyên bố sẽ xây dựng lại, đưa những nhà quản lý và nhà đầu tư mới từ công ty quỹ tư nhân Trung Quốc Centurium Capital. Chuỗi cửa hàng đã mở cửa hàng thứ 10.000 tại Trung Quốc vào mùa hè năm nay và kỷ niệm bằng cách cung cấp ưu đãi cà phê cho hàng triệu khách hàng.

Theo hồ sơ công ty, Luckin báo cáo doanh số bán hàng là 855 triệu USD cho quý kết thúc vào ngày 30 tháng 6, vượt trội so với 822 triệu USD mà Starbucks tạo ra từ kinh doanh tại Trung Quốc trong ba tháng kết thúc vào ngày 2/7.

Luckin đã quảng cáo giá trị của mình đối với người tiêu dùng và một số hương vị ưa chuộng, bao gồm cả sự hợp tác với thương hiệu rượu nổi tiếng của Trung Quốc, Kweichow Moutai, trong năm nay.

Một đối thủ mới nổi khác là công ty gồm Cotti Coffee, được ra mắt vào năm ngoái bởi những người sáng lập của Luckin nhưng hiện không còn làm việc cho công ty này. Cotti Coffee cung cấp đồ uống chi phí thấp hướng đến giới trẻ, và vào tháng 8, công ty này cho biết họ đã mở 5.000 cửa hàng trong khoảng một năm.

Luckin sử dụng chiến lược tập trung vào dịch vụ giao hàng tích hợp.

Starbucks đang tung ra những đồ uống mới của riêng mình tại Trung Quốc, ra mắt 28 loại mới vào mùa hè năm nay. Các nhà quản lý nói rằng Starbucks là thương hiệu cà phê duy nhất tại Trung Quốc cung cấp một bộ đầy đủ các đồ uống, thức ăn và hàng hóa, với các vị trí đắc địa trên khắp đất nước. Họ đang xây dựng cửa hàng ở các huyện nhỏ và vào tháng 9, đã mở một trung tâm đổi mới trị giá 220 triệu USD tại Trung Quốc.

CEO của Starbucks, Laxman Narasimhan, nói tại sự kiện đầu tư rằng Starbucks mang lại trải nghiệm tốt hơn và chất lượng cao hơn cho người tiêu dùng Trung Quốc so với các đối thủ giá thấp.

Sunny Shen, một tư vấn viên kinh doanh sống ở tỉnh Jiangsu ven biển phía bắc của Thượng Hải, cho biết cô uống cà phê một vài lần mỗi tuần. Gần đây, cô đã thưởng thức một trong những chiếc latte mascarpone giới hạn của Luckin có tên Tom and Jerry. Cô cũng đánh giá cao giá trị của Luckin. Cô nói: “Đặc biệt khi họ tung ra các voucher giảm giá, giá một đồ uống của Luckin có thể chỉ bằng một nửa hoặc một phần ba giá của Starbucks”.

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer

Hà Anh  | MarketingTrips   

Theo An ninh Tiền tệ

Đây là lý do CEO Sam Altman bị OpenAI sa thải

Sam Altman được cho là bị sa thải đột ngột sau những bất hòa nội bộ với Ilya Sutskever, nhà khoa học trưởng của OpenAI.

Đây là lý do CEO Sam Altman bị OpenAI sa thải
Đây là lý do CEO Sam Altman bị OpenAI sa thải

Dẫn nguồn tin nội bộ, The Infomartion cho biết OpenAI đã tổ chức cuộc họp nội bộ ngay sau khi thông báo sa thải CEO Sam Altman và loại chủ tịch Greg Brockman khỏi hội đồng quản trị.

Cuộc họp đề cập đến xung đột về mục tiêu đối với AI và những bất đồng về định hướng phát triển đã in sâu vào tâm trí nhiều nhân viên từ lâu. Ilya Sutskever, người đồng sáng lập OpenAI, thành viên hội đồng quản trị và nhà khoa học trưởng – người chịu trách nhiệm hạn chế tác hại xã hội mà AI có thể gây ra, đã nhận rất nhiều câu hỏi.

Theo bản ghi cuộc họp, ít nhất hai nhân viên hỏi Sutskever rằng liệu đây có phải một “cuộc đảo chính” hay “sự tiếp quản thù địch”. Họ ngụ ý rằng Sutskever cảm thấy Altman đang muốn thương mại hóa OpenAI quá nhanh, gây ra lo ngại về sự an toàn.

“Anh có thể gọi theo cách đó”, Sutskever trả lời, nhắc đến từ đảo chính. “Tôi có thể hiểu tại sao mọi người dùng từ này, nhưng tôi không đồng ý. Chúng ta đang thực hiện nhiệm vụ với sứ mệnh của một tổ chức phi lợi nhuận, đó là đảm bảo OpenAI xây dựng AI tổng quát (AGI) có lợi cho toàn nhân loại”.

Một người khác hỏi liệu việc loại đi những cá nhân ủng hộ thương mại hóa có phải cách tốt để điều hành một công ty có tầm quan trọng thế giới hay không, Sutskever đáp rằng ông đồng ý, dù ý tưởng đó “không hoàn toàn đúng 100%”.

Xung đột định hướng nội bộ.

Trước khi bị sa thải, Altman vẫn gửi email thường xuyên tới nhân viên với tư cách là CEO. Ông thậm chí mới xuất hiện tại sự kiện về AI ngày 17/11 ở San Francisco. Đầu tháng 11, ông chủ trì sự kiện DevDay của OpenAI. Tuy nhiên, nội bộ không yên bình như thế.

Một số nguồn tin nói với National Post rằng Altman đã xung đột với các thành viên hội đồng quản trị, đặc biệt là Sutskever, từ trước đó. Vấn đề gây tranh cãi chủ yếu về tốc độ phát triển AGI, cách thức thương mại hóa sản phẩm và các bước cần thiết để giảm tác hại tiềm tàng của AI với nhân loại.

Thực tế, cộng đồng AI từ lâu cũng đã bất đồng về vấn đề AI phát triển quá nhanh có thể gây mất kiểm soát. Nhiều ý kiến cho rằng công nghệ này sẽ tạo ra mối đe dọa cho con người nếu không có “công tắc” ngăn chặn, trong khi số khác nói kìm hãm AI mới là điều khiến nhân loại không thể tiếp cận những ưu việt mà trí tuệ nhân tạo mang lại, như trong việc khám chữa bệnh hay thúc đẩy nghiên cứu thuốc mới. Bất đồng cũng được cho là lý do Elon Musk, một thành viên sáng lập OpenAI, rời công ty năm 2018.

Bên cạnh mâu thuẫn về định hướng, nguồn tin cho biết các thành viên hội đồng quản trị OpenAI cũng đã tranh cãi gay gắt về tham vọng kinh doanh của Altman trước khi đi đến quyết định sa thải ông.

Với quyền điều hành, Altman đang tìm cách huy động hàng chục tỷ USD từ các quỹ ở Trung Đông với mục tiêu tạo một công ty khởi nghiệp về chip AI cạnh tranh với Nvidia. Ông cũng gặp Chủ tịch SoftBank Masayoshi Son để thuyết phục đầu tư hàng tỷ USD vào một công ty thiết bị AI sắp thành lập với sự hợp tác của cựu giám đốc thiết kế Apple Jony Ive.

“Sutskever và những người cùng quan điểm trong hội đồng quản trị phản đối cách Altman dùng tên tuổi của OpenAI để gây quỹ. Họ cũng lo ngại doanh nghiệp mới có thể không chia sẻ mô hình quản trị giống như OpenAI”, một nguồn tin cho biết.

Mối lo ngại mất kiểm soát AI đã được Sutskever thể hiện rõ trong những tháng gần đây. Vào tháng 7, ông thành lập một nhóm mới tại công ty để kiểm soát các hệ thống AI “siêu trí tuệ” trong tương lai. Trước khi gia nhập OpenAI, nhà khoa học máy tính người Canada gốc Israel này làm tại Google Brain và là nhà nghiên cứu tại Đại học Stanford.

Việc Sutskever “quyết đấu” còn được cho là liên quan đến việc Altman và Brockman chèn ép ông. Tháng trước, cả hai tìm cách giảm tầm ảnh hưởng của nhà khoa học trưởng của OpenAI, khiến ông phải nêu vấn đề này lên hội đồng quản trị. Một số thành viên ủng hộ ông, gồm Helen Toner, hiện là giám đốc chiến lược tại Trung tâm An ninh và Công nghệ mới nổi của Georgetown.

Nhà báo công nghệ Mỹ Kara Swisher của New York Times cho biết Sutskever là người đóng vai trò và có sức ảnh hưởng lớn nhất trong quá trình sa thải CEO và chủ tịch.

“Thêm tin sốt dẻo: các nguồn tin cho tôi biết nhà khoa học trưởng Ilya Sutskever là trung tâm của vấn đề. Căng thẳng ngày càng gia tăng với Sam Altman và Greg Brockman về vai trò và sức ảnh hưởng. Hội đồng quản trị đã nghiêng về phía ông ấy”, Swisher viết trên X ngày 18/11. “Rõ ràng Microsoft cũng bị che mắt và không phát hiện ra cho đến khi mọi thứ được công bố”.

Ngoài ra, Swisher cũng nói Altman sẽ sớm công bố công ty AI mới vào ngày 20/11. Trong khi đó, dưới sức ép của các nhà đầu tư và sự hỗn loạn nội bộ, hội đồng quản trị OpenAI đang phải đàm phán với Sam Altman để đưa ông trở lại vị trí CEO, nhưng ông còn đang cân nhắc.

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer

Theo Bảo  Lâm | VnExpress

Cựu nhà tuyển dụng Google: Đừng dùng ‘open to work’ trên LinkedIn

Nếu bạn đang sử dụng LinkedIn như một mạng lưới chuyên nghiệp để phát triển bản thân, tìm kiếm việc làm và hơn thế nữa, cựu nhà tuyển dụng của Google khuyên rằng đừng nên sử dụng ‘open to work’ trên mạng xã hội này.

Cựu nhà tuyển dụng của Google: Đừng sử dụng ‘open to work’ trên LinkedIn
Cựu nhà tuyển dụng của Google: Đừng sử dụng ‘open to work’ trên LinkedIn

Trên mạng xã hội LinkedIn, để thẻ ‘open to work‘ mang ý nghĩa là bạn đang muốn tìm kiếm một cơ hội việc làm mới. Dù là bạn đã nghỉ hoàn toàn công ty hiện tại hay bạn vẫn đang còn làm tuy nhiên lại mong muốn tìm kiếm cơ hội mới, thông báo này báo hiệu cho các nhà tuyển dụng biết bạn đang sẵn sàng nhận thông tin và ứng tuyển.

Theo số liệu từ LinkedIn, cứ mỗi giây trôi qua có tới 117 việc làm mới được gửi lên LinkedIn. Để trở nên nổi bật giữa đám đông và có được công việc mơ ước của bạn, các chuyên gia tuyển dụng khuyên bạn nên sử dụng các liên kết nổi bật để thể hiện các công việc mà bạn từng làm, cập nhật hồ sơ của bạn thường xuyên để đảm bảo rằng nó phản ánh đúng kỹ năng và kiến thức chuyên môn của bạn, và hơn thế nữa.

Tuy nhiên khi nói đến những điều ‘cấm kỵ’ trên nền tảng, cựu nhà tuyển dụng của Google cho rằng bạn không nên sử dụng biểu tượng hay thẻ “open to work’, nó thực sự rất tệ.

Cảm giác như bạn đang tuyệt vọng.

Khi nói đến các cuộc phỏng vấn xin việc, với tư cách là ứng viên, bạn muốn tạo cho doanh nghiệp bạn đang phỏng vấn cảm giác rằng bạn luôn có những lựa chọn khác và họ phải đấu tranh vì bạn. “Tuyển dụng cũng giống như hẹn hò. Bạn phải làm cho đối phương cảm thấy như bạn là người duy nhất và có giá trị để theo đuổi.”

Nếu bạn sử dụng thẻ ‘open to work’ (sẵn sàng để ứng tuyển công việc mới), điều này có nghĩa là chưa có bất cứ nhà tuyển dụng nào liên hệ với bạn, và điều này khiến cho nhà tuyển dụng (đầu tiên) gọi cho bạn có cảm giác thật tệ.

Khi bạn ở trạng thái tuyệt vọng, hiếm có nhà tuyển dụng nào muốn bạn.

Cuối cùng, các nhà tuyển dụng tin rằng “những người giỏi nhất là những người không phải đi tìm việc làm”. Những người đó luôn cởi mở trong việc trò chuyện với các nhà tuyển dụng tiềm năng, nhưng vì họ hài lòng với vị trí hiện tại, vì kỹ năng và tài năng của họ đã giúp họ tạo dựng nên những cơ hội tuyệt vời cho bản thân, họ chưa muốn chuyển việc.

Điều đó không có nghĩa là bạn không nên nộp CV xin việc nếu bạn đang muốn tìm kiếm một công việc mới, chỉ là bạn không cần phải thông báo cho nhà tuyển dụng biết bạn chưa tìm thấy cơ hội nào để ứng tuyển cả.

“Dù tốt hay xấu, đó là quy luật tự nhiên của con người – khi bạn tuyệt vọng thì mọi người sẽ không muốn bạn và ngược lại”.

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer

Top 10 doanh nghiệp lớn nhất Việt Nam 2023

CTCP Báo cáo Đánh giá Việt Nam (Vietnam Report) phối hợp cùng Báo VietnamNet công bố Bảng xếp hạng VNR500 – Top 500 Doanh nghiệp lớn nhất Việt Nam năm 2023.

Top 10 doanh nghiệp lớn nhất Việt Nam 2023
Top 10 doanh nghiệp lớn nhất Việt Nam 2023

Theo đó, Công ty TNHH Samsung Electronics Việt Nam Thái Nguyên vẫn vững ngôi vương trong danh sách.

Những cái tên kỳ cựu như Tập đoàn Dầu trí Việt Nam (Petro Vietnam), Tập đoàn Xăng dầu Việt Nam (Petrolimex), Tập đoàn Công nghiệp – Viễn thông Quân đội (Viettel)… vẫn trong top.

Các công ty tư nhân lọt top như Hòa Phát, Vingroup đều tụt 3 hạng, lần lượt xuống vị trí 8 và 10.

Hai cái tên không còn trong danh sách Top 10 là Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) và CTCP Đầu tư Thế giới Di động (MWG).

Bảng xếp hạng VNR500 đã bước sang năm thứ 17, nhằm tìm kiếm, ghi nhận và tôn vinh những thành tích của các doanh nghiệp có quy mô lớn, duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh hiệu quả và ổn định, những doanh nghiệp đã cho thấy bản lĩnh kiên cường trước những cơn sóng biến động bất ngờ từ bối cảnh quốc tế và sự giảm tốc tăng trưởng của nền kinh tế.

Bên cạnh việc công bố Bảng xếp hạng Top 500 Doanh nghiệp lớn nhất Việt Nam năm 2023, Vietnam Report cũng công bố Bảng xếp hạng Top 500 Doanh nghiệp tư nhân lớn nhất Việt Nam năm 2023.

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer

Central Retail (Thái Lan) đánh bại doanh thu của WinCommerce và Bách Hoá Xanh

Chuỗi Big C, Go!… thuộc Central Retail Corp (Thái Lan) đánh bại doanh thu của WinCommerce và Bách Hoá Xanh trong 9 tháng đầu năm 2023.

Central Retail Corp đánh bại doanh thu của WinCommerce và Bách Hoá Xanh
Central Retail Corp đánh bại doanh thu của WinCommerce và Bách Hoá Xanh

Ngày 14/11, ông Yol Phokasub, Giám đốc điều hành Tập đoàn Central Retail – công ty mẹ của chuỗi siêu thị Go! cho biết: “Central Retail củng cố vị trí dẫn đầu trong ngành bán buôn và bán lẻ (Retail) ở Thái Lan và nước ngoài, thể hiện hiệu quả hoạt động mạnh mẽ của công ty trong suốt thời gian qua”.

Theo báo cáo tài chính được công bố, 9 tháng đầu năm, tổng doanh thu của ông lớn bán lẻ Thái Lan đạt 182.784 triệu baht (hơn 126.000 tỷ đồng) và lợi nhuận ròng là 5.257 triệu baht (hơn 3.600 tỷ đồng), lần lượt tăng 7% và 26% so với cùng kỳ năm ngoái.

Trong đó, Việt Nam vẫn là thị trường nước ngoài đem về doanh thu cao nhất cho tập đoàn. Lãnh đạo Central Retail cho biết công ty điều chỉnh chiến lược hoạt động tại Việt Nam để ứng phó với những biến động kinh tế nhất thời.

Luỹ kế 9 tháng đầu năm, Central Retail Việt Nam góp 37.655 triệu baht (gần 26.000 tỷ đồng) vào doanh thu của công ty mẹ, giảm 6,5% so với cùng kỳ năm ngoái. Trong đó, mảng kinh doanh thực phẩm vẫn chiếm phần lớn doanh thu của Central Retail Vietnam với 31.839 triệu baht (gần 22.000 tỷ đồng).

Nếu xét về doanh thu trong các hệ thống bán lẻ hiện đại,Central Retail Việt Nam vẫn là doanh nghiệp có doanh thu lớn nhất trong giai đoạn 9 tháng đầu năm nay. Cùng bối cảnh, WinCommerce đạt doanh thu 22.400 tỷ đồng, và con số này ở Bách Hoá Xanh là 22.300 tỷ đồng.

Ông Olivier Langlet, Giám đốc điều hành Central Retail Việt Nam, cho biết: “Trong bối cảnh kinh tế đầy thách thức của năm 2023, Việt Nam cũng như phần còn lại của thế giới đều phải đối mặt với nhiều khó khăn. Tuy nhiên, Central Retail vẫn cam kết mở rộng mạnh mẽ danh mục đầu tư của mình”.

Theo ông Oliver Langlet, hiện nay, Central Retail vận hành hơn 340 cửa hàng bán lẻ trên 40 tỉnh thành tại Việt Nam, bao gồm 77 cửa hàng bán lẻ thực phẩm, trong đó có 38 đại siêu thị GO! và 39 siêu thị. Ngoài ra, còn có hơn 200 cửa hàng bán lẻ phi thực phẩm và 39 trung tâm thương mại GO! Malls.

“Mục tiêu là mở rộng tới 600 cửa hàng trên 57 tỉnh thành”, ông Oliver Langlet cho biết.

Centrail Retail có kế hoạch mở thêm 4 siêu thị mini go! tại Việt Nam trong quý cuối năm, nâng con số tổng lên 10 chi nhánh.

Ngày 10/10, Central Retail khai trương siêu go! Hòa Thành tại Tây Ninh. Đây là siêu thị mini go! thứ 2 tại tỉnh Tây Ninh và là thứ 7 của tập đoàn tại Việt Nam. Siêu thị mini go! Hòa Thành có diện tích sàn hơn 2.000 m2.

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer

Theo Doanh Nghiệp & Kinh Doanh

AI đang làm thay đổi mạnh mẽ ngành bán lẻ

Trí tuệ nhân tạo (AI) có thể giúp giải bài toán vốn được xem là “nỗi đau” của nhiều doanh nghiệp bán lẻ, khi dữ liệu từ hành vi mua sắm của khách hàng rất nhiều, nhưng thực tế lại rời rạc và chưa được xâu chuỗi thành những chỉ báo quan trọng.

AI đang làm thay đổi mạnh mẽ ngành bán lẻ

Những năm gần đây, Việt Nam đã có những bước tiến vượt bậc trong lĩnh vực chuyển đổi số và trí tuệ nhân tạo (AI).

Thị trường AI tại Việt Nam được Statista dự đoán sẽ đạt tốc tăng trưởng hàng năm là 19,51% trong giai đoạn 2023 – 2030, đạt giá trị hơn 1,8 tỷ USD. Dù đang ở giai đoạn “sơ khai”, nhưng tiềm năng phát triển AI của Việt Nam là vô cùng lớn.

TS. Nguyễn An Nguyên – CEO của Trusting Social tin rằng, AI thậm chí có thể tạo ra một “nền kinh tế” mới tại Việt Nam, và thay đổi hầu hết các ngành.

Vị chuyên gia dự báo, trong 5 năm tới, AI có thể thay đổi hầu hết các ngành, và sự phổ biến này đang góp phần tạo ra một “nền kinh tế” trí tuệ nhân tạo.

Lấy ví dụ trong ngành bán lẻ – nơi mà phần lớn các giao dịch thương mại đang diễn ra tại Việt Nam, trí tuệ nhân tạo có thể giúp giải bài toán vốn được xem là “nỗi đau” của nhiều doanh nghiệp, khi dữ liệu từ hành vi mua sắm của khách hàng rất nhiều, nhưng thực tế lại rời rạc và chưa được xâu chuỗi thành những chỉ báo quan trọng.

Chẳng hạn, ngày nay trí tuệ nhân tạo có thể giúp doanh nghiệp xác định được độ tuổi, giới tính, thói quen mua sắm ngay khi khách đặt chân vào cửa hàng. Trí tuệ nhân tạo cũng có thể giúp doanh nghiệp tăng cường hiệu suất nhân viên, thông qua camera giám sát trực tiếp.

Và điều quan trọng là các dữ liệu này sẽ được tập hợp, phân tích và đưa ra những báo cáo hành động, đánh giá những thay đổi trước và sau khi cải thiện dịch vụ. Như doanh nghiệp có thể bố trí lại mặt bằng để phù hợp thói quen mua sắm, cải thiện các chiến dịch marketing, thay đổi ca làm việc của nhân viên…

Tại Việt Nam, một số doanh nghiệp bước đầu đã thử nghiệm ứng dụng AI vào quản lý cửa hàng vật lý, như PNJ, GS25, Highlands Coffee hay hãng thời trang NEM…

Tất nhiên, các doanh nghiệp bán lẻ không tự xây dựng hệ thống AI riêng để giám sát cửa hàng, mà dựa vào các doanh nghiệp công nghệ. Palexy – một startup Việt được Do Ventures và Access Ventures hậu thuẫn đã sử dụng công nghệ thị giác máy tính và trí tuệ nhân tạo giúp các nhà bán lẻ đo lường hành vi khách hàng và năng suất nhân viên.

Sau khoảng 4 năm triển khai, Palexy đã trở thành đối tác của nhiều doanh nghiệp bán lẻ lớn tại Việt Nam như Elise, Phong Vũ Computer, Vinamilk, Lotte Mart,…

Theo đó, Palexy số hóa các nguồn dữ liệu có sẵn của hãng bán lẻ, bao gồm hệ thống camera giám sát, dữ liệu bán hàng, lịch khuyến mại… Những dữ liệu này được thu thập, phân tích, và tổng hợp thành các bảng điều khiển giúp doanh nghiệp lên kế hoạch kinh doanh, sản xuất.

Các giải pháp công nghệ như của Palexy hay các công ty công nghệ khác không yêu cầu doanh nghiệp phải cài đặt phần cứng, hay thuê thêm nhân viên. Phần mềm AI có thể chạy 24/7 và đóng nhiều vai trò, vừa như nhân viên bán hàng, lại vừa như cố vấn kinh doanh.

Một trường hợp thành công khác khi ứng dụng công nghệ AI trong bán lẻ tại cửa hàng trực tuyến là hệ thống thời trang công sở K&K Fashion. Thông qua đối tác Appier, K&K Fashion xử lý dữ liệu của khách hàng để đưa ra các đề xuất sản phẩm được cá nhân hóa trên các nền tảng thương mại điện tử.

Nhờ đó, tỷ lệ chuyển đổi của K&K Fashion cao hơn 150% so với mức trung bình của ngành. Hơn nữa, Appier đã giúp K&K thực hiện chiến dịch tiếp thị qua email với các đề xuất sản phẩm có liên quan, giúp nhãn hàng đạt được tỷ lệ chuyển đổi kinh ngạc, gấp 10 lần so với mức chung của thị trường.

Tới đây, thị trường Việt Nam có thêm sự gia nhập của CUE Group – tập đoàn công nghệ toàn cầu có trụ sở Singapore chuyên về các giải pháp trí tuệ nhân tạo trong doanh nghiệp, hứa hẹn sẽ mang tới nhiều chuyển biến tích cực cho ngành bán lẻ.

Năm ngoái, doanh thu của CUE Group đạt hơn 2 tỷ USD, với hơn 2.000 nhân sự. CUE Group được hậu thuẫn bởi quỹ đầu tư KKR, và là đối tác của các tập đoàn lớn như Bytedance, Tencent, JD…

So với các công nghệ hiện có trên thị trường, giải pháp RetailX của CUE được đánh giá là hoàn thiện và tối ưu hơn. Thay vì chờ phân tích và thu thập dữ liệu, điểm cải tiến ở RetailX có thể đưa ra những cảnh báo trong thời gian thực.

Chẳng hạn, chủ doanh nghiệp có thể nhận được ngay cảnh báo khi RetailX phát hiện hành vi không đúng quy chuẩn như đồng phục nhân viên, vấn đề vệ sinh tại cửa hàng. Ở các địa điểm nhạy cảm như ngân hàng, RetailX sẽ cảnh báo ngay lập tức khi xuất hiện người ngã, nguy cơ sử dụng vũ lực…

Nguyên lý hoạt động của RetailX dựa trên một trợ lý AI phần cứng, có kết nối với các camera giám sát, an ninh đang rất phổ biến tại các cửa hàng, trung tâm thương mại, showroom bán lẻ. Trợ lý AI này sau đó sẽ thu thập các dữ liệu bằng hình ảnh và chuyển thành các thông tin hữu ích dành cho doanh nghiệp theo thời gian thực.

Các dữ liệu này có thể là hành vi, sở thích mua sắm của khách hàng. Cũng có thể là thái độ nhân viên tương tác với khách, đồng phục, vệ sinh ở cửa hàng. Cao cấp hơn là các cảnh báo an ninh, cảnh báo ngã, cảnh báo xuất hiện vũ lực…

Bằng cách này, công nghệ RetailX của CUE không chỉ áp dụng riêng cho các cửa hàng bán lẻ, mà phạm vi áp dụng rộng hơn ở các địa điểm như ngân hàng, trung tâm thương mại, sự kiện hội nghị, triển lãm..

Đồng thời, doanh nghiệp cũng có thể nhận các báo cáo hàng tháng, hàng quý từ RetailX để từ đó đưa ra các cải tiến, tối ưu trong kinh doanh.

Bà Hương Giang – Giám đốc điều hành CUE Việt Nam cho biết, trước khi gia nhập thị trường Việt Nam, RetailX đã được áp dụng rộng rãi tại nhiều quốc gia như: Hàn Quốc, Trung Quốc, Malaysia, Singapore… với các khách hàng tiêu biểu như: chuỗi Tous Les Jours, LBX Pharmacy, Under Armour, Emart24,…

Để giúp Tous les Jours đạt được mục tiêu cải thiện quản lý tinh gọn, giảm chi phí và tăng hiệu quả, CUE đã ứng dụng RetailX vào việc thu thập dữ liệu từ các camera hiện có trong các cửa hàng.

Nhờ đó, Tous les Jours đã kiểm soát được tình trạng hàng hóa theo thời gian thực, theo dõi chất lượng dịch vụ cửa hàng, quy tắc ứng xử của nhân viên, yếu tố vệ sinh, và thông tin chi tiết về lưu lượng khách tại cửa hàng ở bất kì thời điểm nào trong ngày.

Với Under Armour, RetailX của CUE đã giúp nhà bán lẻ này thiết lập cửa hàng thể thao kỹ thuật số đầu tiên trên thế giới. Công nghệ giúp số hoá toàn bộ sản phẩm, nâng cao trải nghiệm tổng thể của người tiêu dùng như: phòng thử đồ 3D, máy quét chân…

Từ đó, người dùng có được trải nghiệm lựa chọn sản phẩm phù hợp theo thông số chính xác của cơ thể. Tất cả hành động của khách hàng được RetailX ghi nhận để nghiên cứu dữ liệu, đưa ra giải pháp riêng cho từng cửa hàng.

“Các doanh nghiệp bán lẻ của Việt Nam hiện đang tập trung phát triển theo chiều sâu bằng cách tối ưu chi phí vận hành, tối ưu danh mục hàng hóa, tồn kho, cũng như khai thác tối đa tiềm năng từ dữ liệu khách hàng… cho từng cửa hàng cụ thể. Và việc ứng dụng công nghệ AI vào quản lý kinh doanh sẽ là xu thế tất yếu giúp các doanh nghiệp Việt giải quyết bài toán này với chi phí tiết kiệm nhất”, bà Giang nhận xét.

Hơn hết, phía CUE cho biết, chi phí triển khai RetailX không tốn kém như nhiều doanh nghiệp lo ngại, có thể tuỳ chỉnh theo yêu cầu của từng ngành nghề, và đề cao tính bảo mật của dữ liệu theo các tiêu chuẩn của châu Âu.

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer

Theo The Leader

Profile khủng của CEO lâm thời của OpenAI

Mới đây, thông tin Sam Altman – nhà sáng lập của OpeanAI (công ty mẹ của ChatGPT) chính thức bị đuổi việc đã thu hút không ít sự chú ý. Người tạm thời thay thế CEO 38 tuổi này là Mira Murati – nữ giám đốc công nghệ (CTO) của công ty.

Profile khủng của CEO lâm thời của OpenAI
Profile khủng của CEO lâm thời của OpenAI

ChatGPT là chabot AI ra mắt vào cuối năm ngoái và nhanh chóng gây sốt trên toàn cầu khi cán mốc 100 triệu người dùng chỉ sau 2 tháng. Con số này vô cùng ấn tượng bởi TikTok mất 9 tháng trong khi Instagram mất 30 tháng để đạt mức 100 triệu người dùng. Cùng với sự phổ biến của ChatGPT, Sam Altman cũng được chú ý nhiều hơn trong làng công nghệ với tư cách là nhà sáng lập và CEO của OpenAI.

Tuy nhiên, có một nhân vật khác tuy ít được biết đến hơn nhưng là người đóng vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển của OpenAI. Đầu năm nay, chính Altman đã thừa nhận rằng Murati mới thật sự là người tạo ra ChatGPT.

Trước khi được bổ nhiệm vai trò mới, Murati (34 tuổi) là giám đốc quản lý ChatGPT và DALL-E, mô hình AI chuyển văn bản thành hình ảnh. Đây là những sản phẩm đã thúc đẩy OpenAI – công ty bắt đầu hoạt động cách đây 8 năm với tư cách là một phòng nghiên cứu phi lợi nhuận, đạt được thành công ngoài sức tưởng tượng.

Khi ChatGPT gây bão trên toàn thế giới, Murati là người chịu trách nhiệm đảm bảo công cụ này không gây hiểu lầm cho người dùng, thể hiện sự thiên vị hay loại bỏ tính nhân văn.

Murati sinh ra và lớn lên ở Albania. Thời điểm đó, dù Internet tại quốc gia này chưa thực sự phát triển nhưng Murati luôn tìm kiếm trên mạng để trả lời cho những câu hỏi liên quan đến công nghệ của mình.

Năm 16 tuổi, Murati nhận học bổng tại một trường quốc tế ở Vancouver (Canada). Sau đó, cô lấy bằng kỹ sư tại Dartmouth (Mỹ) rồi chuyển đến San Francisco để đảm nhận vai trò quản lý sản phẩm cấp cao của Tesla (chịu trách nhiệm sản xuất dòng xe Model X).

Bên cạnh đó, cô còn có kinh nghiệm làm việc trong một số lĩnh vực khác như hàng không vũ trụ, thực tế ảo (công ty Leap Motion) và ngân hàng. Murati gia nhập OpenAI năm 2018 với tư cách Phó chủ tịch bộ phận trí tuệ nhân tạo. Từ tháng 5 năm ngoái, cô đảm nhiệm vị trí CTO của công ty.

Murati được đánh giá là lãnh đạo công nghệ có phong cách giản dị. Cô thường mặc trang phục quần jeans và áo phông. Phong thái của cô rất bình tĩnh nhưng cũng thể hiện được sự quyết đoán trong công việc.

Cũng trong năm 2022, cô xuất hiện trên chương trình truyền hình nổi tiếng của Mỹ “The Daily Show”, trả lời về hệ thống DALL-E 2 cũng như các câu hỏi về cách AI có thể nâng cao trí tưởng tượng của xã hội.

Năm nay, Murati được tạp chí Fortune vinh danh trong top 100 phụ nữ quyền lực nhất thế giới. Trong cuộc phỏng vấn mới đây với tờ Wired, Murati cho biết nền tảng của mình là kỹ thuật và tin rằng AGI (trí tuệ nhân tạo tổng hợp) sẽ là công nghệ đóng vai trò quan trọng bậc nhất.

Về phần OpenAI, công ty được cho là đang trên đà đạt mốc doanh thu hơn 1 tỷ USD. Đây là bước nhảy vọt lớn đối với OpenAI khi một số tài liệu cho thấy trong năm ngoái, công ty này chỉ mang lại doanh thu chưa đến 30 triệu USD.

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer

 

Theo Ngọc Hiệp | Markettimes

Chủ nghĩa tiêu dùng (Consumerism) là gì? Ưu và nhược điểm của Chủ nghĩa tiêu thụ

Trong phạm vi bài viết này, hãy cùng MarketingTrips tìm hiểu về một thuật ngữ rất phổ biến trong lĩnh vực kinh tế tiêu dùng nói chung và marketing nói riêng đó là Chủ nghĩa tiêu dùng (tiếng Anh được gọi là Consumerism): chủ nghĩa tiêu dùng là gì, nó ảnh hưởng ra sao đến nền kinh tế, ưu điểm, nhược điểm và ví dụ về chủ nghĩa tiêu dùng (chủ nghĩa tiêu thụ) và hơn thế nữa.

Chủ nghĩa tiêu dùng là gì
Chủ nghĩa tiêu dùng là gì? Ưu và nhược điểm của chủ nghĩa tiêu dùng

Chủ nghĩa tiêu dùng là gì? Được sử dụng rất phổ biến trong kinh tế vĩ mô, tiêu dùng hay cả ngành marketing, thuật ngữ chủ nghĩa tiêu dùng (Consumerism) thường được nhắc đến với ý tưởng tích cực và có lợi cho bản thân người tiêu dùng lẫn xã hội, tuy nhiên trong thực tế nó cũng đi kèm với không ít khía cạnh tiêu cực hay quan điểm trái chiều từ cả góc nhìn kinh tế và xã hội.

Phân tích dưới đây từ MarketingTrips sẽ giúp bạn có được những cái nhìn từ tổng thể đến chi tiết xoay quanh thuật ngữ này, từ các khái niệm và ý nghĩa cơ bản đến các phân tích chuyên sâu về cách chủ nghĩa tiêu dùng tác động đến nền kinh tế và xã hội.

Chủ nghĩa tiêu dùng là gì?

Chủ nghĩa tiêu dùng hay còn được gọi là Chủ nghĩa tiêu thụ hoặc Văn hoá tiêu dùng, trong tiếng Anh có nghĩa là Consumerism, là ý tưởng cho rằng việc tăng cường tiêu thụ các hàng hóa và dịch vụ mua trên thị trường luôn là mục tiêu mong muốn và hạnh phúc của một người tiêu dùng nào đó.

Về cơ bản, sự hạnh phúc và thoả mãn của các nhóm người tiêu dùng này phụ thuộc vào việc họ có được tiêu dùng, mua sắm và sở hữu của cải vật chất hay không. Chủ nghĩa tiêu dùng gắn liền với yếu tố Vật chất hơn là Tinh thần.

Theo ý nghĩa kinh tế, chủ nghĩa tiêu dùng có liên quan đến ý tưởng rằng hoạt động chi tiêu của người tiêu dùng là động lực chính của nền kinh tế và khuyến khích người tiêu dùng chi tiêu nhiều hơn là mục tiêu chính của các chính sách.

Từ quan điểm này, chủ nghĩa tiêu dùng là một hiện tượng tích cực nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.

Tuy nhiên, nhiều quan điểm khác lại cho rằng việc coi động lực để có được nhiều của cải vật chất là gốc rễ của nhiều vấn đề, bao gồm việc gây lo lắng cho cá nhân và làm xói mòn cơ cấu xã hội.

Những lưu ý cần hiểu về cái gọi là Chủ nghĩa tiêu dùng.

  • Chủ nghĩa tiêu dùng là lý thuyết được sử dụng chủ yếu trong lĩnh vực kinh tế thị trường (và marketing) cho rằng những cá nhân hay người tiêu dùng càng tiêu thụ nhiều hàng hóa và dịch vụ thì họ sẽ càng có cuộc sống tốt hơn.
  • Một số nhà kinh tế tin rằng chi tiêu tiêu dùng (consumer spending) giúp kích thích sản xuất và tăng trưởng kinh tế.
  • Các nhà kinh tế xem tiêu dùng (consumption) là việc đáp ứng nhu cầu và mong muốn sinh học của người tiêu dùng dựa trên việc tối đa hóa các tiện ích.
  • Thay vào đó, các nhà xã hội học lại xem tiêu dùng là việc đáp ứng những nhu cầu và mong muốn vốn được nhìn nhận theo hướng xã hội thông qua các giao dịch mang tính biểu tượng.
  • Chủ nghĩa siêu tiêu dùng (Hyper-consumerism) đã bị chỉ trích rộng rãi vì những hậu quả gây ra cho kinh tế, xã hội, môi trường và tâm lý.

Hiểu đúng về khái niệm chủ nghĩa tiêu dùng.

Khi nói đến các khái niệm hay thuật ngữ kinh tế, điều quan trọng không phải là chuyện đúng sai của câu từ mà là ý nghĩa sâu xa hay bản chất đằng sau các khái niệm đó.

Trong cách sử dụng thông thường, chủ nghĩa tiêu dùng đề cập đến xu hướng của những người chủ yếu sống trong nền kinh tế tư bản tham gia vào lối sống chủ nghĩa vật chất quá mức xoay quanh việc tiêu dùng quá mức theo phản xạ (tự nhiên), và điều này thường gây lãng phí.

Theo nghĩa này, chủ nghĩa tiêu dùng được hiểu rộng rãi là góp phần phá hủy các giá trị và lối sống truyền thống, sự bóc lột hoặc “khai thác” người tiêu dùng bởi các doanh nghiệp lớn, thứ cuối cùng sẽ tạo ra sự kiệt quệ về môi trường và những tác động tâm lý tiêu cực khác.

Ví dụ, Thorstein Veblen là nhà kinh tế học và nhà xã hội học thế kỷ 19 nổi tiếng với việc đặt ra thuật ngữ “tiêu dùng phô trương” (conspicuous consumption) trong cuốn sách Lý thuyết về giai cấp nhàn rỗi (1899).

Tiêu dùng phô trương là một phương tiện để thể hiện địa vị xã hội của một người, đặc biệt khi hàng hóa và dịch vụ được trưng bày công khai là quá đắt đối với những người khác cùng tầng lớp. Kiểu tiêu dùng này thường gắn liền với những người giàu có nhưng cũng có thể áp dụng cho bất kỳ tầng lớp kinh tế nào khác trong xã hội, bao gồm cả tầng lớp trung lưu hoặc thấp hơn.

Khi người tiêu dùng chi tiêu, các nhà kinh tế cho rằng người tiêu dùng được hưởng lợi từ các tiện ích của hàng tiêu dùng mà họ mua, nhưng các doanh nghiệp cũng được hưởng lợi từ việc tăng doanh thu và lợi nhuận. Ví dụ: nếu doanh số bán ô tô tăng, các nhà sản xuất ô tô sẽ thấy lợi nhuận tăng.

Một số nhà kinh tế khác coi mức chi tiêu tiêu dùng ngày càng tăng là mục tiêu quan trọng trong việc xây dựng và duy trì một nền kinh tế vững mạnh, bất kể lợi ích đối với người tiêu dùng hay toàn xã hội. Tuy nhiên, những người khác lại khá lo ngại về những tác động xã hội tiêu cực mà chủ nghĩa tiêu dùng (đặc biệt là chủ nghĩa siêu tiêu dùng) gây ra.

Những tác động kinh tế của chủ nghĩa tiêu dùng.

Theo lý thuyết về kinh tế học vĩ mô của nhà kinh tế học Keynes, thúc đẩy chi tiêu của người tiêu dùng thông qua chính sách tài chính và tiền tệ là mục tiêu hàng đầu của các nhà hoạch định chính sách kinh tế.

Chi tiêu tiêu dùng luôn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng cầu và tổng sản phẩm quốc nội (GDP), do đó thúc đẩy chi tiêu tiêu dùng được coi là cách hiệu quả nhất để lèo lái nền kinh tế theo hướng tăng trưởng.

Chủ nghĩa tiêu dùng coi người tiêu dùng (consumer) là mục tiêu của chính sách kinh tế và là dòng tiền (cash cow) cho kinh tế với niềm tin duy nhất rằng việc tăng cường tiêu dùng sẽ mang lại lợi ích cho nền kinh tế. Tiết kiệm thậm chí có thể được coi là có hại cho nền kinh tế vì nó gây tổn hại đến chi tiêu tiêu dùng tức thì.

Các hoạt động Marketing và quảng cáo của doanh nghiệp thường tập trung vào việc tạo ra nhu cầu của người tiêu dùng đối với các sản phẩm mới hơn là thông báo cho người tiêu dùng về các tiêu dùng cần thiết đơn thuần.

Hiểu về khái niệm Tiêu dùng phô trương.

Nhà kinh tế chính trị Thorstein Veblen là người đã phát triển nên khái niệm tiêu dùng phô trương vào năm 1899, trong đó ông đưa ra giả thuyết rằng một số người tiêu dùng mua, sở hữu và sử dụng sản phẩm không phải vì giá trị sử dụng trực tiếp của chúng mà như là một cách để báo hiệu địa vị kinh tế và xã hội của họ.

Khi mức sống tăng lên, mức tiêu dùng phô trương cũng tăng lên.

Dưới hình thức tiêu dùng phô trương, chủ nghĩa tiêu dùng có thể tạo ra chi phí thực tế rất lớn cho nền kinh tế. Việc tiêu thụ hàng hoá chỉ để giành lấy địa vị xã hội cuối cùng sẽ đè nặng lên môi trường, thị trường và nhiều thứ khác.

Các nhà xã hội học coi chủ nghĩa tiêu dùng là sự tiêu dùng mang tính biểu tượng và có thể không giúp tối đa hóa lợi ích cá nhân của người tiêu dùng.

Thay vào đó, nó có thể đóng vai trò là tín hiệu cho người khác và giúp xác định danh tính của một người nào đó. Khi trở thành người tiêu dùng, các tác nhân xã hội (ví dụ như các áp lực ngang hàng hoặc nhà quảng cáo) sẽ làm hạn chế quyền tự do lựa chọn của chính người tiêu dùng.

Ưu điểm và nhược điểm của chủ nghĩa tiêu dùng là gì?

Ưu điểm của chủ nghĩa tiêu dùng.

Những người ủng hộ chủ nghĩa tiêu dùng coi việc chi tiêu của người tiêu dùng là hành động có thể thúc đẩy nền kinh tế và dẫn đến tăng cường sản xuất hàng hóa và dịch vụ. Khi chi tiêu tiêu dùng cao hơn, GDP có thể tăng lên.

Nhược điểm của chủ nghĩa tiêu dùng.

Chủ nghĩa tiêu dùng thường bị chỉ trích vì lý do văn hóa. Một số người thấy rằng chủ nghĩa tiêu dùng có thể dẫn đến một xã hội sống vì vật chất mà bỏ qua các giá trị khác ví dụ như yếu tố tinh thần hay văn hoá.

Các phương thức sản xuất và lối sống truyền thống có thể được thay thế bằng việc tập trung vào việc tiêu thụ những hàng hóa đắt tiền hơn bao giờ hết với số lượng lớn hơn.

Chủ nghĩa tiêu dùng thường gắn liền với toàn cầu hóa trong việc thúc đẩy sản xuất và tiêu thụ hàng hóa và thương hiệu được giao dịch toàn cầu, điều này có thể không tương thích với văn hóa địa phương và mô hình hoạt động kinh tế của một số quốc gia nhất định. Chủ nghĩa tiêu dùng cũng có thể tạo ra động cơ khuyến khích người tiêu dùng gánh những khoản nợ không bền vững, điều này cũng góp phần gây ra khủng hoảng và suy thoái tài chính.

Các vấn đề về môi trường cũng thường gắn liền với chủ nghĩa tiêu dùng. Những vấn đề có thể bao gồm sự phát triển đô thị, ô nhiễm, cạn kiệt tài nguyên và các vấn đề về xử lý chất thải từ các hàng hoá tiêu dùng và bao bì dư thừa.

Chủ nghĩa tiêu dùng cũng bị chỉ trích vì lý do tâm lý. Nó được cho là nguyên nhân làm gia tăng sự lo lắng về địa vị, khi mọi người chịu nhiều áp lực liên quan đến địa vị xã hội và nhận thấy rằng nhu cầu của họ không “theo kịp những người nổi tiếng” hay những người khác trong xã hội.

Nghiên cứu tâm lý đã chỉ ra rằng những người tổ chức cuộc sống của họ xung quanh các mục tiêu tiêu dùng, chẳng hạn như mua sản phẩm, thường có tâm trạng kém hơn, bất hạnh hơn trong các mối quan hệ và các vấn đề tâm lý khác.

Các thí nghiệm tâm lý khác cũng đã chỉ ra rằng những người tiếp xúc với các giá trị tiêu dùng dựa trên sự giàu có, địa vị và của cải vật chất thường có biểu hiện lo lắng và trầm cảm nhiều hơn.

Nói cách khác, khoa học cho thấy chủ nghĩa tiêu dùng không hề khiến con người hạnh phúc chút nào (như cách mà những người ủng hộ chủ nghĩa tiêu dùng phát ngôn).

Một số ví dụ về chủ nghĩa tiêu dùng là gì?

Chủ nghĩa tiêu dùng (Consumerism) được xác định bằng việc một người tiêu dùng nào đó không ngừng theo đuổi việc mua sắm và tiêu dùng. Các ví dụ bao gồm mua sắm thoải mái, đặc biệt là những hoạt động thu hút nhiều người, chẳng hạn như trong các mùa lễ hội mua sắm hay giảm giá.

Một ví dụ khác về chủ nghĩa tiêu dùng liên quan đến việc theo đuổi các sản phẩm mới hàng năm (sản phẩm mới về cơ bản là có cùng mục đích sử dụng với các sản phẩm hiện có).

Tiêu dùng phô trương cũng là một ví dụ khác của chủ nghĩa tiêu dùng khi người tiêu dùng mua hàng chỉ để thể hiện địa vị hoặc thể hiện một hình ảnh cá nhân nào đó của họ. (Mặc dù điều này không phải lúc nào cũng mang hàm ý tiêu cực).

Chủ nghĩa tiêu dùng có hại cho xã hội không?

Trong khi mọi người cần phải là người tiêu dùng để sống và đạt được những nhu cầu cũng như mong muốn của mình, chủ nghĩa tiêu dùng quá mức được nhiều người bao gồm cả các chuyên gia kinh tế cho là ảnh hưởng tiêu cực đến xã hội.

Chủ nghĩa tiêu dùng dẫn đến các ngoại tác tiêu cực như ô nhiễm và lãng phí. Hơn nữa, chủ nghĩa tiêu dùng bắt đầu định nghĩa con người bằng những gì họ sở hữu.

Theo một số nhà xã hội học, văn hóa đại chúng chủ yếu được xây dựng và trở nên phổ biến thông qua ngành quảng cáo tạo ra những người tiêu dùng đóng vai trò thụ động bị các thương hiệu thao túng hơn là những thực thể năng động và sáng tạo.

Có những thành kiến mang tính hệ thống trong hệ thống tạo ra chủ nghĩa tiêu dùng. Nếu những thành kiến ​​này bị loại bỏ, nhiều người tiêu dùng sẽ áp dụng lối sống ít tiêu dùng hơn.

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer

WSJ: Cuộc khủng hoảng lạm phát dường như đang tiến đến hồi kết

Lạm phát đang giảm nhanh hơn dự kiến ở các nền kinh tế phát triển, đánh dấu bước ngoặt lớn trong cuộc chiến chống giá cả cao dai dẳng trong hai năm qua của các ngân hàng trung ương.

Cuộc khủng hoảng lạm phát đang tiến đến hồi kết
Cuộc khủng hoảng lạm phát đang tiến đến hồi kết

Giá cả hạ nhiệt nhanh.

Các dữ liệu mới nhất cho thấy, trong tháng 10, tăng trưởng giá tiêu dùng giảm xuống còn 4,6% ở Anh, 3,2 % ở Mỹ và 2,9% ở khu vực đồng sử dụng đồng euro (eurozone). Các mức tăng trưởng giá cả này đều chậm lại rõ rệt cho với tháng 9, làm tăng kỳ vọng rằng các ngân hàng trung ương có thể “nghỉ ngơi” và chuyển sang cắt giảm lãi suất vào năm tới.

Kịch bản đó giải tỏa áp lực đáng kể cho nền kinh tế toàn cầu đang gặp khó khăn bên ngoài nước Mỹ, làm tăng triển vọng hạ cánh mềm (kinh tế tăng trưởng chậm lại nhưng không rơi vào suy thoái) sau một loạt đợt tăng lãi suất lịch sử mà không khiến tỷ lệ thất nghiệp tăng mạnh.

Lợi suất nợ chính phủ ở châu Âu và Mỹ đã sụt giảm khi các nhà đầu tư bắt đầu định giá trước khả năng các ngân hàng trung ương cắt giảm lãi suất vào năm tới.

Trong nhiều tháng của năm nay, các nhà kinh tế bối rối vì không hiểu tại sao tăng trưởng và lạm phát không chậm lại như mong đợi dù lãi suất liên tục tăng. Hiện nay, ngày càng có nhiều bằng chứng cho thấy, chi phí vay cao hơn đang gây khó khăn cho các hoạt động kinh tế.

“Đây chắc chắn là một bước ngoặt đối với lạm phát. Các nhà đầu tư có thể ngạc nhiên về tốc độ cắt giảm lãi suất của các ngân hàng trung ương trong năm tới, có thể lên đến 1,5 điểm phần trăm”, Stefan Gerlach, cựu phó thống đốc Ngân hàng trung ương Ireland, bình luận.

Lạm phát giảm mạnh trên khắp các châu lục cho thấy các vấn đề chung đã đẩy giá cả tăng, bao gồm đại dịch Covid-19 và cuộc chiến của Nga ở Ukraine. Chuỗi cung ứng toàn cầu bị thắt chặt do các sự kiện này đã làm giảm số lượng người trong lực lượng lao động và khiến giá năng lượng tăng cao, đặc biệt là ở châu Âu. Khi các vấn đề chuỗi cung ứng dịu lại, áp lực giá cả sẽ giảm bớt một cách tự nhiên.

Lạm phát cũng được thúc đẩy bởi các yếu tố bên cầu, chẳng hạn như hàng nghìn tỉ đô la chi tiêu kích thích của chính phủ ở Mỹ, cũng như nhu cầu bị dồn nén và tiền tiết kiệm của người tiêu dùng tích lũy trong đại dịch. Các nhà kinh tế cho rằng, đó là lý do tại sao lạm phát cơ bản vẫn ở mức cao gần 4 năm sau khi đại dịch ập đến.

Gerlach cho rằng, lạm phát hạ nhiệt cho thấy tác động của quy mô tăng lãi suất lên đến 4 hoặc 5 điểm phần trăm ở thế giới phương Tây.

Ngay cả những nước mà lạm phát dai dẳng nhất, chẳng hạn như Anh, cũng đã bắt đầu cho thấy sự tiến bộ. Dữ liệu công bố hôm 15-11 cho thấy chỉ số giá tiêu dùng (CPI) của Anh tăng 4,6% trong tháng 10 so với 12 tháng trước, giảm so với mức tăng 6,7% được ghi nhận vào tháng 9 và đánh dấu mức tăng chậm nhất kể từ tháng 10-2021.

“Anh không còn bị coi là ngoại lệ lớn nữa khi nói đến lạm phát”, Bruna Skarica, chuyên gia kinh tế của ngân hàng Morgan Stanley, nói.

Trước đó một ngày, Mỹ báo cáo chỉ số CPI tăng chậm lại, chỉ còn 3,2% trong tháng 10. Khu vực eurzone cũng ghi nhận lạm phát giảm xuống 2,9% trong tháng 10 từ mức 4,3% trong tháng 9. Riêng ở Bỉ và Hà Lan, chỉ số CPI trong tháng 10 thấp hơn một năm trước.

Giới đầu tư đặt cược lãi suất giảm vào năm tới.

Đà suy giảm rõ rệt của giá cả tiêu dùng đã thuyết phục một số nhà hoạch định chính sách châu Âu tin rằng cuộc chiến kiềm chế lạm phát đã giành chiến thắng trong một khoảng thời gian ngắn hơn so với thập niên 1970, khi giá cả tăng vọt ở mức tương đương.

“Chúng ta đang trong quá trình thoát khỏi cuộc khủng hoảng lạm phát. Trong vòng chưa đầy hai năm nữa, châu Âu sẽ kiểm soát được lạm phát”, Bộ trưởng Kinh tế và tài chính Pháp, Bruno Le Maire nói trước cuộc họp với các Bộ trưởng Tài chính của Liên minh châu Âu hồi tuần trước.

Giới đầu tư cũng lạc quan hơn. Theo dữ liệu của Refinitiv, họ tăng xác suất Cục Dự trữ liên bang Mỹ (Fed) và Ngân hàng trung ương châu Âu (ECB) bắt đầu giảm lãi suất vào đầu năm tới. Họ cũng cho rằng Ngân hàng trung ương Anh (BoE) có thể giảm lãi suất vào mùa hè năm sau. Dữ liệu về các hợp đồng lãi suất tương lại cho thấy, xác suất cắt giảm lãi suất của Fed vào tháng 5-2024 đã tăng từ 23% vào hôm 13-11, lên 86% vào cuối ngày 14-11.

Nhưng các ngân hàng trung ương vẫn tỏ ra thận trọng sau khi bị bất ngờ vào năm ngoái trước tình trạng lạm phát dai dẳng.

Tháng trước, BoE cho biết còn quá sớm để nghĩ đến việc cắt giảm lãi suất, vì ngân hàng này dự báo lạm phát chỉ đạt mục tiêu 2% vào cuối năm 2025. Các ngân hàng trung ương cũng chỉ ra rằng lương vẫn tăng nhanh và nguy cơ giá năng lượng tăngcao hơn giá nếu xung đột giữa Israel và Hamas lan sang các khu vực khác ở Trung Đông.

Các nhà kinh tế của Morgan Stanley kỳ vọng BoE sẽ bắt đầu cắt giảm lãi suất bắt đầu từ tháng 5-2024, tiếp theo, Fed và ECB sẽ hành động tương tự vào tháng 6.

“Chúng tôi dự đoán lạm phát và lãi suất sẽ giảm trên diện rộng vào năm 2024 ở các nền kinh tế phát triển”, Michael Saunders, cựu thành viên Ủy ban chính sách tiền tệ của BOE, hiện là cố vấn kinh tế cấp cao của Oxford Economics, viết trong một báo cáo gửi khách hàng.

Kinh tế châu Âu khó khăn hơn.

Nếu kịch bản dự báo trên xảy ra, câu hỏi đặt ra là liệu các ngân hàng trung ương có tăng lãi suất quá mức cần thiết hay không, đặc biệt là ở châu Âu.

Các nhà phân tích cho rằng những đợt tăng lãi suất mạnh mẽ đang ảnh hưởng đến nền kinh tế, gây áp lực lên hoạt động cho vay và chi tiêu. Quá trình tạo việc làm đang chậm lại và tỷ lệ thất nghiệp đang tăng cao ở cả hai bờ Đại Tây Dương, hạn chế tăng trưởng tiền lương. Điều đó sẽ gây áp lực lên triển vọng tăng trưởng trong những tháng tới.

Hôm 15-11, Bộ Thương mại Mỹ cho biết doanh số bán lẻ của nền kinh tế lớn nhất thế giới giảm 0,1% trong tháng 10 so với một tháng trước đó. Đó là mức giảm đầu tiên kể từ tháng 3 và xuất hiện sau mức tăng 0,9% trong tháng 9. Tại khu vực eurozone, sản lượng công nghiệp trong tháng 9 giảm 1,1% so với tháng trước.

Tại Mỹ, lạm phát đang giảm do thị trường lao động và chi tiêu tiêu dùng giảm nhiệt nhưng vẫn ổn định. Diễn biến đó củng cố dự báo rằng áp lực giá cả sẽ tiếp tục dịu lại mà không gây suy thoái kinh tế.

Ở châu Âu, bối cảnh kinh tế khó khăn hơn. Châu lục này đang đứng trước những cơn gió ngược đối với tăng trưởng, từ thương mại toàn cầu chậm lại và tăng trưởng chậm chạp ở Trung Quốc, một thị trường xuất khẩu quan trọng, cho đến nỗ lực của các chính phủ nhằm giảm chi tiêu.

Các hộ gia đình châu Âu cũng chi tiêu thận trọng hơn so với các hộ gia đình ở Mỹ. Tất cả những điều đó có thể dẫn đến tăng trưởng suy giảm sâu hơn và lạm phát giảm mạnh hơn ở châu Âu, khiến ECB phải giảm lãi suất sớm hơn Fed.

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer

Meta giải tán nhóm sử dụng AI có trách nhiệm (RAI)

Meta được cho là đã giải tán nhóm Responsible AI (sử dụng AI có trách nhiệm) trong nỗ lực muốn tập trung nhiều nguồn lực hơn vào trí tuệ nhân tạo tổng hợp.

Meta giải tán nhóm "sử dụng AI có trách nhiệm" (RAI)
Meta giải tán nhóm “sử dụng AI có trách nhiệm” (RAI)

Theo báo cáo, hầu hết các thành viên hiện có trong nhóm RAI sẽ chuyển sang nhóm sản phẩm AI tổng quát, trong khi những người khác sẽ làm việc cho nhóm cơ sở hạ tầng AI của Meta.

Meta thành lập đội nhóm RAI cùng với tuyên bố rằng sẽ phát triển AI một cách có trách nhiệm và thậm chí còn có một trang dành riêng cho lời hứa này, trong đó nêu bật các trách nhiệm chính bao gồm trách nhiệm giải trình, tính minh bạch, an toàn, quyền riêng tư, v.v.

Jon Carvill, người đại diện của Meta nói rằng công ty sẽ “tiếp tục ưu tiên và đầu tư vào việc phát triển AI một cách an toàn và có trách nhiệm”. Ông này nói thêm rằng mặc dù công ty đang giải tán đội nhóm nhưng những thành viên đó sẽ “tiếp tục hỗ trợ các nỗ lực của Meta trong việc phát triển và sử dụng AI một cách có trách nhiệm”.

Meta đã không trả lời yêu cầu bình luận vào thời điểm báo chí.

Theo báo cáo, RAI đã tồn tại từ năm 2019, có rất ít quyền tự chủ và các sáng kiến ​​của họ phải trải qua các cuộc đàm phán kéo dài với các bên liên quan trước khi có thể thực hiện được.

RAI được tạo ra để xác định các vấn đề với phương pháp đào tạo AI của hệ thống, bao gồm cả việc liệu các mô hình của doanh nghiệp (Meta) có được đào tạo với thông tin đa dạng và đầy đủ hay không, mục tiêu của điều này nhằm ngăn chặn những vấn đề như vấn đề kiểm duyệt trên nền tảng nếu có.

Ở một khía cạnh khác, sự an toàn của AI vẫn là một chủ đề rất được các cơ quan quản lý quan tâm. Chính phủ Mỹ đã ký kết các thỏa thuận với các công ty về AI đồng thời chỉ đạo các cơ quan chính phủ sớm đưa ra các quy định về an toàn AI. Trong khi đó, Liên minh Châu Âu (EU) cũng đã công bố các nguyên tắc AI của mình và vẫn đang nỗ lực để thực thi cái được gọi Đạo luật về AI.

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer

Hội đồng quản trị của OpenAI đang đàm phán để Sam Altman trở lại vị trí CEO

Nguồn tin từ Bloomberg cho biết Hội đồng quản trị của OpenAI đang đàm phán với Sam Altman để cựu CEO này trở lại vị trí CEO như cũ.

Hội đồng quản trị OpenAI đang đàm phán để Sam Altman trở lại vị trí CEO
Hội đồng quản trị OpenAI đang đàm phán để Sam Altman trở lại vị trí CEO

Theo đó, Hội đồng quản trị của OpenAI đang thảo luận với Sam Altman để cựu CEO này trở lại với vị trí CEO. Nguồn tin cho biết Sam Altman, người vừa đột ngột bị hội đồng quản trị sa thải mà không có bất cứ thông báo nào trước, đang khá mâu thuẫn về việc quay trở lại và muốn có những thay đổi đáng kể về quản trị.

Altman tổ chức các cuộc đàm phán với công ty chỉ một ngày sau khi ông bị sa thải cho thấy OpenAI đang rơi vào tình trạng rơi tự do nếu không có ông. Vài giờ sau khi bị sa thải, Greg Brockman, chủ tịch và cựu chủ tịch hội đồng quản trị của OpenAI, cũng đã từ chức và cả hai cũng được cho là đang nói chuyện với các nhà đầu tư về việc thành lập một công ty khác.

Một loạt các nhà nghiên cứu cấp cao cũng đã từ chức cùng ngày và những người thân cận với OpenAI cho biết sẽ có nhiều sự ra đi hơn nữa.

Altman tỏ ra “không rõ ràng” về việc quay trở lại.

Nhà đầu tư lớn nhất của OpenAI, Microsoft, cho biết trong một tuyên bố ngay sau khi Altman bị sa thải rằng công ty “vẫn cam kết” hợp tác với OpenAI.

Là gương mặt đại diện của OpenAI và là người có tiếng nói nổi bật nhất trong lĩnh vực AI, việc loại bỏ Altman khiến tương lai của OpenAI rơi vào tình trạng bất định vào thời điểm các đối thủ đang chạy đua để bắt kịp sự trỗi dậy chưa từng có của ChatGPT.

Người phát ngôn của OpenAI đã không trả lời yêu cầu bình luận về việc Altman đang thảo luận về việc quay trở lại với hội đồng quản trị. Người phát ngôn của Microsoft cũng từ chối bình luận.

Hội đồng quản trị hiện tại của OpenAI bao gồm nhà khoa học trưởng Ilya Sutskever, Giám đốc điều hành Quora Adam D’Angelo, cựu Giám đốc điều hành GeoSim Systems Tasha McCauley và Helen Toner, giám đốc chiến lược tại Trung tâm An ninh và Công nghệ mới nổi của Georgetown.

Không giống như các công ty truyền thống, hội đồng quản trị không có nhiệm vụ tối đa hóa giá trị của các cổ đông và không ai trong số này đang nắm giữ cổ phần trong OpenAI. Thay vào đó, sứ mệnh đã nêu của họ là đảm bảo tạo ra trí tuệ nhân tạo tổng quát hay còn gọi là AGI “có lợi một cách rộng rãi”.

Các nguồn tin cho biết đang có một cuộc tranh giành quyền lực giữa các bên nghiên cứu và sản phẩm trong OpenAI.

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer

Gen Z không muốn thăng chức vì cho rằng phần thu nhập tăng thêm không đáng để bị căng thẳng

Làm việc chăm chỉ và leo lên chức vụ quản lý không phải mơ ước của nhiều người trẻ tuổi vì họ cho rằng phần thu nhập tăng thêm “không đáng để căng thẳng”.

Gen Z không muốn thăng chức vì cho rằng phần thu nhập tăng thêm không đáng để căng thẳng
Gen Z không muốn thăng chức vì cho rằng phần thu nhập tăng thêm không đáng để căng thẳng

Chuyên gia tư vấn nghề nghiệp Emily Rezkalla (Mỹ) cho biết đây là ý kiến cô nghe được nhiều nhất khi tiếp xúc với các đồng nghiệp thuộc thế hệ Gen Z. Dù chỉ lớn hơn vài tuổi, cô hiểu nhiều người không muốn trở thành quản lý vì cấp trên không hỗ trợ hay tạo động lực, gắn bó hay khuyến khích hợp lý.

Rezkalla từng phải phụ trách những người khác và dường như không muốn trở lại vị trí đó một lần nữa. Công việc khiến cô còn quá ít thời gian cho cuộc sống riêng, liên tục phải lo lắng xem cấp dưới đang làm gì. Những khách hàng của cô cũng chung nỗi niềm, ngay cả khi họ chưa phải là quản lý.

Họ xem nhà quản lý là một kiểu nhân viên với khối lượng công việc nhiều hơn, còn công ty bổ nhiệm họ chỉ để “trông trẻ”. Đối với nhiều Gen Z, khi nhìn vào sếp phụ trách mình, họ ngay lập tức “nói không” với việc thăng chức.

Tại sao phải chịu thêm căng thẳng với phần thu nhập tăng thêm ít ỏi nếu sự cân bằng giữa công việc và cuộc sống hoặc mục tiêu nghề nghiệp bị giảm xuống? Đây chính là lúc người lãnh đạo cần phải bỏ công sức nhiều hơn để hỗ trợ, đào tạo nhân viên Gen Z nói riêng và mọi thế hệ nói chung nhằm giúp họ có cảm giác khao khát thỏa mãn và hào hứng trong công việc.

Một số đồng nghiệp lớn tuổi có định kiến Gen Z lười biếng. Tuy nhiên, việc Gen Z không muốn thăng chức không có nghĩa họ làm việc kém chăm chỉ. Nhiều nhân viên Gen Z luôn sẵn sàng lắng nghe đồng nghiệp và quan sát, đối thoại trên các công cụ như mạng xã hội.

Vì hiểu được thách thức khi trở thành nhà quản lý, không mấy ngạc nhiên khi người trẻ không chạy đua thăng chức. “Họ đã thấy cấp trên kiệt sức ra sao” – TikToker Kyyah Abdul nổi tiếng với các lời khuyên nghề nghiệp – nhận định. Do đó, họ quyết định thăng chức không phải con đường đúng đắn.

Theo Pradeep Philip, chuyên gia của hãng tư vấn Deloitte Access Economics, khi cân bằng cuộc sống – công việc là ưu tiên lớn tại nơi làm việc, các ông chủ cần suy nghĩ về các sáng kiến khác để thúc đẩy người lao động. Chuyên gia chia sẻ, nhiều nhân viên trẻ dường như không còn hào hứng với những thứ từng tạo động lực cho thế hệ trước như tiền bạc, thăng tiến.

Một cuộc khảo sát của hãng nghiên cứu McKinsey hồi đầu năm nay cho thấy, ngoài việc trả lương không thỏa đáng, những nguyên nhân khiến Gen Z không hài lòng với công việc bao gồm thiếu phát triển và thăng tiến nghề nghiệp, thiếu quan tâm từ lãnh đạo. Họ cũng đánh giá ý nghĩa của công việc quan trọng không kém môi trường làm việc linh hoạt khi tìm kiếm việc làm.

Rod Thill, người sáng lập WorkDaze – kênh tin tức tập trung vào các vấn đề công sở – cho biết một số người hoàn toàn hài lòng với lối sống, thu nhập hiện tại của họ. Vì thế, họ tự đặt câu hỏi “tại sao phải được thăng chức và làm bản thân căng thẳng hơn, vắt kiệt sức lực trong khi đơn giản chỉ cần làm những gì phù hợp với mình”.

Với những câu hỏi như “phát triển nghề nghiệp có ý nghĩa gì với bạn”, chỉ người phỏng vấn mới có thể đưa ra câu trả lời tốt nhất, theo Thill. Khi các nhà quản lý biết rằng Gen Z không muốn được thăng chức, hãy nhớ rằng nhiều người trong số họ muốn những điều đơn giản hơn, ví dụ tính minh bạch, người hướng dẫn và văn hóa công sở.

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer

Làn sóng sa thải nhân sự tiếp tục gia tăng vào cuối năm

Dù cố gắng cầm cự, song nhiều doanh nghiệp (DN) phải tiếp tục sa thải lao động vì thiếu đơn hàng và việc làm khiến làn sóng mất việc tiếp tục gia tăng vào những tháng cuối năm.

Hơn 88.000 doanh nghiệp "tạm nghỉ game" và rời khỏi thị trường trong 5 tháng qua

Chiều 9/11, trả lời PV báo Tiền Phong tại buổi họp báo về tình hình dịch bệnh và phục hồi kinh tế, bà Huỳnh Lê Như Trang, Phó Giám đốc Sở Lao động – Thương binh và Xã hội (Sở LĐ-TB&XH) TPHCM cho biết, theo thống kê từ số liệu tiếp nhận hồ sơ đề nghị hưởng trợ cấp thất nghiệp, trong 10 tháng năm 2023, số trường hợp đề nghị hưởng trợ cấp thất nghiệp là 142.704 người, so với cùng kỳ năm 2022 tăng 10,9%.

Theo bà Trang, số người nghỉ việc hưởng trợ cấp thất nghiệp tăng so với cùng kỳ năm 2022 có nhiều nguyên nhân, trong đó ảnh hưởng của tình hình kinh tế thế giới và trong nước gặp nhiều khó khăn, đã tác động đến sản xuất kinh doanh của DN.

Từ đó nhiều DN không tái ký hợp đồng với người sử dụng lao động sau khi hợp đồng hết hạn, hoặc thỏa thuận chấm dứt hợp đồng trước hạn. Bên cạnh đó, người lao động nghỉ việc ở các tỉnh lân cận TPHCM cũng đến Trung tâm Dịch vụ việc làm thành phố đăng ký hưởng trợ cấp thất nghiệp, đã góp phần gia tăng số người nghỉ việc cần được giải quyết chính sách bảo hiểm thất nghiệp.

Mới đây, tại cuộc họp kinh tế xã hội 10 tháng qua và dự báo tình hình cuối năm, bà Lê Thị Huỳnh Mai, Giám đốc Sở Kế hoạch và Đầu tư TPHCM thông tin, chỉ số việc làm tháng 10/2023 giảm 3,2% so với cùng kỳ, dự báo tình hình cắt giảm lao động ở các doanh nghiệp sẽ tăng trong quý 4/20223.

Bà Mai cho rằng tình hình kinh tế, các cuộc xung đột của thế giới phức tạp, khó đoán định đã có những tác động đến TPHCM. Cùng với đó, thị trường tiền tệ, tài chính, bất động sản tiếp tục có nhiều rủi ro. “Cắt giảm lao động tăng sẽ tạo áp lực lên công tác an sinh và việc thực hiện các chỉ tiêu kinh tế xã hội của thành phố cũng sẽ bị ảnh hưởng” – bà Mai nói.

Kết nối việc làm.

Đại diện Sở LĐ-TB&XH TPHCM cho biết, từ nay đến cuối năm sẽ thực hiện các hoạt động kết nối việc làm qua công tác tổ chức 10 sàn giao dịch việc làm để giải quyết nhu cầu việc làm và nhu cầu nhân lực phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh, trong đó có một sàn giao dịch trực tuyến kết nối với 13 tỉnh đồng bằng sông Cửu Long.

Về thị trường lao động từ nay đến cuối năm, theo nhận định của phía Sở LĐ-TB&XH, TPHCM, tuy vẫn còn nhiều khó khăn, song để chuẩn bị cho nhu cầu sản xuất – kinh doanh dịp Tết, nhiều DN vẫn có nhu cầu tuyển dụng cao, dự kiến nhu cầu nhân lực quý IV năm 2023 cần khoảng 75.500 – 81.500 nhân sự làm việc.

Nhu cầu nhân lực tập trung ở khu vực thương mại – dịch vụ chiếm 70,1% tổng nhu cầu nhân lực. Trong khi đó, khu vực công nghiệp – xây dựng chiếm 29,6% và khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm 0,18% tổng nhu cầu nhân lực.

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer

Theo Báo Tiền Phong

[Download từ Google] Thay thế MMM (Marketing Mix Models) bằng R&F MMM

Phạm vi tiếp cận và tần suất (R&F) là đòn bẩy cốt lõi của hầu hết các chiến dịch quảng cáo, tuy nhiên nó không được theo dõi một cách chính xác trong các mô hình Marketing Mix (MMM) do các mô hình này không có số liệu R&F chính xác từ một số kênh truyền thông truyền thống.

Trên thực tế, các nhà quảng cáo hay thương hiệu thường sử dụng số lần hiển thị (impressions) được tổng hợp ở cấp khu vực làm dữ liệu đầu vào cho MMM mà không tính đến thực tế là một cá nhân hay người tiêu dùng nào đó có thể xem quảng cáo nhiều lần và tác động của quảng cáo đối với một cá nhân có thể thay đổi dựa trên số lượng lần họ tiếp xúc (với quảng cáo và thương hiệu).

Để giải quyết hạn chế này, các nghiên cứu mới đây đề xuất mô hình R&F MMM làm mô hình thay thế cho mô hình MMM vốn hiện đang được sử dụng rộng rãi.

Bằng cách kết hợp chỉ số R&F vào các mô hình MMM truyền thống, phương pháp mới được chứng minh là đưa ra các ước tính chính xác hơn về tác động của hoạt động Marketing đến kết quả kinh doanh của doanh nghiệp và giúp thương hiệu tối ưu hóa việc thực hiện chiến dịch của họ dựa trên các đề xuất tần suất tối ưu.

Bạn có thể tải xuống hướng dẫn chi tiết về R&F MMM tại đây.

Tại sao ứng viên có bằng cấp giỏi và kinh nghiệm dày dặn vẫn bị nhà tuyển dụng phớt lờ

Dường như tình hình tìm việc trở nên khó khăn hơn cho bất kỳ ai đã tốt nghiệp đại học, cao đẳng hoặc đang là thực tập sinh. Ngay cả những ứng viên loại giỏi có bề dày kinh nghiệm cũng cảm thấy hoang mang về diễn biến này. Điều đó chính xác đến từ đâu?

Tại sao ứng viên có bằng cấp giỏi và kinh nghiệm dày dặn vẫn bị nhà tuyển dụng phớt lờ
Tại sao ứng viên có bằng cấp giỏi và kinh nghiệm dày dặn vẫn bị nhà tuyển dụng phớt lờ

Dường như tình hình tìm việc trở nên khó khăn hơn cho bất kỳ ai đã tốt nghiệp đại học, cao đẳng hoặc đang là thực tập sinh. Ngay cả những ứng viên loại giỏi có bề dày kinh nghiệm cũng cảm thấy hoang mang về diễn biến này. Điều đó chính xác đến từ đâu?

Một phân tích gần đây về gần 4 triệu việc làm được đăng trên LinkedIn kể từ cuối năm 2017 cho thấy 35% các vị trí đăng tuyển cho các vị trí “mới bắt đầu” yêu cầu có nhiều năm kinh nghiệm làm việc liên quan trước đó.

Yêu cầu đó thậm chí còn phổ biến hơn trong một số ngành nhất định. Ví dụ: hơn 60% danh sách cho các công việc về phần mềm và Dịch vụ CNTT ở cấp độ đầu vào yêu cầu ba năm kinh nghiệm trở lên.

Người lao động cần một thứ gì đó hơn là động lực hoặc bằng đại học để gia nhập lực lượng lao động ngay bây giờ, cho dù đó là rất nhiều thực tập, hoặc các kết nối để thực hiện một quy trình ứng dụng phức tạp mà không cần một thuật toán loại bỏ họ. Nhưng không phải ai cũng có thể tiếp cận được những lợi thế đó, và kết quả là người lao động đang bị bỏ lại phía sau.

Hãy cùng xem một vài nguyên nhân dưới đây để hiểu rõ hơn ứng viên có “bằng cấp loại giỏi” và “kinh nghiệm dày dặn” vẫn bị đánh trượt.

Sự gia tăng của việc thực tập

Seals cho biết: Thị trường thực tập ngày càng phát triển đồng nghĩa với việc ngày càng có nhiều người trẻ làm hồ sơ xin việc trước khi rời trường đại học, nhiều sinh viên hiện đang nhận được kỳ thực tập đầu tiên sau năm đầu tiên.

Thứ nhất, các công ty có thể tiết kiệm tiền bằng cách sử dụng sinh viên thực tập để làm công việc đó mà không cần phải trả lương cho nhân viên cấp dưới; công ty càng có nhiều thực tập sinh, thì khả năng mở công việc ở cấp độ đầu vào càng ít.

Thứ hai, bởi vì những ứng viên có một hoặc nhiều vị trí thực tập trong sơ yếu lý lịch của họ không khó tiếp cận, những người không có kinh nghiệm thực tập sẽ bị bỏ rơi. Điều đó có thể xảy ra với những sinh viên không có khả năng thực tập không lương hoặc lương thấp, hoặc những người gặp khó khăn trong việc đảm bảo một suất thực tập.

Nhiều doanh nghiệp giữ lại phần ít nhân viên chính thức có kinh nghiệm lâu năm cùng với nhóm thực tập sinh. Vì vậy nhiều người có bằng cấp giỏi cũng có thể bị trượt bởi những lý do này.

Biến động của thị trường lao động 

Thị trường lao động dường như trở nên biến động hơn, đặc biệt ở hậu Covid-19. Ứng viên và nhà tuyển dụng đều có những tiêu chuẩn riêng khi tiếp cận một vị trí, bao gồm nguyện vọng cá nhân, phúc lợi, thương hiệu doanh nghiệp, kinh nghiệm và kỹ năng. Trong đó, nhà tuyển dụng yêu cầu cao hơn về mặt kỹ năng cần thiết khi các phần mềm hỗ trợ công việc liên tục được ra đời. Do đó, kỹ năng và tính thích nghi lại là yếu tổ chủ chốt quyết định trong mắt của nhà tuyển dụng.

Tuy nhiên, vấn đề có thể không chỉ nằm ở phía tuyển dụng. Đại dịch đã khiến mọi người phải suy nghĩ lại về cuộc sống và công việc của họ. Ứng viên đang dần trở nên chủ động hơn trong quá trình nắm bắt cơ hội tìm việc.

Nhiều nhà tuyển dụng nói rằng họ đang tìm kiếm nhân viên khó khăn để chọn lọc và đào tạo nhân tài. Mặc dù số lượng cần tuyển đầu vào của doanh nghiệp vẫn đang tăng nhanh, nhưng vẫn có nhiều người giỏi bị thất nghiệp do công ty không đủ sự đầu tư hoặc đáp ứng yêu cầu của ứng viên giỏi vượt quá khả năng của công ty.

Kinh nghiệm của ứng viên không phù hợp

Nhiều bạn trẻ ngây thơ ghi tất cả kinh nghiệm làm việc của mình vào hồ sơ xin việc. Một số người viết sơ yếu lý lịch để tuyển dụng nhân viên kế toán, nhưng ghi lại kinh nghiệm của họ với tư cách là người cố vấn, phiên dịch hoặc tiếp thị.

Những kinh nghiệm làm việc bằng văn bản này vừa không hiệu quả vừa khiến bản sơ yếu lý lịch trở nên dài dòng và lộn xộn. Từ đó, bản lý lịch khơi dậy thiện cảm của mọi người và không có ấn tượng gì về bộ phận nhân sự.

Ngoài ra, khi đọc những thông tin này, nhà tuyển dụng sẽ không đánh giá được năng lực của ứng viên có phù hợp với công việc hay không. Điều mà nhà tuyển dụng muốn xem trong CV xin việc của họ là liệu kinh nghiệm của ứng viên có liên quan đến vị trí họ đang ứng tuyển hay không, họ có kiến ​​thức và kỹ năng gì và liệu họ có phù hợp với vị trí đó hay không.

Vì vậy, khi viết sơ yếu lý lịch, ứng viên không nên đưa kinh nghiệm không liên quan đến vị trí ứng tuyển mà nên liệt kê các vị trí liên quan. Chỉ khi đó, nhà tuyển dụng mới đánh giá đúng về trình độ và năng lực mà ứng viên có.

Có vô vàn lý do khiến khiến ứng viên dù có nhiều kinh nghiệm vẫn bị từ chối bởi biến động thị trường thay đổi nhanh chóng, chính vì vậy sự linh hoạt từ doanh nghiệp và ứng viên là cần thiết trong mỗi giai đoạn.

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer

 

Theo VietnamWorks

Nghiên cứu: Gen Z chịu ảnh hưởng mua hàng từ bạn bè chứ không phải KOL

Mặc dù nghiên cứu cho thấy có đến 48% Gen Z thích mua sắm trên mạng xã hội, đặc biệt là trên TikTok, hành vi mua hàng của nhóm người dùng này ít chịu sự ảnh hưởng từ những người nối tiếng (KOL, Influencer), thay vào đó, những bạn bè đồng trang lứa mới là yếu tố quan trọng nhất.

Nghiên cứu: Gen Z chịu ảnh hưởng mua hàng từ bạn bè chứ không phải KOL
Nghiên cứu: Gen Z chịu ảnh hưởng mua hàng từ bạn bè chứ không phải KOL

Theo một Khảo sát gần đây của Shopify-Gallup, người Mỹ trong độ tuổi từ 18 đến 29, phần lớn trong số này là Gen Z, có hành vi mua sắm rất khác so với các thế hệ khác.

Số liệu cho thấy có đến 48% người dùng sẽ thực hiện ít nhất một số hoạt động mua sắm cuối năm trên các nền tảng mạng xã hội như TikTok hoặc Instagram. Con số này cao hơn nhiều so với 1/3 tổng số người mua sắm nói chung.

Đối với các thương hiệu đang cố gắng thu hút khách hàng Gen Z, sự hiện diện hấp dẫn trên mạng xã hội theo đó là chìa khóa chính.

Theo báo cáo của ICSC, khoảng 86% người mua sắm thuộc Gen Z cho biết mạng xã hội ảnh hưởng lớn đến quyết định mua hàng của họ.

Bà Savannah Wei Shi, phó Giáo sư Marketing tại Đại học Santa Clara cho biết, người tiêu dùng trẻ không còn sử dụng các công cụ tìm kiếm (như Google) hoặc website chính thức của thương hiệu để mua sắm nữa.

Chuyên gia này nói: “Họ đã chuyển từ sự khôn ngoan của đám đông sang sự khôn ngoan của những bạn bè cùng trang lứa với mình.”

Nói cách khác, một sản phẩm không còn hấp dẫn chỉ vì mọi người đều có nó. Đối với Gen Z, một sản phẩm sẽ thú vị khi nhiều bạn bè của họ cũng đang sử dụng nó.

Hành vi mua hàng của Gen Z chịu sự ảnh hưởng từ bạn bè của họ thay vì là những người nổi tiếng.

Cách đây vài năm, các khái niệm như KOL hay Influencer (Celeb) nổi lên và được xem như là yếu tố có sức ảnh hưởng lớn đến các quyết định mua sắm. Tuy nhiên, Gen Z giờ đây đã khác, họ không tin hay quan tâm đến việc liệu một người nổi tiếng nào đó có sử dụng sản phẩm mà họ định mua hay không.

Thay vào đó, một người bạn hay người cùng trang lứa tương tự như họ lại có sức ảnh hưởng hơn cả. Và ngay cả khi “người đồng trang lứa” là người có ảnh hưởng, Gen Z vẫn dễ chấp nhận hơn nhiều so với việc thương hiệu quảng cáo thẳng đến họ.

Website chính thức của thương hiệu không có sức hấp dẫn với những người dùng trẻ như Gen Z.

Theo thông tin được ghi nhận từ các nhà bán lẻ có khách hàng là Gen Z, các tài khoản của họ trên Instagram hay TikTok mang lại giá trị cao hơn nhiều so với các website chính thức của thương hiệu.

Trong tương lai, họ cũng cảm thấy rằng TikTokInstagram sẽ đóng vai trò lớn hơn trong việc ảnh hưởng đến doanh số bán hàng thay vì là từ website chính của họ.

Có những lý do giải thích tại sao cụm từ “TikTok khiến tôi mua nó” trở nên phổ biến.

Theo các phân tích, TikTok trở nên phổ biến với người dùng vì nền tảng này đặc biệt lý tưởng để giới thiệu về sản phẩm và các lợi ích của chúng.

So với các đoạn giới thiệu dài và khô khan bằng văn bản (text), các video ngắn và trực quan dường như dễ được tiếp nhận và có sức ảnh hưởng cao hơn. Các tính năng mua sắm trong ứng dụng là những điểm cộng khác với các nền tảng như TikTok.

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer

Hà Anh  | MarketingTrips   

Sức ảnh hưởng của các dữ liệu mạng xã hội tới sự thành công của doanh nghiệp

Báo cáo mới đây Social Media 2023 State của Sprout Social (nền tảng Social Listening) cho thấy sức ảnh hưởng ngày càng tăng của các dữ liệu trên mạng xã hội (Social Media data) đối với sự thành công của doanh nghiệp.

Sức ảnh hưởng của các dữ liệu mạng xã hội tới sự thành công của doanh nghiệp
Sức ảnh hưởng của các dữ liệu mạng xã hội tới sự thành công của doanh nghiệp

Các nghiên cứu mới đây cho thấy, các nhà lãnh đạo hay điều hành doanh nghiệp ngày càng nhận ra tầm quan trọng của các dữ liệu xã hội và sự hiểu biết sâu sắc về các dữ liệu đó (Insights) trong việc diễn giải hành vi của người tiêu dùng, dự đoán xu hướng và đưa ra các quyết định sáng suốt (dựa trên thông tin và dữ liệu).

Dữ liệu xã hội (Social Data) không chỉ dừng lại ở những con số mà còn là dùng để tạo ra các kết quả kinh doanh thực tế tại doanh nghiệp.

Việc kết hợp những hiểu biết từ các dữ liệu xã hội vào mọi khía cạnh của doanh nghiệp theo đó là vô cùng quan trọng để xác định đúng chiến lược, phân tích đối thủ cạnh tranh và hơn thế nữa.

Trong báo cáo Social Media năm 2023 của Sprout Social, các ưu tiên kinh doanh phù hợp nhất trong môi trường kinh tế ngày nay là:
  • Xây dựng danh tiếng thương hiệu và lòng trung thành của khách hàng với thương hiệu.
  • Có được những cấp độ hiểu biết sâu sắc hơn về khách hàng.
  • Nâng cao vị thế cạnh tranh.
  • Tiến về phía trước bằng cách liên tục dự đoán các xu hướng trong tương lai.

Dưới đây là một số ví dụ về cách các doanh nghiệp đã tận dụng dữ liệu và sự hiểu biết từ mạng xã hội để tạo ra những kết quả kinh doanh tích cực cho doanh nghiệp.

Cách Plaid sử dụng dữ liệu mạng xã hội để nâng cao nhận thức về thương hiệu.

Plaid là công ty fintech có trụ sở tại San Francisco, Mỹ, cho phép người tiêu dùng kết nối tài khoản tài chính của họ với các ứng dụng và dịch vụ yêu thích mà không ảnh hưởng đến yếu tố an toàn và bảo mật.

Thành công của thương hiệu hay doanh nghiệp này phụ thuộc rất nhiều vào hoạt động “giáo dục và định hướng” tới các bên liên quan – bao gồm cả người tiêu dùng và những tổ chức tài chính khác, cả hai nhóm này vốn dĩ là không thành thạo hay hiểu rõ bản chất của các yếu tố công nghệ đằng sau ứng dụng.

Vì hiểu rằng các nhóm đối tượng mục tiêu trên mạng xã hội đóng vai trò quyết định trực tiếp đến sự thành công của doanh nghiệp, Plaid đặt mục tiêu trao quyền cho những người theo dõi họ mình bằng nội dung hữu ích, giàu thông tin để từ đó chính khách hàng sẽ là những “đại sứ” chia sẻ và lan truyền thông tin về thương hiệu.

Bằng cách sử dụng Sprout Social, một nền tảng lắng nghe mạng xã hội được hỗ trợ bởi AI (trí tuệ nhân tạo), Plaid đã có thể tạo ra vòng phản hồi dựa trên dữ liệu, cao nhận thức và danh tiếng về thương hiệu.

Đại diện của Plaid cho biết: “Nếu có điều gì đó không hiệu quả, chúng tôi có thể tìm hiểu nguyên nhân và điều chỉnh lại chiến lược của mình để đảm bảo rằng chúng tôi đang cung cấp cho nhiều đối tượng khán giả quyền truy cập vào thông tin họ muốn, theo cách họ muốn sử dụng thông tin đó.”

Bằng cách phân tích cả dữ liệu hiệu suất và thông tin chi tiết về sức khỏe của thương hiệu thông qua mạng xã hội, doanh nghiệp có thể hiểu rõ hơn điều gì đang mang lại giá trị và điều gì thì không với khách hàng.

Khi mạng xã hội trở thành một điểm chạm không thể thiếu với phần lớn khách hàng, vai trò của người làm marketing trong việc có được dữ liệu và hiểu dữ liệu là hết sức cần thiết.

Cách Hudl dựa vào dữ liệu xã hội để hiểu được nhu cầu sử dụng dịch vụ của khách hàng.

Tính thời vụ là điều mà nhiều thương hiệu hiện nay phải đối mặt, bất kể các doanh nghiệp đó đang kinh doanh trong ngành nào.

Tính thời vụ trong dịch vụ khách hàng có thể tạo ra nhiều thách thức lớn cho thương hiệu khi họ phải quyết định liệu có nên tăng chi tiêu hay không.

Hudl, một công ty phần mềm chuyên cung cấp các công cụ phân tích hiệu suất khi sử dụng các nền tảng mạng xã hội để làm marketing cũng đang phải đối mặt với điều này.

Tuy nhiên, bằng cách tận dụng các công cụ phân tích phù hợp để có nhiều dữ liệu và hiểu biết hơn về khách hàng của họ, doanh nghiệp này đã có thể vượt qua các thách thức đang có.

Thông qua Sprout Social, doanh nghiệp này hiện có thể dự đoán về khối lượng yêu cầu dịch vụ từ các kênh khác nhau, cho phép doanh nghiệp xác định việc khi nào cần thúc đẩy các hoạt động cung cấp dịch vụ và khi nào thì không (hoặc giảm).

Kết luận.

Khi mạng xã hội không chỉ còn là nơi để giao tiếp, các doanh nghiệp nào càng tận dụng được nó trong việc thu thập dữ liệu và thấu hiểu khách hàng thì càng có nhiều cơ hội để thành công.

Với các dữ liệu có được, doanh nghiệp có thể xây dựng chiến lược, xây dựng nội dung và hơn thế nữa để đáp ứng nhu cầu ngày càng thay đổi của khách hàng.

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer

 

Nam Nguyen | MarketingTrips

Consumerism là gì? Consumerist là ai? Lợi ích và Tác hại

Trong phạm vi bài viết này, hãy cùng MarketingTrips tìm hiểu về một thuật ngữ rất phổ biến trong lĩnh vực kinh tế tiêu dùng nói chung và marketing nói riêng đó là Consumerism (Chủ nghĩa tiêu dùng): consumerism là gì, nó ảnh hưởng ra sao đến nền kinh tế, Consumerist là gì, ưu điểm và nhược điểm (lợi ích và tác hại) của Consumerism và hơn thế nữa.

consumerism là gì
Consumerism là gì? Consumerist là ai? Lợi ích và Tác hại

Được sử dụng rất phổ biến trong kinh tế vĩ mô, tiêu dùng hay cả ngành marketing, thuật ngữ Consumerism thường được nhắc đến với ý tưởng tích cực và có lợi cho bản thân người tiêu dùng lẫn xã hội, tuy nhiên trong thực tế nó cũng đi kèm với không ít khía cạnh tiêu cực hay quan điểm trái chiều từ cả góc nhìn kinh tế và xã hội.

Phân tích dưới đây từ MarketingTrips sẽ giúp bạn có được những cái nhìn từ tổng thể đến chi tiết xoay quanh thuật ngữ này, từ các khái niệm và ý nghĩa cơ bản đến các phân tích chuyên sâu về cách chủ nghĩa tiêu dùng tác động đến nền kinh tế và xã hội.

Consumerism là gì?

Consumerism trong tiếng Việt có nghĩa là Chủ nghĩa tiêu dùng hoặc Chủ nghĩa tiêu thụ, là ý tưởng cho rằng việc tăng cường tiêu thụ các hàng hóa và dịch vụ mua trên thị trường luôn là mục tiêu mong muốn và hạnh phúc của một người tiêu dùng nào đó.

Về cơ bản, sự hạnh phúc và thoả mãn của các nhóm người tiêu dùng này phụ thuộc vào việc họ có được tiêu dùng, mua sắm và sở hữu của cải vật chất hay không. Chủ nghĩa tiêu dùng gắn liền với yếu tố Vật chất hơn là Tinh thần.

Theo ý nghĩa kinh tế, chủ nghĩa tiêu dùng có liên quan đến ý tưởng rằng hoạt động chi tiêu của người tiêu dùng là động lực chính của nền kinh tế và khuyến khích người tiêu dùng chi tiêu nhiều hơn là mục tiêu chính của các chính sách.

Từ quan điểm này, chủ nghĩa tiêu dùng là một hiện tượng tích cực nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.

Tuy nhiên, nhiều quan điểm khác lại cho rằng việc coi động lực để có được nhiều của cải vật chất là gốc rễ của nhiều vấn đề, bao gồm việc gây lo lắng cho cá nhân và làm xói mòn cơ cấu xã hội.

Consumerist là gì hay họ là ai?

Consumerist chính là những người tiêu dùng sống theo chủ nghĩa tiêu dùng. Họ cảm thấy hạnh phúc và thoả mãn khi được tiêu dùng nhiều hơn, mua sắm nhiều hơn ngay cả khi những thứ mà họ mua thực sự không phải để phục vụ nhu cầu cần thiết của họ.

Consumerist đơn giản là từ được xây dựng từ Consumer (Người tiêu dùng) và Consumerism (Chủ nghĩa tiêu dùng).

Những lưu ý cần hiểu về cái gọi là Consumerism.

  • Chủ nghĩa tiêu dùng là lý thuyết được sử dụng chủ yếu trong lĩnh vực kinh tế thị trường (và marketing) cho rằng những cá nhân hay người tiêu dùng càng tiêu thụ nhiều hàng hóa và dịch vụ thì họ sẽ càng có cuộc sống tốt hơn.
  • Một số nhà kinh tế tin rằng chi tiêu tiêu dùng (consumer spending) giúp kích thích sản xuất và tăng trưởng kinh tế.
  • Các nhà kinh tế xem tiêu dùng (consumption) là việc đáp ứng nhu cầu và mong muốn sinh học của người tiêu dùng dựa trên việc tối đa hóa các tiện ích.
  • Thay vào đó, các nhà xã hội học lại xem tiêu dùng là việc đáp ứng những nhu cầu và mong muốn vốn được nhìn nhận theo hướng xã hội thông qua các giao dịch mang tính biểu tượng.
  • Chủ nghĩa siêu tiêu dùng (Hyper-consumerism) đã bị chỉ trích rộng rãi vì những hậu quả gây ra cho kinh tế, xã hội, môi trường và tâm lý.

Hiểu đúng về khái niệm Consumerism.

Khi nói đến các khái niệm hay thuật ngữ kinh tế, điều quan trọng không phải là chuyện đúng sai của câu từ mà là ý nghĩa sâu xa hay bản chất đằng sau các khái niệm đó.

Trong cách sử dụng thông thường, chủ nghĩa tiêu dùng đề cập đến xu hướng của những người chủ yếu sống trong nền kinh tế tư bản tham gia vào lối sống chủ nghĩa vật chất quá mức xoay quanh việc tiêu dùng quá mức theo phản xạ (tự nhiên), và điều này thường gây lãng phí.

Theo nghĩa này, chủ nghĩa tiêu dùng được hiểu rộng rãi là góp phần phá hủy các giá trị và lối sống truyền thống, sự bóc lột hoặc “khai thác” người tiêu dùng bởi các doanh nghiệp lớn, thứ cuối cùng sẽ tạo ra sự kiệt quệ về môi trường và những tác động tâm lý tiêu cực khác.

Ví dụ, Thorstein Veblen là nhà kinh tế học và nhà xã hội học thế kỷ 19 nổi tiếng với việc đặt ra thuật ngữ “tiêu dùng phô trương” (conspicuous consumption) trong cuốn sách Lý thuyết về giai cấp nhàn rỗi (1899).

Tiêu dùng phô trương là một phương tiện để thể hiện địa vị xã hội của một người, đặc biệt khi hàng hóa và dịch vụ được trưng bày công khai là quá đắt đối với những người khác cùng tầng lớp. Kiểu tiêu dùng này thường gắn liền với những người giàu có nhưng cũng có thể áp dụng cho bất kỳ tầng lớp kinh tế nào khác trong xã hội, bao gồm cả tầng lớp trung lưu hoặc thấp hơn.

Khi người tiêu dùng chi tiêu, các nhà kinh tế cho rằng người tiêu dùng được hưởng lợi từ các tiện ích của hàng tiêu dùng mà họ mua, nhưng các doanh nghiệp cũng được hưởng lợi từ việc tăng doanh thu và lợi nhuận. Ví dụ: nếu doanh số bán ô tô tăng, các nhà sản xuất ô tô sẽ thấy lợi nhuận tăng.

Một số nhà kinh tế khác coi mức chi tiêu tiêu dùng ngày càng tăng là mục tiêu quan trọng trong việc xây dựng và duy trì một nền kinh tế vững mạnh, bất kể lợi ích đối với người tiêu dùng hay toàn xã hội. Tuy nhiên, những người khác lại khá lo ngại về những tác động xã hội tiêu cực mà chủ nghĩa tiêu dùng (đặc biệt là chủ nghĩa siêu tiêu dùng) gây ra.

Những tác động kinh tế của Consumerism.

Theo lý thuyết về kinh tế học vĩ mô của nhà kinh tế học Keynes, thúc đẩy chi tiêu của người tiêu dùng thông qua chính sách tài chính và tiền tệ là mục tiêu hàng đầu của các nhà hoạch định chính sách kinh tế.

Chi tiêu tiêu dùng luôn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng cầu và tổng sản phẩm quốc nội (GDP), do đó thúc đẩy chi tiêu tiêu dùng được coi là cách hiệu quả nhất để lèo lái nền kinh tế theo hướng tăng trưởng.

Chủ nghĩa tiêu dùng coi người tiêu dùng (consumer) là mục tiêu của chính sách kinh tế và là dòng tiền (cash cow) cho kinh tế với niềm tin duy nhất rằng việc tăng cường tiêu dùng sẽ mang lại lợi ích cho nền kinh tế. Tiết kiệm thậm chí có thể được coi là có hại cho nền kinh tế vì nó gây tổn hại đến chi tiêu tiêu dùng tức thì.

Các hoạt động Marketing và quảng cáo của doanh nghiệp thường tập trung vào việc tạo ra nhu cầu của người tiêu dùng đối với các sản phẩm mới hơn là thông báo cho người tiêu dùng về các tiêu dùng cần thiết đơn thuần.

Hiểu về khái niệm Conspicuous Consumption.

Nhà kinh tế chính trị Thorstein Veblen là người đã phát triển nên khái niệm tiêu dùng phô trương vào năm 1899, trong đó ông đưa ra giả thuyết rằng một số người tiêu dùng mua, sở hữu và sử dụng sản phẩm không phải vì giá trị sử dụng trực tiếp của chúng mà như là một cách để báo hiệu địa vị kinh tế và xã hội của họ.

Khi mức sống tăng lên, mức tiêu dùng phô trương cũng tăng lên.

Dưới hình thức tiêu dùng phô trương, chủ nghĩa tiêu dùng có thể tạo ra chi phí thực tế rất lớn cho nền kinh tế. Việc tiêu thụ hàng hoá chỉ để giành lấy địa vị xã hội cuối cùng sẽ đè nặng lên môi trường, thị trường và nhiều thứ khác.

Các nhà xã hội học coi chủ nghĩa tiêu dùng là sự tiêu dùng mang tính biểu tượng và có thể không giúp tối đa hóa lợi ích cá nhân của người tiêu dùng.

Thay vào đó, nó có thể đóng vai trò là tín hiệu cho người khác và giúp xác định danh tính của một người nào đó. Khi trở thành người tiêu dùng, các tác nhân xã hội (ví dụ như các áp lực ngang hàng hoặc nhà quảng cáo) sẽ làm hạn chế quyền tự do lựa chọn của chính người tiêu dùng.

Ưu điểm và nhược điểm của Consumerism là gì?

Ưu điểm của Consumerism.

Những người ủng hộ chủ nghĩa tiêu dùng coi việc chi tiêu của người tiêu dùng là hành động có thể thúc đẩy nền kinh tế và dẫn đến tăng cường sản xuất hàng hóa và dịch vụ. Khi chi tiêu tiêu dùng cao hơn, GDP có thể tăng lên.

Nhược điểm của Consumerism.

Chủ nghĩa tiêu dùng thường bị chỉ trích vì lý do văn hóa. Một số người thấy rằng chủ nghĩa tiêu dùng có thể dẫn đến một xã hội sống vì vật chất mà bỏ qua các giá trị khác ví dụ như yếu tố tinh thần hay văn hoá.

Các phương thức sản xuất và lối sống truyền thống có thể được thay thế bằng việc tập trung vào việc tiêu thụ những hàng hóa đắt tiền hơn bao giờ hết với số lượng lớn hơn.

Chủ nghĩa tiêu dùng thường gắn liền với toàn cầu hóa trong việc thúc đẩy sản xuất và tiêu thụ hàng hóa và thương hiệu được giao dịch toàn cầu, điều này có thể không tương thích với văn hóa địa phương và mô hình hoạt động kinh tế của một số quốc gia nhất định. Chủ nghĩa tiêu dùng cũng có thể tạo ra động cơ khuyến khích người tiêu dùng gánh những khoản nợ không bền vững, điều này cũng góp phần gây ra khủng hoảng và suy thoái tài chính.

Các vấn đề về môi trường cũng thường gắn liền với chủ nghĩa tiêu dùng. Những vấn đề có thể bao gồm sự phát triển đô thị, ô nhiễm, cạn kiệt tài nguyên và các vấn đề về xử lý chất thải từ các hàng hoá tiêu dùng và bao bì dư thừa.

Chủ nghĩa tiêu dùng cũng bị chỉ trích vì lý do tâm lý. Nó được cho là nguyên nhân làm gia tăng sự lo lắng về địa vị, khi mọi người chịu nhiều áp lực liên quan đến địa vị xã hội và nhận thấy rằng nhu cầu của họ không “theo kịp những người nổi tiếng” hay những người khác trong xã hội.

Nghiên cứu tâm lý đã chỉ ra rằng những người tổ chức cuộc sống của họ xung quanh các mục tiêu tiêu dùng, chẳng hạn như mua sản phẩm, thường có tâm trạng kém hơn, bất hạnh hơn trong các mối quan hệ và các vấn đề tâm lý khác.

Các thí nghiệm tâm lý khác cũng đã chỉ ra rằng những người tiếp xúc với các giá trị tiêu dùng dựa trên sự giàu có, địa vị và của cải vật chất thường có biểu hiện lo lắng và trầm cảm nhiều hơn.

Nói cách khác, khoa học cho thấy chủ nghĩa tiêu dùng không hề khiến con người hạnh phúc chút nào (như cách mà những người ủng hộ chủ nghĩa tiêu dùng phát ngôn).

Một số ví dụ điển hình về Consumerism là gì?

Chủ nghĩa tiêu dùng (Consumerism) được xác định bằng việc một người tiêu dùng nào đó không ngừng theo đuổi việc mua sắm và tiêu dùng. Các ví dụ bao gồm mua sắm thoải mái, đặc biệt là những hoạt động thu hút nhiều người, chẳng hạn như trong các mùa lễ hội mua sắm hay giảm giá.

Một ví dụ khác về chủ nghĩa tiêu dùng liên quan đến việc theo đuổi các sản phẩm mới hàng năm (sản phẩm mới về cơ bản là có cùng mục đích sử dụng với các sản phẩm hiện có).

Tiêu dùng phô trương cũng là một ví dụ khác của chủ nghĩa tiêu dùng khi người tiêu dùng mua hàng chỉ để thể hiện địa vị hoặc thể hiện một hình ảnh cá nhân nào đó của họ. (Mặc dù điều này không phải lúc nào cũng mang hàm ý tiêu cực).

Consumerism hay Chủ nghĩa tiêu dùng có gây hại cho xã hội không?

Trong khi mọi người cần phải là người tiêu dùng để sống và đạt được những nhu cầu cũng như mong muốn của mình, chủ nghĩa tiêu dùng quá mức được nhiều người bao gồm cả các chuyên gia kinh tế cho là ảnh hưởng tiêu cực đến xã hội.

Chủ nghĩa tiêu dùng dẫn đến các ngoại tác tiêu cực như ô nhiễm và lãng phí. Hơn nữa, chủ nghĩa tiêu dùng bắt đầu định nghĩa con người bằng những gì họ sở hữu.

Theo một số nhà xã hội học, văn hóa đại chúng chủ yếu được xây dựng và trở nên phổ biến thông qua ngành quảng cáo tạo ra những người tiêu dùng đóng vai trò thụ động bị các thương hiệu thao túng hơn là những thực thể năng động và sáng tạo.

Có những thành kiến mang tính hệ thống trong hệ thống tạo ra chủ nghĩa tiêu dùng. Nếu những thành kiến ​​này bị loại bỏ, nhiều người tiêu dùng sẽ áp dụng lối sống ít tiêu dùng hơn.

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer

Nguồn: MarketingTrips

Trung Quốc biến một quốc gia thành “thiên đường hàng nhái”

Một buổi chiều tháng 9 tại Chợ Balogun, các thương lái nhanh tay bày biện hàng hóa để chào mời khách. Một số lấn chiếm tràn cả ra đường khiến người đi bộ phải bước vòng qua rất khó khăn. 

Trung Quốc biến một quốc gia thành "thiên đường hàng nhái"
Trung Quốc biến một quốc gia thành “thiên đường hàng nhái”

Nhiều mặt hàng trông khá quen thuộc, in hẳn logo Nike, Adidas… song lại có tên rất lạ: Adidas, Baiencglaca, Berbuery và Guccy. Các ông chủ, bà chủ đon đả mời khách vào xem qua, miệng liến thoắng: “Quần jean, thắt lưng, giày thiết kế nguyên bản. Hãy theo tôi và tôi sẽ cho bạn giá bán buôn”, một người nói, tay đưa nhanh tấm danh thiếp có hình ảnh sản phẩm nhỏ xíu.

Ở Nigeria, chúng được gọi là hàng fake, na ná giống bản auth nhưng có giá chỉ bằng một phần nhỏ. Trước khi mời chào khách ở Chợ Balogun, các thương lái thường nhập hàng trên các nền tảng mua sắm Trung Quốc.

Bất chấp nhiều năm đấu tranh pháp lý, một số nền tảng thương mại điện tử Trung Quốc vẫn tràn ngập hàng nhái, trong đó, AliExpress, Taobao và DHgate nổi tiếng là những ‘thiên đường hàng giả’. Không khó để tìm ra một chiếc túi xách bản dupe Dolce&Gabbana với giá chưa đến 20 USD hay một đôi Nike rẻ tiền.

Phóng viên Rest of World đã có dịp trò chuyện với 40 thương lái. 35 người cho biết họ thường nhập hàng từ các nền tảng Trung Quốc hoặc trực tiếp từ nhà sản xuất.

Theo Ganiu Adewuyi, giám đốc điều hành tại ABSAS Nigeria Limited, trước sự trỗi dậy của các trang thương mại điện tử Trung Quốc, quần áo đã qua sử dụng trở thành mặt hàng phổ biến ở Nigeria. Các thương nhân nhập khẩu các kiện hàng thiết kế cũ từ khắp nơi trên thế giới, từ châu Âu, Mỹ đến các nước láng giềng.

“Một khi có nhu cầu, hàng nhái sẽ xuất hiện”, Ganiu Adewuyi nói.

Deepankar Rustagi, đồng sáng lập và Giám đốc điều hành nền tảng thương mại điện tử B2B OmniBiz Africa có trụ sở tại Lagos, cho biết hàng giả đã tràn lan ở Nigeria trong hơn một thập kỷ và Trung Quốc chính là nhà cung cấp. Sự phát triển của ngành thương mại điện tử đã giúp số hóa và mở rộng thị trường hàng giả của Nigeria.

Trung Quốc trước đó đã nỗ lực kiểm soát thị trường hàng nhái trực tuyến thông qua nhiều dự luật, thậm chí tịch thu và tiêu hủy hàng kém chất lượng. Tuy nhiên, có vẻ như ngay khi một liên kết giả mạo được báo cáo và xóa đi, một liên kết khác lại xuất hiện.

Các nhà lập pháp Nigeria cố gắng ngăn chặn hàng giả, song việc thiếu hụt các cơ chế thực thi mạnh mẽ đã gây ra rất nhiều khó khăn. Theo Ochije Nnani, một chuyên gia thương mại điện tử, “hơn 90% thương hiệu thời trang bán ở Nigeria là hàng nhái và chúng chủ yếu đến từ Trung Quốc hoặc châu Á.

“Người Nigeria muốn mặc đẹp, song lại không đủ sức mua hàng thật”, Ochije Nnani nói. Trên các trang bán buôn như YiToo và 1688 thuộc sở hữu của Alibaba, một đôi Nike hoặc Adidas có thể được bán với giá dưới 10 USD.

Namang Banah, 33 tuổi, sống ở Lagos, bắt đầu bán buôn vào năm 2018 sau khi đến tỉnh Hồ Nam theo học. Vào thời điểm đó, anh nhận ra sống ở Trung Quốc tương tự với việc “ngồi trên một mỏ vàng”. Anh sẽ đóng vai người trung gian giữa bạn bè ở Nigeria và nền tảng mua sắm Trung Quốc.

“Khám phá thế giới thương mại điện tử là lựa chọn phù hợp nhất giúp tôi có để tồn tại và kiếm sống”, Namang Banah nói.

Khởi đầu chỉ với 35.000 naira (98 USD vào thời điểm đó), Banah bắt đầu giúp mọi người ở Nigeria mua hàng trên các nền tảng như Taobao. Khách hàng chia sẻ liên kết đến các sản phẩm họ muốn, sau đó nhờ Banah mua hàng, gửi phát nhanh đến Nigeria và trả phí hoa hồng khoảng 5%–10% tùy theo số lượng.

Sáu năm sau, hàng hóa Trung Quốc trở nên dễ tiếp cận hơn. Banah, ngày quay trở lại Nigeria, đã chuyển được tổng cộng hơn 11 tấn hàng hóa cho bất kỳ ai muốn mua hàng từ Trung Quốc đại lục.

Trở lại Chợ Balogun, trong trung tâm mua sắm năm tầng có tên Rainbow Plaza, Lolade Giwa đang phỏng vấn một nhân viên mới tiềm năng cho cửa hàng của mình.

“Quy tắc rất đơn giản: Phải có ít nhất 1 người đứng trông cửa hàng và bạn không được ăn trộm ăn cắp”, Giwa nói, ám chỉ những chiếc túi và giày nhái hàng hiệu.

Chia sẻ với Rest of World, Giwa cho biết công việc kinh doanh đang bùng nổ và cô đang có kế hoạch mở rộng gian hàng. Cô đã gặp người bán qua các nền tảng thương mại điện tử Trung Quốc, hiện có thể kết nối trực tiếp với các nhà sản xuất tại đây và có thể kiếm được trung bình 3–5 triệu naira (3.700–6.200 USD) mỗi tháng.

Một chiếc túi “Louis Vuitton” trên kệ được cô bán với giá chỉ 13.000 naira (16 USD), trong khi hàng thiết kế có giá khoảng 1.300 USD. Nhu cầu lớn nên hàng hết khá nhanh.

“Ngay khi tôi đăng bán, sản phẩm này đã hết size và màu”, Giwa kể.

Tương tự, Chidera Christian, 21 tuổi, cho biết cửa hàng anh làm việc kiếm được khoảng 1 triệu đến 3 triệu naira (1.300 – 3.900 USD) mỗi ngày. Doanh thu trung bình hàng tháng là 20 triệu naira (25.000 USD).

Hàng chủ yếu được nhái từ các thương hiệu như Versace, Louis Vuitton và Burberry. Một chiếc áo sơ mi “Gucci” có giá 5.000 naira (6,50 USD), trong khi một chiếc áo phông thông thường may bằng vải dày hơn một chút được bán với giá 7.000 naira (9 USD).

Theo một người bán tên Oluwatobiloba Adeshina, 23 tuổi, cô không có đủ vốn mở cửa hàng nên quyết định bán online trên WhatsApp. Các sản phẩm chủ yếu được nhập từ Trung Quốc với giá rất rẻ.

“Tôi có thể thêm phí giao hàng vào giá hoặc không. Dù thế nào cũng không lỗ vì tôi chỉ đặt hàng khi có khách mua”, Oluwatobiloba Adeshina nói.

Sự bùng nổ thương mại điện tử Trung Quốc ở Nigeria đã tạo ra hiệu ứng lan truyền. Các công ty vận chuyển như Sky Cargo Ltd., Grace Logistics’ Ocean Freight, AAA Cargo International, Weight and Carry Express Cargo Limited và Choice Airways tung ra một loạt các dịch vụ uy tín thông qua đường hàng không hoặc tàu thủy. Sky Cargo cũng có một nhà kho ở trung tâm chợ Lagos.

Theo: Rest of World

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer

Theo Vũ Anh | Markettimes

Amazon sa thải nhiều vị trí ở mảng AI và công cụ Alexa

Amazon vừa công bố một đợt sa thải khác, ảnh hưởng đến hàng trăm vị trí trong bộ phận Alexa và AI. Động thái này là một phần trong sự thay đổi chiến lược của Amazon đối với AI tổng quát (Generative AI).

Amazon sa thải nhiều vị trí ở mảng AI và công cụ Alexa
Amazon sa thải nhiều vị trí ở mảng AI và công cụ Alexa

Theo đó, gã khổng lồ công nghệ và thương mại điện tử (eCommerce) có trụ sở tại Seattle vừa công bố sa thải nhiều vị trí ở bộ phận AI và Alexa. Cách đây không lâu, Amazon cũng đã cắt giảm nhân sự ở bộ phận âm nhạc và trò chơi, cùng với đó là việc sa thải nhiều vị trí ở bộ phận nhân sự.

Trong một cuộc họp nội bộ, Ông Daniel Rausch, phó chủ tịch Alexa và Fire TV của Amazon, đã thông báo cho nhân viên về đợt sa thải sắp xảy ra. Ông giải thích rằng quyết định này được thúc đẩy bởi sự chuyển đổi chiến lược của công ty sang AI tổng quát, vốn đòi hỏi phải phân bổ lại các nguồn lực.

Ông viết: “Khi chúng tôi tiếp tục phát triển và cải tiến, chúng tôi đang chuyển đổi một số nỗ lực để trở nên phù hợp hơn với các ưu tiên kinh doanh của mình và hiển nhiên nó phải quan trọng đối với khách hàng.”

Phó chủ tịch Rauch nhắc lại rằng Amazon đang đầu tư đáng kể vào AI tổng quát, một công nghệ có khả năng tạo ra nội dung mới, chẳng hạn như văn bản, hình ảnh và mã (code) và hơn thế nữa từ các dữ liệu hiện có.

Về tổng thể, Amazon cũng đang chạy đua trong cuộc đua AI cạnh tranh với các công ty công nghệ khác trong đó có Google và Meta. Công ty gần đây đã đưa ra một loạt sáng kiến mới về AI, từ việc kết hợp AI vào đánh giá của khách hàng đến cung cấp công cụ để các nhà phát triển (Dev) có thể tạo ra các giải pháp AI của riêng họ trên nền tảng đám mây AWS.

Gần đây hơn vào tháng 9, Amazon thậm chí còn công bố một bản cập nhật lớn cho trợ lý giọng nói Alexa nhằm trang bị cho nó những khả năng AI đa dạng hơn. Bản cập nhật này mang đến một số tính năng mới cho Alexa, bao gồm:

  • Tạo ra các định dạng văn bản sáng tạo khác nhau như thơ, mã, kịch bản, đoạn nhạc, email, thư, v.v.
  • Trả lời các câu hỏi một cách giàu thông tin, ngay cả khi chúng có kết thúc mở, mang tính thử thách hoặc lạ lùng.
  • Dịch đa ngôn ngữ.
  • Viết các loại nội dung sáng tạo (Creative Content) khác nhau.

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer

Apple và nhiều nhà quảng cáo khác tạm dừng quảng cáo trên X (Twitter) vì Elon Musk

Apple đang tạm dừng tất cả quảng cáo của mình trên mạng xã hội X, trước đây gọi là Twitter. Quyết định được đưa ra sau những nhận xét trái chiều của Elon Musk liên quan đến người Do Thái.

Apple và nhiều nhà quảng cáo khác tạm dừng quảng cáo trên X (Twitter) vì Elon Musk
Apple và nhiều nhà quảng cáo khác tạm dừng quảng cáo trên X (Twitter) vì Elon Musk

Apple, Disney và nhiều công ty khác đã tạm dừng các chiến dịch quảng cáo trực tuyến trên X, trước đây là Twitter, sau khi chủ sở hữu Elon Musk cho biết ông đồng ý với một bài đăng trên mạng xã hội cáo buộc rằng “cộng đồng người Do Thái” đã gây ra “sự căm thù đối với người da trắng”.

Warner Bros Discovery, Paramount Global và Lions Gate Entertainment cũng đang tạm dừng các chiến dịch trên X. Ngoài ra, người phát ngôn của Comcast, công ty sở hữu Bravo và Xfinity và cũng là công ty mẹ của CNBC, cho biết rằng họ cũng đang tạm dừng các chiến dịch quảng cáo trực tuyến trên X.

Người phát ngôn của IBM cho biết mới đây cũng cho biết rằng gã khổng lồ công nghệ sẽ tạm dừng các chiến dịch quảng cáo trực tuyến trên X: “IBM không khoan nhượng với những phát ngôn gây căm thù và phân biệt đối xử và chúng tôi đã ngay lập tức thông báo tạm dừng tất cả quảng cáo trên mạng xã hội X”.

Các nhà lãnh đạo người Do Thái cho biết trong tuyên bố mới nhất: “Đã hai tháng kể từ lần đầu tiên chúng tôi đưa ra lời kêu gọi các nhà quảng cáo lớn như Apple, Google, Amazon và Disney ngừng chuyển tiền vào X khi chủ nghĩa bài người Do Thái bùng nổ trên nền tảng này”.

Cũng trong cùng ngày, Nhà Trắng (Mỹ) đã công khai chỉ trích Elon Musk về các dòng tweet của ông.

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer

Chân dung CEO mới được bổ nhiệm làm CEO của OpenAI

Nếu hỏi ChatGPT về Mira Murati, CTO của OpenAI – người dẫn dắt đội ngũ tạo ra siêu AI này, câu trả lời là “không có thông tin”.

Mira Murati: Giám đốc Công nghệ của ChatGPT đình đám
Mira Murati: Giám đốc Công nghệ của ChatGPT đình đám

“Rất tiếc, tôi không biết về người có tên Mira Murati là CTO của OpenAI”, ChatGPT đáp. Trong một câu tương tự bằng tiếng Anh, siêu AI nói chỉ biết Sam Altman là nhà đồng sáng lập kiêm CEO của công ty, do dữ liệu dùng để huấn luyện nó là từ trước năm 2021.

Trong buổi phỏng vấn của Time với các nhân sự cấp cao của OpenAI ngày 5/2, Sam Altman gọi Mira Murati là “creator” – người tạo ra ChatGPT. Cô cũng trực tiếp lãnh đạo nhóm phát triển AI vẽ tranh Dall-E và GPT-3.

Từ kỹ sư cơ khí đến giám đốc Tesla, OpenAI.

Dù không thể hỏi về Murati qua ChatGPT, nhưng trên “đối thủ” Google Search, người dùng lại có thể tìm kiếm thông tin về hành trình công nghệ của nữ tướng này. Murati, sinh năm 1988 tại San Francisco, từng học vượt lớp khi còn nhỏ.

Cô theo ngành kỹ thuật cơ khí tại Đại học Dartmouth và được giữ lại trường làm trợ giảng trước khi đầu quân cho hãng nghiên cứu nổi tiếng Goldman Sach. Đến 2012, cô gia nhập công ty hàng không vũ trụ Zodiac Aerospace.

Một năm sau, Murati đến Tesla với vai trò giám đốc sản phẩm cấp cao và trở thành một trong những người chịu trách nhiệm chính về thiết kế, phát triển một số mẫu xe, ví dụ Model X.

Cô cũng tham gia một số dự án của công ty hàng không vũ trụ SpaceX trước khi tới công ty khởi nghiệp Leap Motion năm 2016. Đây là công ty chuyên phát triển các sản phẩm thay thế chuột và bàn phím bằng cảm biến chuyển động gắn trên tay người.

Từ tháng 6/2018 đến tháng 12/2020, Mira Murati đảm nhiệm vị trí Phó chủ tịch về ứng dụng AI và quan hệ đối tác tại OpenAI. Sau đó, cô chịu trách nhiệm phát triển toàn bộ sản phẩm của công ty và trở thành Giám đốc công nghệ (CTO) từ tháng 5/2022 đến nay.

Dưới sự dẫn dắt của Murati về mặt công nghệ, ChatGPT trở thành một trong những sản phẩm đạt 100 triệu người dùng nhanh nhất mọi thời đại. Trong tháng đầu năm, ChatGPT nằm trong danh sách những từ khóa được tìm kiếm nhiều nhất, theo thống kê của Google Trends.

Khác với hình dung về một nữ tướng công nghệ, Murati có những sở thích khá mộng mơ. Cô yêu thích thơ ca. Cuốn sách cô thích nhất là Duino Elegies, tuyển tập thơ của Rainer Maria Rilke. Còn bộ phim cô đánh giá cao là 2001: A Space Odyssey vì nó có thể “khuấy động trí tưởng tượng” bằng hình ảnh và âm nhạc, như trong phân cảnh tàu con thoi cập bến cùng điệu valse Blue Danube Waltz của Johann Strauss.

Thách thức khi phát triển ChatGPT.

Khi thế giới “phát cuồng” với ChatGPT, phần lớn sự chú ý tập trung vào Sam Altman. Tuy vậy, CEO OpenAI cho biết Murati mới là người tạo ra ChatGPT.

Trong lần hiếm hoi xuất hiện trước công chúng với Time, nữ CTO thừa nhận cô không ngờ sự ủng hộ của người dùng với AI này lại lớn như thế.

“Tôi cũng đã không tin chatbot này có thể thành công. Khi quyết định giới thiệu dự án đến công chúng, tôi thậm chí đoán nó sẽ thất bại”, cô nói.

Cô kỳ vọng ChatGPT sẽ thật sự tạo ra những bước tiến vượt bậc trong mỗi ngành nghề chứ không đơn thuần là một công nghệ gây tò mò.

Murati cho biết, về cơ bản, ChatGPT là một mô hình đàm thoại lớn, một mạng nơron cỡ đại được đào tạo để có thể “đoán và nối từ” nhằm tiếp nối câu chuyện với người dùng một cách mạch lạc nhất có thể.

“Nó có thể bịa ra sự thật, không phải lúc nào câu trả lời của AI cũng đúng”, cô thừa nhận điểm yếu của ChatGPT. Để khắc phục vấn đề này, công ty xây dựng mô hình hội thoại, cho phép AI đối thoại với người dùng để “dạy” cho nó câu trả lời chính xác nếu nó đưa ra thông tin sai.

Người dùng có thể phản hồi theo cú pháp: “Bạn có chắc không? Câu trả lời đúng là…”. Từ đó, ChatGPT mở ra một đoạn hội thoại mới với kiến thức được cập nhật. Tuy vậy, điều này lại đẩy AI đến một rủi ro khác là người dùng có thể cố tình đưa vào ChatGPT những thông tin sai.

Nỗi lo về AI.

Khi chứng kiến sự bùng nổ của ChatGPT và xác định điểm yếu lớn nhất của nền tảng, Murati cho biết cô lo ngại AI bị lạm dụng hoặc trở thành công cụ tiếp tay cho kẻ xấu.

“Làm sao có thể quản lý cách người dùng ứng dụng công nghệ thế nào? Làm sao biết được việc sử dụng AI phù hợp với các giá trị của nhân loại?”, CTO 8x đặt câu hỏi.

Cô cho rằng câu trả lời nằm ở ý thức cộng đồng khi dùng AI có kiểm soát và có trách nhiệm. “Chắc chắn cơ quan quản lý, chính phủ cần giám sát công nghệ.

Không còn sớm nữa để các nhà hoạch định chính sách đưa ra các bộ tiêu chuẩn và xem xét đến tác động mà AI có thể gây ra cho cộng đồng”, Murati nói.

Trong khi cộng đồng đang nổ ra nhiều tranh cãi liên quan đến việc ChatGPT có thể thay thế con người trong nhiều lĩnh vực, CTO OpenAI cho rằng tương tự các cuộc cách mạng trước, sẽ có những công việc mới sinh ra và những công việc cũ bị mất đi. Cô tin giáo dục sẽ là lĩnh vực có thể thay đổi nhiều nhất với sự tiến bộ của AI.

“Với các công cụ như ChatGPT, bạn có thể trò chuyện không ngừng với AI để hiểu một khái niệm phù hợp với khả năng của mình. Đó là tiềm năng to lớn của công nghệ trong việc mở ra mô hình giáo dục cá nhân hóa”, cô nhận định.

Bất ngờ được bổ nhiệm làm CEO của OpenAI trước sự ra đi của cựu CEO Sam Altman.

Vào muộn ngày 17/11, nhiều chuyên gia và giới công nghệ hết sức bất ngờ khi cả CEO OpenAI Sam Altman và Chủ tịch Greg Brockman đều bị hội đồng quản trị sa thải vì bị cho rằng không còn phù hợp với vị trí hiện tại.

Sau khi Altman và Brockman rời đi, hội đồng quản trị của OpenAI hiện chủ yếu là người ngoài, bao gồm trưởng nhóm khoa học OpenAI Ilya Sutskever, CEO Quora Adam D’Angelo, doanh nhân công nghệ Tasha McCauley và Helen Toner thuộc Trung tâm An ninh và Công nghệ mới nổi Georgetown.

Gần như toàn bộ ban lãnh đạo OpenAI cũng chỉ biết về thay đổi nhân sự sau cuộc họp. Thành viên duy nhất biết trước là giám đốc công nghệ (CTO) Mira Murati, người được thông báo từ đêm 16/11 và đảm nhiệm vị trí CEO lâm thời của công ty.

Khương Nha

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer

CEO OpenAI bị hội đồng quản trị sa thải vì “thiếu khả năng lãnh đạo”

Chủ tịch OpenAI Greg Brockman không hề biết trước về kế hoạch sa thải CEO Sam Altman, chỉ nắm được thông tin khi được mời họp qua Google Meet.

CEO OpenAI bị hội đồng quản trị sa thải vì "thiếu khả năng lãnh đạo"
CEO OpenAI bị hội đồng quản trị sa thải vì “thiếu khả năng lãnh đạo”

Trên nền tảng X, Brockman kể Sam Altman nhận được tin nhắn từ trưởng nhóm khoa học Ilya Sutskever, đề nghị ông tham gia cuộc họp vào trưa 17/11. “Sam đăng nhập cuộc họp trên Google Meet. Toàn bộ hội đồng quản trị, trừ Greg, đều có mặt ở đó. Ilya nói Sam đã bị sa thải và thông tin sẽ sớm được công khai”, ông cho hay.

Greg Brockman chỉ nhận được tin nhắn mời họp nhanh từ Sutskever lúc 12h19 cùng ngày và được chia sẻ đường link Google Meet sau đó 4 phút. Ông được thông báo đã bị loại khỏi hội đồng quản trị nhưng vẫn là chủ tịch OpenAI, vẫn đóng vai trò sống còn đối với công ty, trong khi Altman bị sa thải. Cùng lúc, OpenAI đăng thông báo trên blog. Brockman cũng tuyên bố từ chức sau đó.

“Tôi và Sam hoàn toàn bị sốc, cũng như rất buồn vì những gì hội đồng quản trị đã làm. Chúng tôi vẫn đang tìm cách xác định chuyện gì đã xảy ra”, cựu chủ tịch OpenAI Greg Brockman cho biết vào tối 17/11 (trưa 18/11 giờ Hà Nội).

Sau khi Altman và Brockman rời đi, hội đồng quản trị của OpenAI hiện chủ yếu là người ngoài, bao gồm trưởng nhóm khoa học OpenAI Ilya Sutskever, CEO Quora Adam D’Angelo, doanh nhân công nghệ Tasha McCauley và Helen Toner thuộc Trung tâm An ninh và Công nghệ mới nổi Georgetown.

Gần như toàn bộ ban lãnh đạo OpenAI cũng chỉ biết về thay đổi nhân sự sau cuộc họp. Thành viên duy nhất biết trước là giám đốc công nghệ Mira Murati, người được thông báo từ đêm 16/11 và đảm nhiệm vị trí CEO lâm thời của công ty.

Theo Insider, đối tác đầu tư lớn nhất vào OpenAI là Microsoft cũng chỉ nhận được thông tin vài phút trước khi thông báo sa thải được đưa ra. Một số nguồn tin nội bộ nói các nhân viên tại Microsoft và OpenAI “hoàn toàn bị sốc”. Một cuộc họp ngắn tại trụ sở OpenAI ở San Francisco đã được tổ chức trấn an nhân viên.

Microsoft sau đó khẳng định vẫn duy trì mối quan hệ đối tác với nhà phát triển ChatGPT. “Chúng tôi có mối quan hệ đối tác lâu dài với OpenAI. Microsoft cam kết với Mira và nhóm của họ khi mang kỷ nguyên AI tiếp theo đến với khách hàng của mình”, người phát ngôn của hãng cho biết.

Cộng đồng làm AI đánh giá cuộc cải tổ ban điều hành này là “điều đáng ghi vào sử sách”, so sánh việc Altman bị buộc thôi việc cũng giống như Steve Jobs từng bị sa thải khỏi Apple vào năm 1985 do xung đột với giám đốc điều hành lúc đó của hãng.

Hiện chưa có thông tin về kế hoạch tiếp theo của những nhà lãnh đạo OpenAI vừa bị sa thải. Trong bài đăng mới nhất trên X, Altman cho rằng nếu ông ấy rời đi, ban quản trị của OpenAI nên theo sát ông vì những giá trị mà ông đang nắm giữ.

Altman không sở hữu cổ phần trong mảng kinh doanh của OpenAI, dù công ty này có giá trị hàng chục tỷ USD. Thông điệp của Altman được các nhà phân tích đánh giá là “động thái khó hiểu”, nhưng cũng có thể mang tính thách thức với ban quản trị của công ty do ông không còn chịu bất kỳ sự phụ thuộc nào vào OpenAI.

“Chúng tôi sẽ ổn thôi. Những điều lớn lao hơn sẽ sớm xuất hiện”, Brockman viết trên X.

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer

TikTok ra mắt công cụ mới giúp xác định cách quảng cáo thúc đẩy chuyển đổi

Nhằm mục tiêu giúp nhà quảng cáo hiểu rõ hơn về cách quảng cáo thúc đẩy chuyển đổi, TikTok vừa giới thiệu công cụ mới có tên là Engaged View-through Attribution (EVTA).

TikTok ra mắt công cụ mới giúp xác định cách quảng cáo thúc đẩy chuyển đổi
TikTok ra mắt công cụ mới giúp xác định cách quảng cáo thúc đẩy chuyển đổi

Theo đó, TikTok đang triển khai một công cụ đo lường quảng cáo mới có tên là Engaged View-through Attribution (Phân bổ thông qua lượt xem có tương tác) nhằm mục tiêu giúp cho nhà quảng cáo hiểu rõ hơn về cách các quảng cáo đã thúc đẩy chuyển đổi.

Khi một người xem xem video quảng cáo trong hơn 6 giây, thì đó được tính là một lượt xem có tương tác. EVTA theo dõi các chuyển đổi xảy ra sau khi người dùng xem quảng cáo trong ít nhất 6 giây nhưng không nhấp vào, sau đó chuyển đổi trong khoảng thời gian phân bổ 7 ngày.

Điều này giúp nhà quảng cáo đánh giá được các tác động của những lượt xem có mức độ gắn kết cao (Engaged View) này đối với chuyển đổi cuối cùng.

Việc nhà quảng cáo hiểu rõ hơn về dữ liệu chuyển đổi của mình sẽ giúp họ có nhiều sự tự tin hơn để ra quyết định đầu tư, hành động mà cuối cùng TikTok cũng chính là bên hưởng lợi.

Theo tuyên bố của TikTok, các lợi ích chính của công cụ đo lường mới bao gồm:

  • Hiểu rõ hơn về tác động của quảng cáo ngoài số lần nhấp chuột đơn thuần: Việc theo dõi chuyển đổi trên TikTok vượt ra ngoài kịch bản nhấp chuột và chuyển đổi đơn giản. Bằng cách đo lường các chuyển đổi bị ảnh hưởng bởi các lượt xem kéo dài 6 giây trở lên, nhà quảng cáo sẽ hiểu toàn diện hơn về tác động của TikTok đối với doanh nghiệp của mình.
  • Thúc đẩy hiệu suất chiến dịch bằng nhiều tín hiệu hơn: Trình quản lý quảng cáo TikTok sẽ nhận được nhiều tín hiệu chất lượng cao hơn để từ đó tối ưu hóa và nâng cao hiệu suất của chiến dịch theo thời gian bằng cách hiển thị quảng cáo của thương hiệu cho những người dùng có nhiều khả năng thực hiện hành động hơn.
  • Đo lường sự cân bằng trên các kênh khác nhau: Việc điều chỉnh các phương pháp phân bổ phù hợp với các nền tảng khác cho phép nhà quảng cáo so sánh hiệu suất chính xác hơn, đảm bảo đo lường kết quả công bằng trên các nền tảng khác nhau.

TikTok chia sẻ:

“Bối cảnh quảng cáo trên thiết bị di động đã phát triển rất nhiều. Người dùng ngày nay đối diện với rất nhiều loại quảng cáo trên nhiều nền tảng khác nhau, mỗi loại đều có định dạng, luồng và mức độ tương tác riêng.”

“Hiểu được tác động của các điểm tiếp xúc và kênh marketing khác nhau đối với việc thúc đẩy hành động của người dùng, chẳng hạn như lượt cài đặt hoặc mua ứng dụng, vẫn là một thách thức lớn đối với các nhà quảng cáo ứng dụng.”

“Để xem tác động thực sự của quảng cáo TikTok của bạn, chúng tôi khuyên bạn nên bật VTA, EVTA và CTA với khoảng thời gian phân bổ tối đa và đảm bảo rằng khoảng thời gian phân bổ trên Trình quản lý quảng cáo TikTok (TikTok Ads Manager) giống với cài đặt MMP của bạn. Nhà quảng cáo có thể tùy chỉnh CTA (1 ngày hoặc 7 ngày), VTA (tắt hoặc 1 ngày), EVTA (1 ngày hoặc 7 ngày) trực tiếp trên Trình quản lý quảng cáo của TikTok.”

Bạn có thể xem thêm về công cụ tại đây.

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer

Công thức viết Storytelling: Một vài nguyên tắc đơn giản cần biết

Trong khi storytelling hay nghệ thuật kể chuyện (thương hiệu) là kỹ năng quan trọng hàng đầu của không chỉ người làm marketing mà còn các nhà lãnh đạo doanh nghiệp, tìm được một công thức viết Storytelling lại khá khó khăn với không ít người. Cùng khám phá chi tiết công thức Storytelling qua bài viết này.

Công thức viết Storytelling
Công thức viết Storytelling: Một vài nguyên tắc đơn giản cần biết

Dù với tư cách là một nhà lãnh đạo doanh nghiệp hay marketer, bạn đều nên nhận thấy rằng storytelling là kỹ năng không thể thiếu trong bối cảnh kinh doanh hiện tại, khi sự khác biệt về sản phẩm không còn quá lớn, và khi hành vi và nhu cầu của người tiêu dùng đang ngày càng thay đổi nhanh chóng.

Để có thể có được một “vị trí” tốt trong tâm trí của khách hàng hay công chúng, các chiến thuật làm marketing đơn thuần (nếu không muốn nói là nhàm chán) như quảng cáo, tiếp thị nội dung hay tiếp thị người có ảnh hưởng là chưa đủ để tạo ra những hiệu ứng mạnh mẽ và lâu dài.

Người tiêu dùng hiện đại ngày nay nhìn nhận về thương hiệu một cách khá cởi mở và đa khía cạnh, nó không chỉ là về giá bán, các chương trình khuyến mãi hay chất lượng sản phẩm mà còn cả về cách thương hiệu được nói về.

Với tư cách là một nhà lãnh đạo hay người đứng đầu doanh nghiệp, bạn cần tạo ra những câu chuyện có ý nghĩa, gắn thương hiệu với yếu tố con người, với cuộc sống của người tiêu dùng và hơn thế nữa.

Storytelling là gì?

Được sử dụng rộng rãi trong phạm vi kinh doanh và ngành marketingStorytelling là khái niệm đề cập đến cách mà một cá nhân, một tổ chức hay đơn vị nào đó sử dụng các câu chuyện để minh hoạ cho những nội dung mà họ muốn truyền tải đến một bên thứ ba nào đó.

Dù cho bạn đang làm Storytelling hay Kể chuyện trên phương tiện hay nền tảng nào, với định dạng nội dung (Content Format) là gì thì mục tiêu cuối cùng của việc sử dụng Storytelling vẫn là làm cho các nội dung đang được truyền tải trở nên rõ ràng, lôi cuốn và được ghi nhớ tốt hơn.

Storytelling cũng có thể được hiểu theo nghĩa là Nghệ thuật kể chuyện.

Tại sao Storytelling lại quan trọng đối với các nhà lãnh đạo và người làm marketing (và công thức storytelling như thế nào)?

  • Storytelling khiến sản phẩm và dịch vụ trở nên có giá trị và ý nghĩa hơn (cảm giác được sở hữu mạnh hơn).

Như đã đề cập ở trên, không phải các sản phẩm hay dịch vụ mà chính là các câu chuyện (story) mới có thể đủ sức mạnh để tạo ra những thứ thực sự có ý nghĩa vừa mang tính kết nối, xây dựng và truyền cảm hứng.

Có một nghiên cứu kể rằng, khi các nhà nghiên cứu tìm cách để bán giá cao nhất có thể với những sản phẩm chỉ đáng giá vài xu, để làm được điều này, họ đã xây dựng nên những câu chuyện gắn liền với từng đồ vật, thậm chí là có một số đồ vật được gắn liền với cả câu chuyện lịch sử.

Kết quả là họ không chỉ bán được hàng với giá cao hơn gấp nhiều lần, mà bản thân người mua cũng cảm thấy hạnh phúc và thoả mãn hơn vì thứ họ sở hữu không phải là một sản phẩm hay đồ vật thông thường (vô tri), mà đó là những thứ “có giá trị” gắn liền với những câu chuyện có ý nghĩa.

Ở khía cạnh kinh doanh hiện đại, khi đối diện với bạn là những người tiêu dùng có ý thức, hiển nhiên, bạn không thể (hoặc hy hữu) biến một thứ vô giá trị thành một thứ có giá trị, thứ mà bạn có thể làm đó là bạn không chỉ bán các sản phẩm ở khía cạnh vật lý như tính năng, công dụng hay giá cả, bạn cũng cần xây dựng các câu chuyện gắn liền với nó.

Giá trị của các sản phẩm càng cao (giá bán càng cao) thì các câu chuyện hay nghệ thuật làm storytelling càng trở nên quan trọng.

  • Storytelling giúp gắn kết mọi người tốt hơn.

Dù là với người tiêu dùng, nhân viên, công chúng hay bất cứ ai, cảm xúc luôn là thứ quan trọng để tạo ra hoặc phá vỡ những kết nối.

Khi doanh nghiệp, thương hiệu hay các sản phẩm là những thứ có ý nghĩa gắn liền với những câu chuyện rõ ràng, nó cho phép cả những người bên trong lẫn bên ngoài doanh nghiệp kết nối với nhau tốt hơn vì một mục tiêu và sứ mệnh cao hơn.

Các câu chuyện cũng có thể khiến cho nhân viên biết rằng mọi hành động của họ luôn đóng góp vào sự thịnh vượng của một tập thể, và nó cũng báo hiệu cho khách hàng biết rằng mọi tương tác của họ với thương hiệu đều được ghi nhận và cũng là một phần không thể thiếu của các câu chuyện lớn hơn.

  • Storytelling cũng đóng vai trò nhân hóa thương hiệu.

Trong bối cảnh kinh doanh hiện nay, những doanh nghiệp ít có sức ảnh hưởng nhất là những doanh nghiệp “vô danh” nhất và hiển nhiên, các hoạt động bán hàng của họ dường như sẽ ngày càng trở nên khó khăn hơn.

Ở khía cạnh người tiêu dùng, rõ ràng là bạn hiếm khi muốn mua hàng hay hợp tác với những doanh nghiệp chỉ coi trọng lợi nhuận của riêng doanh nghiệp mà thiếu đi những câu chuyện mang lại ý nghĩa với cộng đồng người tiêu dùng và cả xã hội.

Những thuật ngữ như CSR, Tính bền vững hay ESG cũng từ đây mà ngày càng trở nên quan trọng hơn với doanh nghiệp.

Một số nguyên tắc cơ bản khi viết Storytelling để có những câu chuyện hấp dẫn.

Mặc dù trong thực tế không có một công thức chung nào cho Storytelling, tuỳ thuộc vào từng ngành hàng, chiến lược thương hiệu, khách hàng mục tiêu hay nhiều yếu tố khác mà các câu chuyện được triển khai theo những cách khác nhau, dưới đây là một số nguyên tắc cơ bản bạn có thể tham khảo.

  • Các yếu tố thứ tự (dàn bài).

Cũng như bất cứ chiến thuật nào khác, các câu chuyện cũng phải có công thức viết hay dàn bài cơ bản. Tất cả các câu chuyện đều cần có nhân vật để bắt đầu, bối cảnh diễn ra hành động, cấu trúc và cả lời kêu gọi hành động.

Chiến lược Storytelling cuối cùng sẽ chẳng đi đến đâu cả nếu đối tượng mục tiêu của thương hiệu không thể hiểu được tại sao bạn bắt đầu, nó mang lại ý nghĩa gì và họ nên cảm nhận hay phản ứng ra sao với các câu chuyện.

  • Con người là ưu tiên hàng đầu.

Vì đối tượng của hầu hết mọi thương hiệu là con người, cách tiếp cận từ yếu tố con người có thể mang lại sức ảnh hưởng lớn nhất.

Hãy nghĩ về câu chuyện của gã khổng lồ đám mây Amazon (AWS), nền tảng hiện chiếm khoảng 1/3 thị phần điện toán đám mây trên toàn cầu.

Amazon muốn giúp một sinh viên đại học, người đã có có ý tưởng sáng tạo về một ứng dụng phần mềm rất tiềm năng, có cơ hội để xây dựng và vận hành nó thành hiện thực, Amazon không muốn tiền trở thành rào cản của bạn sinh viên đó (và cũng không muốn tiền là rào cản của bất cứ sự tiến bộ hay ý tưởng sáng tạo nào khác).

Thay vì nói về các công năng của sản phẩm, Amazon “mượn” các ý tưởng sáng tạo làm nguồn cảm hứng để biến AWS thành lựa chọn của các doanh nghiệp (B2B).

  • Mở rộng và củng cố niềm tin cho các câu chuyện bằng số liệu thống kê.

Nếu toàn bộ những gì được kể chỉ đơn giản là lý thuyết hay những gì mà thương hiệu tưởng tượng, người nghe khó có thể tin tưởng.

Để khiến cho các câu chuyện trở nên đáng tin và thú vị hơn, các công thức storytelling tốt đều nên có yếu tố dữ liệu hay số liệu thống kê liên quan.

Dù đó là số lượng khách hàng đã có được một cuộc sống tốt hơn, nhiều cộng đồng yếu thế được hỗ trợ hơn hay những thay đổi tích cực về tác động đến môi trường do thương hiệu tạo ra, tất cả đều rất đáng tin cậy.

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer

 

Nam Nguyen | MarketingTrips

Cách doanh nghiệp có thể đáp ứng nhu cầu của nhân viên Gen Z

Một trong những thay đổi và cũng là thách thức lớn tiếp theo trong lực lượng lao động đó là sự trỗi dậy của Gen Z. Theo Diễn đàn Kinh tế Thế giới, nhóm này dự kiến sẽ chiếm gần 30% lực lượng lao động vào năm 2025. Chúng ta có thể kỳ vọng rằng sẽ có những thay đổi đáng kể tại nơi làm việc khi lực lượng lao động này ngày càng gia tăng.

Cách doanh nghiệp có thể đáp ứng nhu cầu của nhân viên Gen Z
Cách doanh nghiệp có thể đáp ứng nhu cầu của nhân viên Gen Z

Về tổng thể, Gen Z hay Thế hệ Z mong muốn sự linh hoạt trong công việc, yêu cầu chất lượng cuộc sống cao hơn, và đòi hỏi lớn hơn đối với sự cân bằng vững chắc giữa công việc và cuộc sống.

Họ cũng rất ưu tiên cho sức khỏe tinh thần, đồng thời muốn làm việc cho một doanh nghiệp có chung các hệ giá trị về đạo đức, xã hội, sự đa dạng, công bằng và hòa nhập (DE&I).

Khi Gen Z ngày càng trở thành lực lượng lao động chính, các doanh nghiệp cần phải dành thời gian và sức lực nhiều hơn để thấu hiểu cách thế hệ này khác với các thế hệ trước đó, làm thế nào doanh nghiệp có thể đáp ứng một cách thích hợp nhu cầu của các nhân viên Gen Z và hơn thế nữa.

Một môi trường làm việc hòa nhập và các giá trị chung.

Theo Pew Research, Gen Z đa dạng về chủng tộc và sắc tộc (48%) hơn so với bất kỳ thế hệ nào trước đó. Cũng tương tự như thế hệ tiền nhiệm là Millennials (Gen Y), lao động Gen Z đánh giá cao sự đa dạng về chủng tộc và sắc tộc.

Một cuộc khảo sát mới đây của đơn vị tư vấn và quản trị Gallup cho thấy số lượng Gen Z được xác định là LGBTQ+ lớn chưa từng có. Gần 1/6 cho biết họ là người chuyển giới hoặc đồng tính.

Đối với Gen Z, các tổ chức cần tạo ra một môi trường hòa nhập và phù hợp với các giá trị này, số liệu cũng cho thấy rằng có đến 63% nhân viên Gen Z sẽ chọn một doanh nghiệp có ưu tiên DE&I hơn các doanh nghiệp khác không có sự ưu tiên.

Nghiên cứu của Gardner cho biết: “Gen Z là thế hệ mong đợi sự công bằng, hòa nhập và cảm giác thân thuộc. Họ xác định điều này không phải bằng các tuyên bố hay lời hứa từ doanh nghiệp hay tổ chức mà bằng cách kiểm tra xem các nhóm lãnh đạo doanh nghiệp có thực sự theo đuổi nó hay không.

Ưu tiên các quan điểm khác nhau hướng tới mục tiêu khuyến khích sự sáng tạo, đổi mới, tạo điều kiện cho việc tranh luận hay giải quyết vấn đề tốt hơn cũng là những thứ mà doanh nghiệp cần cân nhắc.

Gen Z cũng là thế hệ có ý thức xã hội cao hơn, họ thường kiểm tra xem liệu nơi làm việc của họ có phù hợp với các giá trị cá nhân và trao quyền cho nhân viên hay không.

Các “bản địa kỹ thuật số” và những thách thức lớn.

Vốn được xem là “những đứa con bản địa kỹ thuật số” (Digital Natives), sinh ra và lớn lên trong bối cảnh các yếu tố công nghệ và internet phát triển mạnh mẽ, Gen Z sống dựa vào các sản phẩm công nghệ, coi điện thoại di động hay mạng xã hội là một phần không thể tách rời.

Tuy nhiên, bên cạnh các lợi thế, việc quá coi trọng yếu tố kỹ thuật số cũng đang tạo ra một rào cản lớn cho thế hệ này ít nhất là tại những môi trường làm việc cần giao tiếp trực tiếp.

Theo Tara Salinas, giáo sư đạo đức kinh doanh tại Đại học San Diego, kỹ năng kỹ thuật số vốn có của Gen Z có thể phải trả giá bằng khả năng giao tiếp trực tiếp và các mối quan hệ giữa các cá nhân.

Giáo sư này cho biết: “Gen Z là những người con bản địa về kỹ thuật số và họ luôn giao tiếp trực tuyến, vì vậy kỹ năng giao tiếp giữa các cá nhân — hoặc kỹ năng mềm — của họ đã bị ảnh hưởng rất lớn.”

Họ gặp khó khăn trong việc giao tiếp tại nơi làm việc, thậm chí việc sử dụng ngôn ngữ chuyên nghiệp cũng là một thách thức với họ khi họ rất khó từ bỏ các biệt ngữ gắn liền với thế hệ của họ (những ngôn ngữ mà Gen Z thường sử dụng để giao tiếp cá nhân với nhau trên mạng xã hội).

Thiếu kỹ năng chuyên môn cứng cũng được xem là một thách thức khác với các nhân viên Gen Z.

Điều này có nghĩa là, đối với các nhà lãnh đạo, việc đào tạo và phát triển, đồng thời đảm bảo rằng lực lượng lao động thế hệ mới có đủ cơ hội để được hướng dẫn là hết sức cần thiết. Doanh nghiệp cần sớm đào tạo và hướng dẫn hơn là mãi đi tìm kiếm các nhân sự Gen Z giỏi chuyên môn ngay từ khi phỏng vấn.

Những kỳ vọng khác nhau về cuộc sống và công việc.

Dữ liệu gần đây của EY tiết lộ rằng hơn 1/3 nhân viên dự kiến sẽ chuyển việc trong 12 tháng tới. Nhóm này có những kỳ vọng khác nhau về công việc so với thế hệ cũ.

Gen Z có xu hướng thảo luận cởi mở hơn về sự hài lòng của cá nhân với các lựa chọn khác trong cuộc sống, nghề nghiệp, cũng như về sức khỏe tâm lý ở nơi làm việc.

Theo nghiên cứu về Gen Z năm 2023 của EY, hầu hết những người trẻ tuổi coi trọng việc tận hưởng công việc của mình hơn tất cả các tiêu chí khác, bao gồm cả tiền lương.

“Đối với Gen Z, sự hy sinh cá nhân không tương đương với giá trị nghề nghiệp.”

Gen Z cũng có nhiều khả năng đánh giá cao tính minh bạch, công bằng, tính xác thực và tính linh hoạt. Nếu họ không tìm thấy những điều này trong công việc hiện tại, nhiều khả năng họ sẽ tìm kiếm một công việc mới.

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer

Microsoft đổi tên Bing Chat thành Copilot nhằm cạnh tranh với ChatGPT

Copilot được Microsoft chọn làm tên thương hiệu mới cho dịch vụ chatbot AI, tăng sức cạnh tranh thay cho tên cũ Bing AI Chat.

Hãng phần mềm Mỹ coi AI là nâng cấp quan trọng nhất với dịch vụ Bing từ đầu năm khi tích hợp giao diện giống ChatGPT vào kết quả tìm kiếm. Tuy nhiên, chưa đầy một năm sau, thương hiệu Bing Chat bị loại bỏ và chuyển sang Copilot. Tên mới sẽ được sử dụng đồng nhất trên cả Bing, Microsoft Edge và Windows 11.

Microsoft ban đầu tham vọng AI sẽ giúp hãng cạnh tranh về lĩnh vực tìm kiếm với Google. Nhưng giờ đây, công ty chuyển mục tiêu mới sang ChatGPT, theo The Verge.

Việc đổi tên thương hiệu diễn ra chỉ vài ngày sau khi OpenAI tiết lộ 100 triệu người đang sử dụng ChatGPT hàng tuần. Bất chấp mối quan hệ hợp tác chặt chẽ trị giá hàng tỷ USD, Microsoft và OpenAI vẫn cạnh tranh để giành những khách hàng có nhu cầu sử dụng trợ lý AI.

Công ty cũng không giấu ý định biến Copilot thành lựa chọn cho cả người tiêu dùng phổ thông lẫn doanh nghiệp. “Bing Chat và Bing Chat Enterprise giờ đây sẽ đơn giản trở thành Copilot”, Colette Stallbaumer, Tổng giám đốc Microsoft 365, tuyên bố. Trước đó, Microsoft cũng chọn tên Copilot cho chatbot AI trong Windows 11.

Microsoft hiện giới thiệu Copilot là bản miễn phí của chatbot AI trong khi Copilot dành cho Microsoft 365 là tùy chọn trả phí.

Người dùng doanh nghiệp đăng nhập vào Copilot bằng Entra ID trong khi người dùng phổ thông chỉ cần tài khoản Microsoft. Copilot được hỗ trợ chính thức trong Microsoft Edge hoặc Chrome chạy trên Windows hoặc macOS.

Việc đổi thương hiệu đồng nghĩa Microsoft muốn Copilot trở thành một trải nghiệm độc lập và người dùng không cần phải mở gián tiếp qua Bing. Dịch vụ tìm kiếm Bing giờ chỉ là một phần sức mạnh của Copilot. Các chuyên gia đánh giá động thái mới cho thấy những thay đổi thú vị trong quan điểm của những người đứng đầu Microsoft.

Hãng từng dành nhiều nỗ lực để triển khai AI bên trong công cụ tìm kiếm của mình và tham vọng giành thị phần từ Google. Tuy nhiên, Microsoft nhận ra việc cạnh tranh với gã khổng lồ tìm kiếm không đơn giản chỉ bằng việc thêm dịch vụ AI khi Google vẫn chiếm hơn 91% thị phần sau 10 tháng ra mắt Bing Chat mới, theo StatCounter. Ngoài ra, công ty cũng có thể nhận thấy việc cạnh tranh trực tiếp với ChatGPT sẽ đem đến nhiều lợi ích hơn trong tương lai.

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer

Meta chia sẻ một số mẹo mới với tuỳ chọn quảng cáo tìm kiếm khách hàng tiềm năng

Meta, công ty mẹ của FacebookInstagram vừa xuất bản một hướng dẫn mới chia sẻ nhiều mẹo mà nhà quảng cáo có thể thực hiện để tối ưu hoá tuỳ chọn quảng cáo tìm kiếm khách hàng tiềm năng (Lead Ads).

Meta chia sẻ một số mẹo mới với tuỳ chọn quảng cáo tìm kiếm khách hàng tiềm năng
Meta chia sẻ một số mẹo mới với tuỳ chọn quảng cáo tìm kiếm khách hàng tiềm năng

Khi nói đến việc quảng cáo trên các nền tảng quảng cáo, lựa chọn đúng mục tiêu quảng cáo là yêu cầu đầu tiên để thương hiệu có thể đạt được các chỉ tiêu của mình. Tuỳ thuộc vào từng mục tiêu cụ thể ở từng giai đoạn mà doanh nghiệp có thể ưu tiên lựa chọn các mục tiêu quảng cáo khác nhau như quảng cáo tìm kiếm khách hàng tiềm năng (Lead) hay tương tác với bài đăng.

Nếu tìm kiếm khách hàng tiềm năng là lựa chọn của bạn thì các hướng dẫn mới đây từ Meta sẽ rất hữu ích.

Trước hết, Meta cung cấp những thông tin tổng quan nhất về các tùy chọn quảng cáo tìm kiếm khách hàng tiềm năng khác nhau hiện có trên Meta, từ quảng cáo điền biểu mẫu thông tin khách hàng, quảng cáo tin nhắn đến quảng cáo cuộc gọi, thương hiệu có thể chọn định dạng quảng cáo phù hợp với từng sở thích của tệp khách hàng của mình.

Với từng tuỳ chọn quảng cáo, Meta cũng chia sẻ chi tiết hơn về cách nhà quảng cáo có thể tận dụng để tối ưu hoá hiệu suất quảng cáo, hoạch định chiến dịch quảng cáo và hơn thế nữa.

Theo Meta, các sản phẩm quảng cáo chuyên cho việc tìm kiếm khách hàng tiềm năng đã không ngừng tăng trưởng trong thời gian gần đây trên hệ thống của Meta, đặc biệt là ở Ấn Độ, nơi WhatsApp hiện là công cụ kết nối quan trọng với hơn 1/3 dân số.

Trong báo cáo thu nhập mới đây, Meta cũng đã báo cáo rằng doanh thu từ định dạng quảng cáo ‘nhấp vào để gửi tin nhắn’ (Click-to-Message ads) ở Ấn Độ đã tăng gấp đôi so với cùng kỳ năm trước.

Xu hướng này hiện cũng được thể hiện rõ ở các thị trường khác khi ngày càng có nhiều người dùng chuyển sang ứng dụng nhắn tin để tương tác, thay vì đăng công khai trên nguồn cấp dữ liệu chính của họ.

Bạn có thể tải xuống hướng dẫn quảng cáo tìm kiếm khách hàng tiềm năng từ Meta tại đây.

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer

Lối mòn tìm việc là rào cản sự nghiệp với nhiều người

Trong bối cảnh, tình hình kinh tế khó khăn các doanh nghiệp dần hạn chế công tác tuyển dụng. Nếu các bạn bước vào “lối mòn” trong quá trình tìm việc thì sẽ rất khó để bạn có được công việc trong thời điểm hiện nay.

Lối mòn tìm việc là rào cản sự nghiệp với nhiều người
Lối mòn tìm việc là rào cản sự nghiệp với nhiều người

Liệu “lối mòn” tìm việc có gọi tên bạn, hãy xem tiếp bài viết dưới đây.

Như thế nào là lối mòn?

Theo một vài định nghĩa: “Lối mòn là một dạng lối đi không do con người chủ ý tạo nên nhưng đi dần theo thời gian tạo thành đường”

Còn đối với quá trình tìm việc ,“lối mòn” là cách mà các ứng viên vẫn hãy làm dù không đem lại nhiều hiệu quả. Về lâu dài, đi theo “lối mòn” làm chúng ta sẽ ngại thay đổi, không muốn bỏ công sức và thời gian để có kết quả tốt hơn.

Đâu là những “lối mòn” thường thấy khi tìm việc?

Rải CV cho nhiều vị trí hoặc nhiều công ty

Lối mòn “rải CV” đã không còn xa lạ đối với các bạn sinh viên mới tốt nghiệp, nhưng nhiều người đã có kinh nghiệm đi làm vẫn còn dùng cách này. Mục đích chính là để tăng cơ hội được mời tham gia phỏng vấn và có được công việc phù hợp. Tuy nhiên, lối mòn này mang lại rủi ro nhiều hơn cơ hội.

Chỉ với một CV xin việc bạn sẽ rất khó để trình bày một cách cụ thể và nêu nổi bật được khả năng của mình cho vị trí đang tuyển. Việc gửi CV cùng lúc cho nhiều công ty mà không có sự xem xét và nghiên cứu kỹ lưỡng sẽ khiến bạn tốn thời gian cho những công ty không phù hợp với bản thân, thậm chí là ra quyết định sai. Bên cạnh đó, nếu không có sự tập trung nhất định cho mỗi vị trí cũng sẽ gây khó khăn cho bạn khi tham gia phỏng vấn.

Lời khuyên:

Hãy dành thời gian để nghiên cứu và phân tích về những vị trí mà bản thân quan tâm nhiều nhất. Xem xét các yêu cầu của nhà tuyển dụng dành cho vị trí này trước khi ứng tuyển. Như vậy bạn sẽ biết được nên trình bày CV như thế nào và đề cập đến kỹ năng, kinh nghiệm nào.

Hãy tạo nhiều hơn 1 CV cho các vị trí mà bạn đang quan tâm, bởi lẽ hầu hết các nhà tuyển dụng sẽ có sự ưu tiên cho CV có sự tối ưu hóa cho doanh nghiệp của họ. Điều chỉnh màu nền của CV khớp với màu chủ đạo của công ty cũng là một cách.

Trình bày quá nhiều thông tin trong CV

Nếu bạn nghĩ rằng CV dài hơn 3 trang sẽ giúp bạn được đánh giá cao hơn ứng viên khác có thể bạn đã đi “lối mòn” tìm việc. Trong vòng sàng lọc CV, mỗi nhân viên tuyển dụng chỉ bỏ ra khoảng 6s để xem 1 CV.

Với số lượng lớn CV được gửi về, họ phải chọn lọc nhanh những ứng viên phù hợp bằng cách bắt “keyword” khớp với yêu cầu công việc. Nên nếu bạn trình bày quá nhiều kinh nghiệm không liên quan hoặc không liệt kê những keyword đắt giá cũng sẽ làm bạn “trượt” vòng này.

Lời khuyên:

Hãy đảm bảo rằng CV được trình bày chủ yếu về giá trị mà bạn có thể mang lại và kinh nghiệm làm việc trước đó. Tốt hơn hết bạn nên có số liệu minh chứng cụ thể về kết quả công việc để tạo niềm tin cho nhà tuyển dụng. Một số thông tin có liên quan trực tiếp cho vị trí đăng tuyển như địa chỉ thường trú, năm sinh, địa chỉ email, chứng chỉ, thông tin về học vấn.

Không nghiên cứu về công ty ứng tuyển

Một trong những lối mòn rất nhiều người vẫn đang đi trong quá trình tìm việc là không nghiên cứu đầy đủ về công ty mà mình đang ứng tuyển và sẽ phỏng vấn. Nếu bạn không dành thời gian nghiên cứu về công ty bạn đang tự đặt mình vào thế bất lợi so với ứng viên khác.

Như vậy nội dung trình bày trong CV chỉ mang tính cung cấp thông tin chung và thiếu sự “customize”. Bên cạnh đó, trong quá trình phỏng vấn bạn cũng sẽ gặp khó khăn nếu nhận các câu hỏi mang tính thăm dò về sự hiểu biết về công ty và công việc.

Khi bạn nghiên cứu về công ty, bạn có thể trình bày về khả năng giải quyết một số thách thức mà công ty đang phải đối mặt trong tương lai.

Không những vậy, nghiên cứu trước và trình bày thông tin phù hợp còn thể hiện rằng bạn quan tâm đến công ty. Các doanh nghiệp đều đang muốn tuyển những ứng viên quan tâm đến công ty vì họ tin rằng những ứng viên đó sẵn sàng nỗ lực hết mình để học hỏi trong công việc hoặc mang lại giá trị cao nhất cho tổ chức.

Lời khuyên:

Dành thời gian để nghiên cứu về công ty là điều ít nhất bạn có thể làm vì đây thường là một trong những câu hỏi thường gặp nhất trong cuộc phỏng vấn.

Gần như mọi công ty đều có trang web riêng và có phần giới thiệu về doanh nghiệp của họ. Bạn có thể đọc trước khi chuẩn bị CV và gửi thư ứng tuyển hoặc trước ngày tham gia cuộc phỏng vấn.

Sẽ rất tuyệt vời nếu bạn biết sứ mệnh của công ty là gì hoặc họ coi trọng điều gì. Nếu không chứng minh được rằng bạn đã nghiên cứu về công ty hoặc thể hiện cách bạn phù hợp với các mục tiêu và giá trị của công ty sẽ khiến bạn gặp bất lợi trong quá trình tìm việc.

Không xem trọng “Cover letter” 

Một “lối mòn” khác mà nhiều ứng viên khác thường đi vào đó là không xem trọng  “Cover letter”. Thực tế, nhiều ứng viên chỉ gửi mỗi CV qua email cho nhà tuyển dụng mà không hề có phần giới thiệu sơ lược hoặc chỉ viết đôi ba dòng cho có lệ. Điều này làm họ rơi vào “Blacklist” của nhà tuyển dụng hoặc rất lâu mới nhận được hồi âm.

Thư xin việc đóng một vai trò quan trọng để nhà tuyển dụng đánh giá nhanh độ tiềm năng của ứng viên. Và một trong những vấn đề mà người tìm việc gặp phải là khiến người đang xem xét sơ yếu lý lịch của họ bối rối.

Ví dụ, nhiều người muốn chuyển đổi nghề nghiệp và ứng tuyển vào một công việc mà mình chưa có kinh nghiệm trước đó nhưng lại không nêu rõ điều đó trong Thư xin việc.

Thư xin việc là cách để bạn chia sẻ nhiều hơn về lý do tại sao bạn quyết định nộp đơn ứng tuyển. Nếu bạn đang cố gắng chuyển đổi nghề nghiệp thì thư xin việc sẽ là một phần quan trọng trong việc xác định liệu bạn có được cân nhắc cho công việc hay không.

Lời khuyên:

Trong thư xin việc của bạn, hãy trình bày chi tiết lý về nguyện vọng, mục tiêu và highlight các kinh nghiệm nổi bật có thể mang lại giá trị cho công ty mà bạn đang ứng tuyển.

Nếu bạn gửi một lá thư xin việc có nhiều lỗi, không phù hợp với vị trí đang tuyển hoặc có những lỗi đơn giản như sai tên hoặc tiêu đề, thì bạn sẽ khiến quá trình tìm việc của mình khó khăn hơn nhiều. Thư xin việc nên được cá nhân hóa cho người sẽ xem xét đơn ứng tuyển của bạn.

Đảm bảo rằng bạn sử dụng đúng tên công ty và chức danh công việc trong Cover letter và đọc lại trước khi đính kèm với sơ yếu lý lịch để đảm bảo rằng bạn đã cung cấp đủ thông tin cần thiết và chính xác.

Chỉ tìm việc trên các nền tảng truyền thống

Hiện nay có rất nhiều kênh để các doanh nghiệp, bộ phận HR tổ chức hoạt động tuyển dụng và thu hút các ứng viên tiềm năng. Do đó, nếu bạn chỉ đang nộp đơn ứng tuyển ở các nền tảng tuyển dụng truyền thống thì khả năng tìm được công việc phù hợp rất khó.

Vì mỗi ngày sẽ có hàng chục, thậm chí hàng trăm CV (Curriculum Vitae) được nộp qua nền tảng truyền thống tỉ lệ chọi cho một vị trí là khá cao.Trong khi đó, nếu sử dụng nhiều nền tảng có thể giúp tăng cơ hội để bạn tìm được công việc và nhận được phản hồi từ nhà tuyển dụng sớm hơn.

Lời khuyên:

Hiện nay, nhiều nhà tuyển dụng sẽ xem xét các tài khoản truyền thông xã hội, trang web cá nhân, ảnh của ứng viên, v.v. để đánh giá tính chân thật của họ trong buổi phỏng vấn

Hãy thiết lập tài khoản và tạo hồ sơ về bạn tên LinkedIn và giới thiệu về kinh nghiệm làm việc, trình độ học vấn, kỹ năng và thành tích trước đây của bạn. Đây cũng là nền tảng giúp bạn tiếp cận được nhiều cơ hội phù hợp được giới thiệu trực tiếp từ nhà tuyển dụng hoặc các connection.

Ngày nay khi nền kinh tế thị trường đang có sự suy giảm, cơ hội để tìm được công việc sẽ càng khó khăn hơn. Hy vọng bài viết trên đã giúp bạn nhận ra được những “lối mòn” mà bạn vô tình mắc phải và lời khuyên để giúp bạn có được phương pháp tìm việc hiệu quả hơn.

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer

Theo VietnamWorks

VinFast từ chối thông tin đang bị kiện tại Mỹ

Việc công ty luật tại Mỹ tìm kiếm khách hàng định kiện VinFast, theo hãng xe điện, không đồng nghĩa họ vi phạm pháp luật hay bị khởi kiện.

VinFast từ chối thông tin đang bị kiện tại Mỹ
VinFast từ chối thông tin đang bị kiện tại Mỹ

Hôm nay, hai công ty Luật tư nhân tại Mỹ là Robbins Gelleer Rudman & Dowd và Pomerantz cho biết đang thu thập thông tin từ khách hàng để mở cuộc điều tra về khả năng vi phạm luật chứng khoán Mỹ của VinFast Auto. Trong đó, hai công ty trên kêu gọi cung cấp thông tin tập trung vào việc lãnh đạo cấp cao VinFast không thông báo các thông tin quan trọng hoặc có các tuyên bố gây ra hiểu nhầm tới nhà đầu tư.

Thông tin được quảng bá tới công chúng qua cổng thông tin PR Newswire do hai công ty trên tự phát hành.

Diễn biến này lập tức ảnh hưởng tới tâm lý nhà đầu tư trên thị trường Việt Nam và là một trong những nguyên nhân khiến chứng khoán lao dốc phiên chiều nay.

Chiều tối 17/11, đại diện VinFast phản hồi về thông tin của hai công ty Luật tại Mỹ.

Bà Hồ Ngọc Lâm, Trưởng ban pháp chế Tập đoàn Vingroup kiêm Phó tổng giám đốc phụ trách pháp chế VinFast, nói việc kiện tụng là hết sức bình thường, thường xuyên ở Mỹ. “Chúng tôi luôn sẵn sàng đối diện với việc này từ khi quyết định triển khai các hoạt động kinh doanh tại thị trường Mỹ”, bà nói.

VinFast cho biết luôn hướng tới việc công bố thông tin minh bạch tới nhà đầu tư tại thị trường. VinFast vẫn đang “hoạt động hoàn toàn bình thường tại Mỹ”, bà Lâm cho biết.

Cũng theo Phó tổng giám đốc phụ trách pháp chế của VinFast, việc Robbins Gelleer Rudman & Dowd và Pomerantz kêu gọi tìm kiếm khách hàng cùng khởi kiện không đồng nghĩa với việc VinFast vi phạm pháp luật hoặc đã bị khởi kiện tại thị trường Mỹ.

Theo các chuyên gia, diễn biến này thực chất là hình thức tìm kiếm khách hàng mà các công ty Luật ở Mỹ hay một số quốc gia khác thường xuyên áp dụng. Phương thức phổ biến là nhắm vào các thương hiệu lớn hoặc công ty niêm yết, tìm ra một lý do để phát động khởi kiện tập thể và đăng tin tìm kiếm khách hàng qua đường quảng cáo.

Trước VinFast, các thương hiệu như Tesla, công ty khởi nghiệp xe điện Lucid, công ty phần mềm Amplitude, công ty dược phẩm sinh học Morphic cũng từng bị các công ty luật như trên kêu gọi tìm kiếm khách hàng để khởi kiện theo cách tương tự.

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer

Theo VnExpress

Remarketing và Retargeting: Khái niệm và các điểm khác biệt chính

Trong khi Remarketing và Retargeting không phải là các khái niệm hay thuật ngữ mới trong ngành quảng cáo nói riêng và marketing nói chung, không ít marketer lại không thể phân biệt được chúng. Hãy cùng MarketingTrips tìm hiểu về sự khác biệt đó trong bài viết này.

Remarketing và Retargeting
Remarketing và Retargeting: Khái niệm và các điểm khác biệt chính

Nếu bạn là người làm marketing và bạn vẫn chưa thực sự hiểu về sự khác biệt giữa Remarketing và Retargeting, đừng lo,

bài viết này sẽ cung cấp cho bạn tất cả những gì cần hiểu về 2 thuật ngữ này.

Về tổng thể, Remarketing và Retargeting đôi khi được xem là một vì chúng có các mục tiêu tương tự nhau, tuy nhiên, bản chất chúng lại hàm chứa những ý nghĩa khác nhau, sự khác biệt lớn nhất giữa Remarketing và Retargeting nằm ở chiến lược và đối tượng mà thương hiệu muốn tiếp cận.

Tuỳ vào từng mục tiêu chiến lược khác nhau, nhà quảng cáo hay thương hiệu cần lựa chọn các phương thức tiếp cận phù hợp khác nhau.

Remarketing và Retargeting: Tương tự, nhưng khác nhau.

Dù bạn là người làm quảng cáo hay marketing, một trong những nhiệm vụ quan trọng và xuyên suốt của bạn đó là xây dựng nên các tập khách hàng tiềm năng (Lead), những người có thể mua các sản phẩm hay dịch vụ của thương hiệu.

Để có thể có được các nhóm khách hàng này, bạn có thể cần thực hiện rất nhiều các chiến thuật khác nhau, từ A/B Testing, thêm các yếu tố sáng tạo hay thậm chí là sửa đổi sản phẩm và dịch vụ sao cho phù hợp với nhu cầu thực tế của khách hàng.

Trong khi bạn có thể sử dụng quảng cáo để thúc đẩy các tương tác trực tiếp (mới) với người tiêu dùng, chỉ một số rất ít trong số họ ra quyết định mua hàng ngay từ lần tương tác đầu tiên với thương hiệu.

Dĩ nhiên là sẽ vô cùng lãng phí (và không hiệu quả) nếu bạn bỏ qua những khách hàng đã từng tương tác với thương hiệu và tiếp tục đi tìm kiếm các tương tác mới, và đây chính là lúc bạn cần các phương thức để giúp bạn tiếp tục tương tác lại với các khách hàng đã từng thể hiện sự quan tâm trước đó, những người thực sự có thể trở thành khách hàng của thương hiệu.

Retargeting là gì?

Retargeting là thuật ngữ được xuất phát từ thuật ngữ gốc Targeting (nhắm mục tiêu) có nghĩa là nhắm mục tiêu lại. Khái niệm đề cập đến việc một nhà quảng cáo hay thương hiệu hiển thị lại các nội dung quảng cáo nhắm đến những khách hàng hay người tiêu dùng đã từng tương tác trước đó tuy nhiên chưa mua hàng.

Retargeting hay nhắm mục tiêu lại cũng nói đến các vị trí đặt quảng cáo nơi mà người dùng đã từng có hành vi tương tác trước đó hay nơi mà thương hiệu muốn hiển thị quảng cáo tới khách hàng.

Khi người dùng truy cập vào website của thương hiệu, nhấp vào trang sản phẩm hoặc thực hiện một hành động nhất định nào đó, mọi hành vi này sẽ được lưu lại trong trình duyệt hoặc trên các hệ thống quảng cáo (ví dụ như Facebook Ads), sau đó, nhà quảng cáo có thể sử dụng thông tin này để thực hiện cái gọi là “Retargeting” khi người dùng đã rời khỏi các điểm tương tác với thương hiệu.

Hầu hết các nền tảng quảng cáo như Google hay Facebook đều cho phép nhà quảng cáo chạy các quảng cáo sử dụng cách tiếp cận này.

Về tổng thể, Retargeting hay nhắm mục tiêu lại được phân chia thành 2 loại chính đó là On-site Retargeting và Off-site Retargeting tuỳ thuộc vào nơi mà người dùng thực hiện tương tác và nơi mà nhà quảng cáo muốn hiển thị lại nội dung quảng cáo.

On-site Retargeting (Nhắm mục tiêu lại tại chỗ).

Khi nói đến Retargeting, nhiều người thường ám chỉ nó với On-site Retargeting, đó chính là hành động nhắm mục tiêu đến những cá nhân đã truy cập website hay các nền tảng khác của thương hiệu.

Họ đã từng tương tác với sản phẩm và dịch vụ của thương hiệu tuy nhiên lại chưa thực hiện các hành động mà thương hiệu mong muốn ví dụ như mua hàng hay ít nhất là để lại thông tin tư vấn.

Cách thức nhắm mục tiêu này vừa có thể giúp tăng tỷ lệ chuyển đổi vừa có thể giúp giữ chân những người đã bày tỏ sự quan tâm đến thương hiệu nhưng chưa sẵn sàng mua hàng.

Nhắm mục tiêu lại tại chỗ có thể đi kèm với nhiều chiến thuật như:

  • Nhắm mục tiêu dựa trên các sản phẩm mà khách hàng đã tương tác nhưng không mua.
  • Nhắm mục tiêu dựa trên cách khách hàng tìm thấy website (từ mạng xã hội hoặc công cụ tìm kiếm).
  • Nhắm mục tiêu tới những người trong danh sách email của thương hiệu vốn đã bày tỏ sự quan tâm đến thương hiệu nhưng chưa chuyển đổi thành khách hàng.
Các tham số phục vụ cho việc nhắm mục tiêu lại này có thể được thiết lập từ các hệ thống quảng cáo như:
  • Quảng cáo của Google (Google Ads).
  • Google Analytics.
  • Quảng cáo Meta (Facebook Ads, Instagram Ads).
  • Và nhiều nền tảng quảng cáo khác.

Trong khi tuỳ thuộc vào từng nhóm sản phẩm khác nhau mà lợi ích có được từ việc nhắm mục tiêu lại có thể khác nhau, các chiến dịch nhắm mục tiêu lại hầu như luôn cho thấy mức độ tương tác và chuyển đổi cao hơn so với các chiến dịch không nhắm mục tiêu lại.

Off-site Retargeting (Nhắm mục tiêu lại bên ngoài website hay các nền tảng thuộc sở hữu của thương hiệu).

Việc nhắm mục tiêu lại không chỉ được áp dụng với các nền tảng thuộc sở hữu của thương hiệu mà còn có thể khả dụng cả với các nền tảng của bên thứ 3 ví dụ như mạng xã hội.

Nói cách khác, các thương hiệu giờ đây có thể thực hiện các hoạt động nhắm mục tiêu lại dựa trên những gì mà người dùng đã làm trên các nền tảng. Từ các lượt thích trang, tương tác với bài đăng hay thậm chí là đã từng mua hàng, tất cả đều biến thành dữ liệu để thương hiệu có thể tiếp cận lại khách hàng.

Remarketing (Tiếp thị lại) là gì?

Như đã đề cập ở trên, việc phân biệt giữa Retargeting và Remarketing trong thực tế đôi khi khá khó khăn và nhiều marketer còn cho rằng chúng là một.

Mặc dù tên gọi hay thuật ngữ không thực sự quan trọng, điều cần thiết là người làm quảng cáo hay marketing cần hiểu bản chất của vấn đề để từ đó có thể đưa ra các chiến lược tiếp cận và tối ưu hoá hiệu suất của các chiến dịch.

Trong khi Retargeting như đã phân tích ở trên liên quan đến việc hiển thị lại các nội dung (quảng cáo) tới các khách hàng tiềm năng đã từng tương tác với thương hiệu (chưa phải là khách hàng của thương hiệu), Remarketing lại đề cập đến cũng là tương tác lại tuy nhiên là với các khách hàng hiện tại của thương hiệu.

Nhắm mục tiêu lại hay Retargeting hướng tới mục tiêu chuyển những người tiêu dùng hay khách hàng chưa mua sắm các sản phẩm và dịch vụ của thương hiệu thành khách hàng, còn tiếp thị lại hay Remarketing ngược lại nỗ lực thu hút lại khách hàng hiện tại thông qua các nền tảng khác nhau.

Các chiến thuật như gửi email cho khách hàng hiện có để gia hạn dịch vụ hoặc bán thêm các sản phẩm khác chính là những ví dụ truyền thống về Remarketing.

Khi nào nên sử dụng Retargeting và khi nào nên sử dụng Remarketing?

Như đã đề cập ở trên, việc quyết định thời điểm cần sử dụng Remarketing hay Retargeting cuối cùng đều phụ thuộc vào một thứ: chiến lược.
Tuy nhiên, trong phần lớn các trường hợp, việc sử dụng kết hợp cả 2 chiến thuật được chứng minh là hiệu quả hơn cả.

Ưu tiên Retargeting như một chiến lược.

Đúng như khái niệm đã phân tích, nhắm mục tiêu lại hay Retargeting là nhằm tiếp cận những khách hàng tiềm năng đã tương tác với thương hiệu nhưng chưa mua hàng.

Chiến lược nhắm mục tiêu lại hợp lý nên được kết hợp nếu:

  • Mục tiêu chính của thương hiệu là có được khách hàng mới.
  • Thương hiệu có sản phẩm/dịch vụ thường được mua một lần (hoặc rất lâu sau hoặc hiếm khi được mua lại lần hai).
  • Thương hiệu đang chi một khoản tương đối lớn cho quảng cáo có trả phí để xây dựng nhận thức về thương hiệu.
Vì hầu hết người dùng sẽ không mua hàng khi lần đầu tiên họ nghe đến thương hiệu hoặc sản phẩm/dịch vụ của doanh nghiệp, nuôi dưỡng những người dùng đó trên các kênh bằng nỗ lực nhắm mục tiêu lại chính là phương thức lý tưởng.

Ưu tiên Remarketing như một chiến lược.

Remarketing là nhắm mục tiêu lại những khách hàng đã từng mua hay khách hàng hiện tại của thương hiệu, nhà quảng cáo nên cân nhắc việc sử dụng Remarketing nếu:

  • Thương hiệu có sản phẩm hoặc dịch vụ thường được khách hàng mua nhiều lần.
  • Thương hiệu muốn bán thêm cho khách hàng hiện tại những sản phẩm bổ sung có thể phù hợp với nhu cầu của họ.
  • Thương hiệu không có nhiều ngân sách marketing.
Remarketing không chỉ có ý nghĩa về khía cạnh nhắm mục tiêu hay bán hàng, nó còn là cách để thương hiệu duy trì mối quan hệ lâu dài với khách hàng ngay cả khi họ đang là khách hàng, nhiều khách hàng mới cũng được chính các khách hàng này giới thiệu nếu doanh nghiệp “nuôi dưỡng” họ đủ tốt.

Phân biệt rõ Remarketing và Retargeting để xây dựng chiến lược phù hợp và thúc đẩy hiệu suất.

Như bạn thấy, khi so sánh giữa Remarketing và Retargeting, trong khi ranh giới giữa 2 cách tiếp cận này ngày càng trở nên mờ nhạt, điểm mấu chốt vẫn là hiểu bản chất thực sự về cách thương hiệu tiếp cận lại khách hàng của mình.

Retargeting thực sự tập trung vào việc nhắm mục tiêu những người dùng đã từng tương tác với thương hiệu nhưng chưa mua hàng chủ yếu thông qua các quảng cáo có trả phí.

Remarketing ngược lại tập trung vào việc thu hút lại các nhóm khách hàng hiện tại, chủ yếu thông qua các chiến dịch như email marketing hoặc quảng cáo có trả phí. Bán thêm (up-sale), bán chéo (cross-sale) là những thuật ngữ khác dành cho Remarketing.

Cuối cùng, với tư cách là một marketer, dù là phân biệt Remarketing và Retargeting hay bất cứ cách phân biệt nào khác, đừng bao giờ hiểu sai về bản chất thực sự của các thuật ngữ hay ý nghĩa đằng sau chúng, bạn không thể làm đúng nếu hiểu sai.

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer

Pew Research: Phần lớn người Mỹ vẫn chọn Facebook là nguồn cấp tin tức

Theo dữ liệu mới do Pew Research công bố, 86% người Mỹ đọc tin tức trực tuyến từ điện thoại thông minh, máy tính bảng hoặc máy tính, tăng 4% so với năm 2022.

So với các nguồn tin tức truyền thống, người Mỹ thích nhận tin tức từ các nguồn kỹ thuật số hơn với 58% người dùng chọn các ứng dụng và website tin tức thay vì bất kỳ loại tin tức nào khác. Chỉ 27% trong số này chọn TV để xem tin, con số đó còn ít ỏi hơn với radio chỉ là 6% và 5% thích báo in.

Trong khi các nguồn tin tức kỹ thuật số vẫn chiếm ưu thế vượt trội, các nguồn tin truyền thống như TV hay báo in hiện vẫn thể hiện vai trò của nó với không ít người dùng.

Các nguồn cung cấp tin tức trực tuyến.

Với lượng người dùng khổng lồ, các nền tảng mạng xã hội như Facebook hay TikTok vẫn được xem là một kênh cung cấp thông tin, tuy nhiên mạng xã hội không phải là địa chỉ ưu tiên hàng đầu và chiếm phần lớn tỷ trọng.

Trong khi có 29% người dùng thường xuyên tìm kiếm thông tin trên các website hoặc ứng dụng tin tức, 27% thường xuyên sử dụng công cụ tìm kiếm để tìm tin tức, chỉ 19% mọi người thường xuyên truy cập các ứng dụng mạng xã hội để xem tin tức và – những con số này hầu như không thay đổi kể từ năm 2022.

Bên cạnh các yếu tố như tính sai lệch của thông tin, sự độc hại của các nội dung vốn được xây dựng với mục tiêu chủ yếu là kéo tương tác, mạng xã hội đang mất dần tính năng của các nguồn cung cấp tin tức.

Số liệu cũng cho thấy một số lượng nhỏ nhưng đáng kể người tiêu dùng ưa thích nhận được tin tức từ podcast – 9% thường xuyên và 21% thỉnh thoảng.

Mạng xã hội nào hiện là nguồn cung cấp tin tức phổ biến nhất.

Mặc dù dính phải không ít các bê bối liên quan đến yếu tố độc hại hay tin giả, Facebook hiện vẫn là mạng xã hội cung cấp tin tức số 1 cho người lớn ở Mỹ, với 1/3 người dùng thường xuyên đọc tin tức từ Facebook, tiếp theo sau là YouTube.

Chỉ 14% người Mỹ sử dụng ứng dụng TikTok để xem tin tức trong khi đó mạng xã hội X (Twitter) vốn từ lâu được biết đến như là một ứng dụng cung cấp tin tức thì hiện chỉ có 12% người Mỹ nói chung coi đây là một nguồn cấp tin tức mà họ thường xuyên theo dõi.

Ở khía cạnh người làm marketing, số liệu này mang một số ý nghĩa mang tính định hướng:

Thứ nhất, trong khi mạng xã hội vẫn là một thứ gì đó hết sức thu hút, nó rõ ràng không phải là tất cả những gì mà người dùng hay khách hàng chạm đến, những kênh khác như công cụ tìm kiếm hay các ứng dụng tin tức vẫn là nơi mà khách hàng vẫn thường xuyên lui tới.

Thứ hai, vẫn có một sự khác biệt đáng kể về cách tiếp nhận thông tin từ người lớn và người trẻ (Gen Z). Trong khi TikTok dường như rất khó cưỡng với nhiều người trẻ, các tập khách hàng lớn tuổi hơn thì không phải như vậy. Việc phân tích và xác định đúng tập khách hàng mục tiêu trên các nền tảng sẽ giúp marketer có nhiều dữ liệu hơn cho việc xây dựng chiến lược tiếp cận hiệu quả.

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer

Meta hợp tác với Amazon ra mắt tính năng mua sắm trong ứng dụng mới

Meta đang hợp tác với Amazon để cho tính năng mua sắm trong ứng dụng mới trên cả mạng xã hội Facebook và Instagram.

Meta hợp tác với Amazon ra mắt tính năng mua sắm trong ứng dụng
Meta hợp tác với Amazon ra mắt tính năng mua sắm trong ứng dụng

Meta, công ty mẹ của FacebookInstagram có thể đã từ bỏ việc tự xây dựng tính mua sắm trực tiếp trên Facebook và Instagram, tuy nhiên, ý tưởng thúc đẩy hoạt động mua sắm trên nền tảng dường như vẫn chưa dừng lại.

Theo tuyên bố mới đây, Meta đang hợp tác với Amazon để cho phép khách hàng liên kết tài khoản Facebook và Instagram với tài khoản Amazon của họ, khách hàng từ đây có thể mua sắm từ Facebook và Instagram, thanh toán bằng thông tin đã có trên Amazon và nhận hàng như thông thường.

Người phát ngôn của Amazon, Callie Jernigan, xác nhận rằng: “Lần đầu tiên, khách hàng sẽ có thể mua hàng trên Facebook và Instagram cũng như thanh toán với Amazon mà không cần phải rời khỏi các ứng dụng mạng xã hội”.

Amazon cũng lưu ý rằng tính năng mua sắm trong ứng dụng mới sẽ có sẵn cho một số sản phẩm được quảng cáo trên Facebook hoặc Instagram và được bán bởi Amazon hoặc bởi những người bán độc lập trên cửa hàng của Amazon.

Ở khía cạnh nhắm mục tiêu quảng cáo (targeting), Meta hiển nhiên sẽ nhắm mục tiêu và tối ưu hóa tốt hơn bằng cách sử dụng các thông tin có sẵn về hành vi mua sắm của khách hàng từ Amazon.

Điều này cũng hứa hẹn sẽ mang lại tỷ lệ chuyển đổi tốt hơn vì khách hàng có thể thanh toán nhanh hơn. Ngoài ra, Meta sẽ có thể điều chỉnh thông điệp quảng cáo và trang sản phẩm dựa trên việc người dùng có phải là thành viên của Prime hay không, sau đó điều chỉnh các thông tin khác như giá cả theo thời gian thực hoặc ước tính vận chuyển (nếu cần).

Về phía Amazon, gã khổng lồ thương mại điện tử cũng hưởng lợi khi được phép bán hàng từ các nền tảng mạng xã hội mà chính Amazon cũng nhiều lần mong muốn tự xây dựng riêng tuy nhiên không thành.

Amazon từng đóng cửa nền tảng giống như Instagram có tên là Spark vào năm 2019, sau đó vào cuối năm ngoái cũng đã tung ra nguồn cấp dữ liệu mua sắm giống như TikTok được gọi là Inspire tuy nhiên Inspire được cho là có cảm giác bị thương mại hóa quá mức, thiếu nội dung có sức ảnh hưởng lớn để thúc đẩy doanh số bán hàng.

Thỏa thuận giữa Meta với Amazon diễn ra trong bối cảnh bản thân TikTok hiện đang cố gắng để cạnh tranh với cả Amazon hay các nền tảng mạng xã hội của Meta. Mặc dù TikTok Shop của TikTok hiện vẫn chỉ hấp dẫn với nhóm người dùng trẻ (Gen Z), tuy nhiên đó vẫn là mối nguy với các nền tảng khác nếu có những sự dịch chuyển khác được diễn ra.

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer

Amazon sẽ bán xe hơi trực tuyến từ năm 2024 (bắt đầu với Hyundai)

Nếu như thương mại điện tử vốn được biết đến là nơi bán các mặt hàng thiết yếu, đơn giản và sử dụng hàng ngày, Amazon đang làm thay đổi suy nghĩ này khi mới đây đã công bố rằng nền tảng sẽ bắt đầu bán xe hơi trực tuyến từ năm 2024 (bắt đầu với Hyundai).

Amazon sẽ bán xe hơi trực tuyến từ năm 2024 (bắt đầu với Hyundai)
Amazon sẽ bán xe hơi trực tuyến từ năm 2024 (bắt đầu với Hyundai)

Gã khổng lồ thương mại điện tử Amazon cùng với đối tác mới là Hyundai mới đây vừa thông báo rằng họ sẽ bắt đầu bán xe hơi trên nền tảng của mình vào nửa cuối năm 2024. Thương hiệu Hyundai sẽ là những chiếc xe đầu tiên được bán trên Amazon.com tại Mỹ cùng với các hãng khác.

Amazon sẽ cho phép khách hàng mua xe dựa trên nhiều sở thích khác nhau, bao gồm kiểu dáng, màu sắc hay tính năng, sau khi chọn được mẫu xe yêu thích, khách hàng sẽ thanh toán trực tuyến với các tùy chọn thanh toán và tài chính đã chọn. Theo Amazon, khách hàng sẽ có thể mua một chiếc xe trực tuyến và sau đó nhận nó hoặc được giao bởi chính đại lý bán xe ở địa phương nơi khách hàng sinh sống.

Amazon cho biết trải nghiệm mua sắm mới này “sẽ tạo ra một cách khác để các đại lý bán xe xây dựng nhận thức về các lựa chọn, mang lại sự thuận tiện cho khách hàng của họ và hơn thế nữa”.

Cơ cấu thưởng doanh số nếu có vẫn sẽ được tính cho các đại lý, không giống như các mô hình bán hàng trực tiếp vốn bỏ qua các yếu tố trung gian. Khi xe được bán tại Amazon, các đại lý Hyundai địa phương vẫn sẽ là bên hưởng lợi.

Ông Mike Sullivan, chủ tịch và chủ sở hữu của một số đại lý bán xe đã công khai ủng hộ tin tức này khi đứng trên sân khấu tại một triển lãm ô tô mới đây tại Mỹ.

Ông này cho biết: “Chúng tôi hiện đang hợp tác với một trong những nhà bán lẻ kỹ thuật số hàng đầu thế giới. Họ đã đi đầu trong việc mang lại sự thuận tiện cho khách hàng và giờ đây họ sẽ giúp chúng tôi đưa trải nghiệm của khách hàng lên một tầm cao mới. Amazon cũng mang lại khả năng tiếp cận và tiếp thị rộng rãi để giúp chúng tôi kết nối với nhiều khách hàng hơn.

Chúng tôi thực sự nóng lòng muốn bắt đầu.”

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer

CEO OpenAI muốn tạo ra AI siêu thông minh

Sam Altman, nhà đồng sáng lập OpenAI (ChatGPT), muốn các quỹ đầu tư tiếp tục rót tiền để siêu AI thông minh như con người sớm thành hiện thực.

CEO OpenAI muốn tạo ra AI siêu thông minh
CEO OpenAI muốn tạo ra AI siêu thông minh

Theo Financial Times, Sam Altman cho biết quan hệ hợp tác của ông với CEO Microsoft Satya Nadella rất tốt và kỳ vọng sẽ có nhiều tiền hơn nữa từ các nhà đầu tư khác. Mục đích của ông là đảm bảo nguồn tài chính để nuôi những cỗ máy AI phức tạp hơn, có thể suy nghĩ như con người (AGI).

AGI theo mô tả của Alman là trí thông minh kỳ diệu, vượt trội con người trong hầu hết công việc mang lại giá trị kinh tế và có thể thay con người thực hiện các nhiệm vụ khác nhau. Khác với AI thông thường, AGI có thể tự học hỏi và nhân bản chính chúng.

Theo Fortune, AGI được đánh giá là phức tạp hơn nhiều so với mô hình AI tổng quát hiện nay nhờ khả năng tự nhận thức được những gì nó nói và làm. Về lý thuyết, công nghệ này sẽ khiến con người phải lo sợ trong tương lai.

Nguồn tin của Financial Times cho biết, đầu năm nay, Microsoft đã đầu tư 10 tỷ USD vào OpenAI như một phần cam kết sẽ đồng hành lâu dài cùng công ty. Khi được hỏi liệu Microsoft có tiếp tục rót thêm tiền, Altman nói: “Đó là điều tôi chờ đợi. Còn một chặng đường dài phía trước và nhiều tính toán cần xây dựng. Chi phí để đào tạo AGI rất lớn”.

CEO OpenAI tiết lộ doanh thu của công ty đã tăng trưởng tốt trong năm nay dù vẫn lỗ do chi phí đào tạo mô hình học máy quá lớn. Ông tin việc hợp tác với Microsoft sẽ đảm bảo “cả hai có thể cùng kiếm tiền trong hạnh phúc”. Công ty đã giới thiệu bản nâng cấp của GPT-4, cho phép tùy chỉnh ChatGPT để phù hợp với các ứng dụng và cửa hàng GPT. Mục đích của công ty là tạo ra mô hình chia sẻ doanh thu từ những người dùng ChatGPT, tương tự App Store của Apple.

“Tầm nhìn của tôi là AGI, tìm ra cách làm cho nó an toàn cũng như các lợi ích nó đem lại” Altman nói. OpenAI tìm cách xây dựng mô hình AI có thể tự động hóa như viết mã, thanh toán, gửi email hoặc yêu cầu bồi thường. “Chúng tôi sẽ khiến những mô hình này ngày càng mạnh mẽ, có thể làm được nhiều việc phức tạp”, ông cho hay.

Altman cũng không giấu kế hoạch nghiên cứu GPT-5. Ông nói mô hình này cần nhiều dữ liệu đào tạo. Bên cạnh nguồn có sẵn từ Internet, OpenAI sẽ dùng cả dữ liệu độc quyền của công ty. “Rất khó dự đoán được chính xác khả năng và kỹ năng GPT-5 có thể làm được. Chúng tôi huấn luyện siêu AI nhưng nó cũng là trò đoán mò thú vị. Chúng tôi sẽ chú ý đến góc độ an toàn”, Altman nói.

Một trong những thách thức CEO OpenAI chỉ ra trong tham vọng hiện thực hóa AGI là thiếu hụt chip xử lý đầu bảng từ Nvidia. Dù nhận được số lượng lớn chip H100, ông nói vẫn chưa đủ và cần nhiều hơn nữa. “Tín hiệu lạc quan là ngày càng nhiều công ty bán dẫn muốn cạnh tranh với Nvidia”, ông nhận định.

Nhà đồng sáng lập OpenAI cho rằng các công ty công nghệ lớn đã có cơ hội làm ra những sản phẩm tốt hơn cả ChatGPT nhưng họ đã không làm. Thay vì nghiên cứu để phát triển về AI, những bộ não hàng đầu ở Google, Microsoft lại chủ yếu tập trung vào các mô hình ngôn ngữ học máy lớn (LLM). Ông cho rằng AGI sẽ là bước tiến tiếp theo của trí tuệ nhân tạo.

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer

 

Theo VnExpress

Thất bại của Nokia và bài học về sự chuyển mình của thương hiệu

Symbian từng là hệ điều hành thống trị thế giới smartphone, nhưng sự ra đời của iPhone và sự xuất hiện của Android đã đặt dấu chấm hết cho nền tảng này. Tuy nhiên, từng đứng trên đỉnh vinh quang, Symbian sẽ không chịu thua trong lặng lẽ mà không có sự phản kháng.

Thất bại của Nokia và bài học về sự chuyển mình của thương hiệu
Thất bại của Nokia và bài học về sự chuyển mình của thương hiệu

Symbian là nền tảng cốt lõi của hệ điều hành và có các giao diện người dùng được phát triển dựa trên đó. Series 60 có lẽ là nổi tiếng nhất trong số đó. Xuất hiện lần đầu với Nokia 7650, đây không chỉ là điện thoại có khả năng chụp ảnh đầu tiên của Nokia mà còn là điện thoại Symbian đầu tiên dành cho thị trường đại chúng, trước đó chỉ có một số sản phẩm dành cho thị trường ngách, không được phổ biến rộng rãi.

Phần lớn, Series 60 chạy trên điện thoại có màn hình từ 2 đến 3 inch. Giao diện người dùng được xây dựng dựa trên nút D-pad, được sử dụng để điều hướng giữa các thành phần trên màn hình và một số nút tính năng, kích hoạt các hành động tùy theo ngữ cảnh.

Ngoài ra còn có Series 80, được sử dụng trong điện thoại Communicator có bàn phím QWERTY của Nokia, nhưng công ty Phần Lan chủ yếu sử dụng S60. Nokia 9210 Communicator cũng là chiếc điện thoại đầu tiên chạy Symbian, nhưng như đã nói ở trên, đây không phải sản phẩm dành cho đại chúng. Không có chiếc Communicator nào có màn hình cảm ứng.

Ngoài ra còn có Symbian UIQ, được xây dựng cho các thiết bị kiểu PDA. UIQ được thiết kế cho màn hình cảm ứng. Màn hình cảm ứng điện trở lúc bấy giờ được thiết kế để sử dụng bằng bút cảm ứng nhọn thay vì ngón tay. Tuy nhiên, bạn cũng có thể dùng ngón tay, đặc biệt là móng tay, kèm theo một chút lực để sử dụng.

Đến năm 2008, chúng ta có phiên bản thứ 5 của Symbian Series 60 hay sau này được gọi là Symbian^1 (thật may mắn vì hệ điều hành ngày nay đã có cách đặt tên phiên bản nhất quán hơn). Đây là giao diện người dùng Symbian được xây dựng hỗ trợ cảm ứng, nhưng thay vì lấy cảm hứng từ những chiếc PDA như UIQ đã làm, nó lại lấy cảm hứng từ iPhone và thực hiện theo một cách tồi tệ.

Cho đến thời điểm đó, Symbian Series 60 được thiết kế để điều khiển bằng D-pad và bàn phím. Phiên bản thứ 5 chỉ là làm cho giao diện phản ứng với thao tác chạm, dẫn đến trải nghiệm sử dụng rất kém.

Lần này, chúng ta sẽ tập trung vào sản phẩm tiếp theo, Symbian Anna, ra mắt một năm sau Symbian^3 (Symbian^2 chỉ ra mắt ở Nhật Bản). Anna được ra mắt vào đầu năm 2011 cùng với Nokia X7 và Nokia E6. E6 là một chiếc điện thoại dạng thanh có bàn phím QWERTY và màn hình cảm ứng 2.45 inch, nhưng X7 hoàn toàn là cảm ứng (màn hình 4.0 inch).

Điều tuyệt vời hơn nữa là chủ sở hữu của một số máy Nokia cũ hơn sẽ nhận được bản cập nhật Anna, ví dụ như Nokia N8 và E7. Nokia C7 và C6-01 cũng được cập nhật.

Có lẽ hai nâng cấp lớn nhất trên Anna so với ^3 là bàn phím mới và trình duyệt mới. Nghe có vẻ quá nhỏ, nhưng thật sự điều này mang lại khác biệt rất lớn. Bạn có thể thấy bàn phím dọc của Symbian^3 ở bên trái, bàn phím của Anna bên phải.

Thứ bạn đang thấy ở bên trái không phải là ứng dụng đang chia sẻ màn hình với bàn phím. Không, đây là giao diện nhập văn bản, nó bao phủ toàn bộ màn hình và hiển thị một khung dành cho văn bản và bàn phím nằm bên dưới.

Ngược lại, bàn phím của Anna giống như bất kỳ hệ điều hành nào hiện nay, chỉ xuất hiện ở nửa dưới màn hình, che khuất một phần ứng dụng nhưng cũng chừa không gian khá thoải mái cho phần nội dung.

Và nếu bạn muốn dùng bàn phím ảo QWERTY trên ^3, bạn phải xoay ngang điện thoại, chỉ có bàn phím T9 khi dùng điện thoại chiều dọc.

Tệ hơn nữa, vì cảm ứng đa điểm không được hỗ trợ, bạn không thể nhấn nhiều phím ngay cả trên bàn phím QWERTY đầy đủ chế độ nằm ngang, do đó không thể tăng tốc độ nhập dữ liệu của mình. Anna cũng không có cảm ứng đa điểm.

Như đã đề cập trước đó, nâng cấp lớn khác là trình duyệt. Trong những ngày đầu của Internet di động có một thứ gọi là WAP, hoạt động rất hạn chế. Cuối cùng, khi màn hình trở nên tốt hơn, CPU nhanh hơn, RAM tăng lên và dữ liệu di động nhanh hơn, điện thoại đã tham gia vào World Wide Web thực sự, nơi mà các máy tính tiếp xúc với thế giới mạng. Nhưng điều này đòi hỏi một thế hệ trình duyệt mới để có được trải nghiệm đầy đủ.

Giao diện trình duyệt được thiết kế lại để dành phần lớn màn hình hiển thị trang web, thanh trạng thái/URL ở trên cùng, có nút quay lại ở góc dưới bên trái và nút menu ở dưới bên phải.

Các tab cũng được hỗ trợ các công nghệ web mới như HTML5. Flash vẫn chưa hoàn thiện – trình duyệt Symbian chỉ hỗ trợ Flash Lite 4. Điều này gần như loại trừ việc chơi game Flash và xem video YouTube trong trình duyệt (bạn phải sử dụng ứng dụng).

Anna còn mang đến một số cải tiến khác nữa. Ví dụ: Symbian đã hỗ trợ các widget màn hình chính một thời gian, thậm chí có thể tạo nhiều màn hình chính. Tuy nhiên, việc điều hướng giữa chúng không trôi chảy như trên Android – bạn sẽ vuốt sang một bên, sau đó hoạt ảnh trượt sẽ diễn ra. Với Anna, giống như trên Android, màn hình chính sẽ ngay lập tức di chuyển theo ngón tay của bạn.

Nokia cũng cải tiến ứng dụng email, ứng dụng lịch và ứng dụng Ovi Maps. Công ty cũng thay đổi các biểu tượng thành hình tròn, mà vẫn phổ biến đến tận ngày nay.

Nhưng dù sao, Anna vẫn kém xa Android. Những công ty dùng Symbian trước đây như Sony Ericsson và Motorola đã chuyển sang Android, chỉ có Nokia là giữ cho hệ điều hành cũ tiếp tục hoạt động, như một động thái vùng vẫy trước thời đại mới. Nokia sau này cũng đã từ bỏ Symbian và đi theo Windows Mobile, nhưng cuối cùng cả hai đều có kết cuộc tồi tệ. Windows Mobile bị khai tử, còn Nokia phải bán bộ phận điện thoại cho công ty khác, sản xuất điện thoại Android tầm trung.

Có thể nói Nokia đã quá tự tin vào Symbian mà không kịp thay đổi để phù hợp thời đại cảm ứng mà iPhone và Android mang đến. Có lẽ nếu hãng chịu bỏ “cái tôi” của mình đi mà tiếp nhận Android sớm hơn, có khả năng lúc này Nokia vẫn còn là một tên tuổi lớn trong thị trường smartphone.

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer

 

Theo Tuấn Nguyễn | Markettimes

Facebook và Instagram lần đầu tăng trưởng nhanh hơn TikTok

Trong báo cáo mới đây của Evercore được công bố trên Business Insider, lần đầu tiên sau một khoảng thời gian dài, các ứng dụng lớn nhất của Meta là Facebook và Instagram đang đánh bại TikTok ở một số chỉ số chính.

Facebook và Instagram lần đầu tăng trưởng nhanh hơn TikTok
Facebook và Instagram lần đầu tăng trưởng nhanh hơn TikTok

Cụ thể, số lượt tải xuống ứng dụng trong quý 3 của Facebook và Instagram, mức sử dụng hàng ngày và cả mức sử dụng hàng tháng đều tăng trên toàn cầu, trong khi TikTok phải đối mặt với tình trạng đi ngang trên cả ba chỉ số.

Đó là một bước chuyển biến tích cực đối với Meta kể từ cuối năm 2021 khi lượng người dùng của Facebook lần đầu tiên sụt giảm và mức tăng trưởng ít ỏi ở nhiều chỉ số.

Vài tháng sau, Meta lại tiếp tục chứng kiến mức doanh thu sụt giảm, trong khi TkTok thì ngược lại tăng trưởng liên tục.

Tuy nhiên, theo số liệu báo cáo quý 3 mới đây, điều này dường như đang thay đổi.

Trong quý 3, số người dùng hoạt động hàng ngày (DAU) của ứng dụng Facebook đã tăng 1,5% và người dùng hoạt động hàng tháng (MAU) tăng 1,8%, theo dữ liệu từ Apptopia.

Người dùng hàng ngày của Instagram theo đó cũng tăng 1,5% và người dùng hàng tháng tăng 1,6%. Mặc dù cả hai ứng dụng đều có số lượt tải xuống giảm, Facebook giảm 3,8% và Instagram giảm 2,2%, cả hai đều hoạt động tốt hơn so với TikTok. Số lượt tải xuống ứng dụng đã giảm 12%, trong khi cả người dùng hàng ngày và hàng tháng đều giảm khoảng 1% trong quý.

Dựa trên dữ liệu từ SensorTower, Evercore nhận thấy mức sử dụng hàng ngày của Facebook và Instagram đều không thay đổi trong năm nay, trong khi số người dùng TikTok hàng ngày đã giảm 4% so với cùng kỳ.

Nói về mức độ tương tác (engagement), mức độ tương tác của Instagram đã tăng nhiều nhất, tăng 9% từ đầu năm đến nay, trong khi mức độ tương tác của TikTok tăng 8%. Cả hai ứng dụng đều đánh bại mức tăng trưởng mức độ tương tác trên Facebook, chỉ tăng 2% trong năm nay.

Trong báo cáo quý được công bố, Meta cho biết tổng số người dùng hàng ngày của Facebook, bao gồm cả người dùng web, tăng 5%, trong khi người dùng hàng tháng tăng 3%. Theo Meta, trên tất cả các ứng dụng của mình, số người dùng hàng ngày và hàng tháng đã tăng 7%.

Dù Facebook và Instagram đã đánh bại TikTok ở nhiều chỉ số quan trọng, có một số liệu mà TikTok vẫn đánh bại Facebook và Instagram đó là khoảng thời gian trung bình người dùng dành cho ứng dụng.

Trong khi người dùng TikTok trung bình dành “một con số khổng lồ” là 100 phút mỗi ngày cho ứng dụng, của Instagram chỉ là khoảng 58 phút, trong khi Facebook trung bình khoảng 45 phút.

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer

Chủ tịch MWG: Cuộc chiến về giá khiến các đối thủ “chỉ thở”

Phản hồi phát ngôn “Thế Giới Di Động vẫn sẽ sống khoẻ còn các đối thủ giờ chỉ thở thôi” của ông Nguyễn Đức Tài, đại diện một chuỗi bán lẻ ICT khẳng định “vẫn hít thở đều” và sẵn sàng chạy nước rút để rút ngắn khoảng cách với những “người khổng lồ” trong ngành.

Chủ tịch MWG: Cuộc chiến về giá khiến các đối thủ "chỉ thở"
Chủ tịch MWG: Cuộc chiến về giá khiến các đối thủ “chỉ thở”

Tại cuộc họp gặp gỡ nhà đầu tư hôm 13/11, ông Nguyễn Đức Tài, Chủ tịch HĐQT Công ty CP Đầu tư Thế Giới Di Động (mã MWG) cho biết, cuộc chiến giá giữa các nhà bán lẻ thiết bị điện tử, công nghệ (ICT) đã khiến Thế Giới Di Động mất lợi nhuận do giảm giá bán về ngang các đối thủ, thậm chí là còn bán rẻ hơn nhưng đổi lại công ty cũng được nhiều thứ, trong đó có thể dễ dàng nhận thấy nhất là thị phần.

Theo ông Tài, hiện nay thị phần mảng ICT của MWG đã dần phục hồi và thuộc hàng lớn nhất trong các công ty bán lẻ hiện nay. Doanh thu của công ty cũng đều đặn tăng trong các tháng vừa qua và khoảng cách về doanh thu giữa MWG và các đối thủ trong mảng ICT tăng trở lại với mức giãn ra khoảng 2.000 tỷ đồng sau quý III vừa qua. Khả năng thu hút được khách hàng và gia tăng doanh số đang củng cố sự đúng đắn của chiến lược này.

Lãnh đạo MWG khẳng định sẽ tiếp tục theo đuổi chiến lược giá rẻ nhưng sẽ có điều chỉnh. Công ty sẽ phối hợp chặt với các hãng để đem đến những sản phẩm vượt trội hơn, độc quyền, giá cạnh tranh hơn và các sản phẩm vệ tinh như phụ kiện, gia dụng. “Với sự tiếp sức từ hãng, Thế Giới Di Động vẫn sẽ sống khoẻ còn các đối thủ giờ chỉ thở thôi”, ông Tài nói.

Cũng theo ông Nguyễn Đức Tài, năm 2024 MWG sẽ chỉ làm những thứ hiệu quả. Trong thời gian qua MWG đã phải đóng một số cửa hàng và sẽ tiến hành đóng những cửa hàng không có được hiệu quả kinh doanh cao để giảm gánh nặng chi phí cho công ty.

“Nếu những đứa con nào là gánh nặng cho gia đình thì buộc phải đóng”, ông Tài nhấn mạnh và cho biết thêm công ty sẽ cố gắng xử lý dứt điểm trong năm nay, điểm rơi nằm trong quý IV và từ năm sau trở đi sẽ chỉ nhìn về tương lai.

Các đối thủ của MWG có chỉ đang “thở”?

Trao đổi với người viết, ông Nguyễn Lạc Huy, Giám đốc truyền thông CellphoneS cho biết, là một trong những chuỗi bán lẻ công nghệ lớn nhất tại Việt Nam hiện nay, CellphoneS cũng khó có thể đứng ngoài cuộc chiến giá được bắt nguồn từ chuỗi bán lẻ có thị phần lớn nhất tới ngưỡng trên cả mức được định nghĩa độc quyền tại Việt nam.

Theo đó, trong quý II/2023 – quý đầu tiên của cuộc chiến giá, CellphoneS cũng đã chịu những tổn thất trong hoạt động kinh doanh như nguyên cả quý II, mặc dù kinh doanh không có lợi nhuận nhưng doanh số cả quý chỉ giữ nguyên mà không tăng trưởng so với cùng kỳ 2022, thậm chí còn giảm tới 20% so với quý I/2023.

Tuy nhiên, việc giữ được doanh thu đi ngang vẫn là nỗ lực giữa bối cảnh doanh thu quý II của nhà bán lẻ lớn nhất thị trường (MWG) giảm tới 14% so với cùng kỳ 2022, biên lợi nhuận ròng đạt 0,06% – mức thấp nhất kể từ khi niêm yết năm 2014.

Sang quý III/2023, CellphoneS ghi nhận sự tăng trưởng trở lại hơn 3% so với 2022 và 16% so với quý II nhờ những nỗ lực điều chỉnh, thay đổi quyết liệt từ quý II và một số yếu tố thuận lợi từ mô hình hoạt động tinh gọn của các cửa hàng CellphoneS cũng như đối tượng khách trẻ nhạy cảm về giá bán và hiểu rõ những giá trị mà CellphoneS mang lại.

Trong khi đó, bà Phương Phùng, đại diện truyền thông Di Động Việt cho biết, “chiến giá” không ảnh hưởng nhiều đến chuỗi này bởi vốn dĩ Di Động Việt là một hệ thống đã có mức giá rẻ hơn các loại rẻ từ trước nên khi “chiến giá” rộ lên tại các chuỗi khác thì chiến lược giá rẻ của Di Động Việt càng thêm phần vượt trội. Đến hiện tại thị phần của Di Động Việt đã tăng 30% so với cùng kỳ năm ngoái.

“Dù có “chiến giá” hay không, thì giá bán các sản phẩm tại Di Động Việt vẫn rất cạnh tranh trên thị trường với những chính sách bán hàng vượt trội khi hệ thống đặt trải nghiệm của khách hàng lên đầu. Di Động Việt không ủng hộ việc “chiến giá”, phá giá để giành thị phần, vì về lâu dài, không chỉ ngành bán lẻ, mà người dùng công nghệ, người lao động đều sẽ bị ảnh hưởng”, bà Phương nói.

“Trong bối cảnh thị trường chung khó khăn, chỉ có “thở” thôi doanh số bán của Di Động Việt vẫn tăng trưởng liên tục trong những tháng qua”, bà Phương nói và dẫn chứng doanh số quý III/2023 cao hơn 40% so với cùng kỳ năm ngoái, đặc biệt sự xuất hiện sớm của iPhone 15 vào những ngày cuối tháng 9 đã giúp cho doanh số bán trong tháng 9 năm nay cao hơn 50% so với năm ngoái. Và với tín hiệu tích cực trong tháng 10 vừa qua, dự kiến quý IV doanh số tại Di Động Việt sẽ tiếp tục tăng 40% so với cùng kỳ.

Đại diện truyền thông Di Động Việt cũng khẳng định, Di Động Việt hiện đang vẫn “hít thở đều”, vận động nhanh, chạy nước rút để từng bước tăng tốc rút ngắn khoảng cách với những người khổng lồ. Đặc biệt trong bối cảnh các “ông lớn” đang lao đao, nhịp thở dồn dập, ngắt quãng, Di Động Việt vẫn sẽ tiếp tục trụ vững với những giá trị vượt trội sẵn có để từng bước giành lợi thế.

“Cứu tinh” iPhone 15 và cuộc đua nước rút cho cao điểm mua sắm cuối năm.

Không chỉ Di Động Việt, sự xuất hiện của iPhone 15 cũng được xem là “cứu tinh” doanh số cho các nhà bán lẻ trong tháng 9 và tháng 10 vừa qua. Báo cáo kết quả kinh doanh tháng 9 của MWG cho thấy, với hơn 18.000 sản phẩm bán ra, iPhone 15 đã đóng góp gần 600 tỷ đồng vào tổng doanh thu 7.200 tỷ đồng của hai chuỗi Thế Giới Di Động và Điện Máy Xanh.

Với CellphoneS, ông Nguyễn Lạc Huy cho hay, tới thời điểm hiện tại doanh thu iPhone của chuỗi này tăng gần 6% so với cùng thời gian 2022, thị phần của CellphoneS cũng tăng thêm khoảng 2,1% giữa bối cảnh thị trường điện thoại năm nay ước tính sụt giảm hơn 20%.

“Trong bối cảnh cạnh tranh quyết liệt về giá cả, khách hàng của CellphoneS vốn là những người khá nhạy cảm về giá bán và am hiểu về thị trường vẫn tiếp tục lựa chọn CellphoneS. Thêm vào đó, việc cạnh tranh giá cũng giúp các chuỗi lớn như CellphoneS tiếp cận được thêm nhiều khách hàng hơn và giành thêm được thị phần”, ông Huy lý giải.

Ông Huy cho biết thêm, dịp 11/11 vừa qua, dù không làm chương trình sale riêng song theo xu hướng chung của cả thị trường, đặc biệt là bán hàng online nên doanh số của CellphoneS vẫn tăng 150% so với ngày thường, điều này cũng tương tự như năm 2022.

Với tín hiệu hồi phục của sức cầu, đại diện CellphoneS tiết lộ trong những tháng cuối năm, chuỗi bán lẻ này sẽ dồn toàn lực cho chương trình sale lớn nhất năm, quan trọng nhất năm là Black Friday vào ngày 20-23/11 tới và dịp Tết Nguyên đán.

Theo đó, trong hai chương trình sale lớn này CellphoneS sẽ đầu tư lớn cùng các hãng, nhà phân phối, đối tác tài chính hỗ trợ các ưu đãi thanh toán. Khách hàng sẽ được mua nhiều sản phẩm ở các nhóm điện thoại, laptop, gia dụng, âm thanh… với giá thấp nhất năm.

Tương tự, đại diện Di Động Việt cho biết, dịp 11/11 là đợt bán hàng mang về doanh số bán hàng cao thứ hai trong năm 2023 của chuỗi với kỷ lục tăng gấp 3 lần doanh số ngày bình thường.

“Đây là một dấu hiệu tích cực để đội ngũ Di Động Việt tiếp tục đem tới cho khách hàng nhiều chương trình ưu đãi hấp dẫn chỉ có duy nhất tại Di Động Việt”, đại diện Di Động Việt nói và cho biết, để kích cầu mua sắm, những tháng cuối năm Di Động Việt sẽ mang đến cho người dùng những sản phẩm công nghệ với mức giá rẻ hơn các loại rẻ mỗi ngày và các kỳ sale lớn nhất trong năm sắp diễn ra Black Friday, Noel, sale Tết Dương lịch, sale cuối năm…

Cuộc chiến về giá bao giờ đến hồi kết?

Có thể thấy, sau hơn 6 tháng “chiến giá” với những tổn thất, dù không còn cạnh tranh khốc liệt như hồi quý II, song các chuỗi bán lẻ ICT vẫn đang chuẩn bị cho một cuộc “chiến giá” mới để đón đầu cao điểm mua sắm cuối năm, hướng đến sự phục hồi trong quý cuối năm và năm sau.

Nói về cuộc chiến giá rẻ này, ông Đoàn Hồng Việt, Chủ tịch HĐQT Digiworld cho rằng: “Cuộc đua về giá không bao giờ là cuộc đua dài hạn, đó chỉ ngắn hạn vì không ai đi kinh doanh mà chịu lỗ mãi. Cuộc đua này có thể kéo dài đến cuối năm 2024 mới hết nhưng mức độ cạnh tranh đang giảm dần, không khốc liệt như hồi tháng 4 và tháng 5/2023”.

Đồng quan điểm, ông Nguyễn Lạc Huy nhận định cuộc chiến giá chưa dừng ngay, tuy nhiên mức độ và quy mô sẽ có sự thay đổi, một số nhóm hàng, mặt hàng sẽ có sự điều chỉnh về mức giá bán cao hơn để giữ lợi nhuận, một mặt một số nhóm hàng sẽ tiếp tục “chiến giá”.

Theo ông Huy, sau 6 tháng của cuộc “chiến giá”, đã có dấu hiệu rõ ràng về tổn thất của các nhà bán lẻ có quy mô lớn, chi phí vận hành lớn, hiệu suất/cửa hàng vốn đã kém. Trong đầu quý IV, các nhà bán lẻ này đã bắt đầu đóng cửa khá nhiều cửa hàng, xu hướng này sẽ còn tiếp tục diễn ra tới đầu năm 2024.

“Và về lâu dài, khi thị trường phục hồi, các chuỗi lớn hơn hồi phục được doanh thu, lợi nhuận, mà theo dự báo là nửa cuối 2025 thì cuộc chiến giá này mới có thể chuyển về trạng thái bình thường như trước được”, ông Huy nhìn nhận.

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer

Theo Tạp chí Thị trường Tài chính Tiền tệ

Microsoft hợp tác với công cụ tìm kiếm Baidu để phân phối quảng cáo

Microsoft vừa thông báo đã hợp tác với công cụ tìm kiếm Baidu của Trung Quốc để hiển thị quảng cáo được hỗ trợ bởi AI (trí tuệ nhân tạo), quảng cáo sẽ bắt đầu được phân phối từ năm 2024.

Microsoft hợp tác với công cụ tìm kiếm Baidu để phân phối quảng cáo
Microsoft hợp tác với công cụ tìm kiếm Baidu để phân phối quảng cáo

Microsoft Advertising vừa công bố mối quan hệ hợp tác mới với Baidu Global, bộ phận quốc tế của công ty công nghệ Trung Quốc Baidu (sở hữu công cụ tìm kiếm phổ biến nhất Trung Quốc Baidu).

Thông qua hợp tác mới, Microsoft có thể phân phối quảng cáo được hỗ trợ bởi trí tuệ nhân tạo (AI) vào ứng dụng bàn phím di động của Baidu (Baidu Global Keyboard).

Bằng cách tích hợp API quảng cáo trò chuyện của Microsoft (Chat Ads API) vào tính năng trò chuyện bằng AI của Baidu (Baidu Chat AI), các nhà quảng cáo trên nền tảng của Microsoft có thể tiếp cận khách hàng tiềm năng ngay từ ứng dụng bàn phím của Baidu.

Ứng dụng bàn phím giúp mang lại một kênh mới có giá trị cho thương hiệu.

Theo Microsoft, việc tích hợp với Baidu cho phép các thương hiệu và nhà quảng cáo thu hút nhóm nhân khẩu học trẻ hơn, chủ yếu là người dùng Gen Z.

Ngoài ra, do ứng dụng bàn phím của Baidu tùy chỉnh các tính năng dựa trên môi trường ứng dụng mà người dùng đang sử dụng nên các thương hiệu có thể tiếp cận người dùng bằng các quảng cáo có liên quan trên nhiều nền tảng khác nhau. Yếu tố ngữ cảnh này có thể thúc đẩy ý định mua hàng và tỷ lệ chuyển đổi cao hơn.

AI có thể mang lại nhiều trải nghiệm cá nhân hóa hơn.

Microsoft tiếp đó cũng gợi ý về tiềm năng cá nhân hóa quảng cáo và mức độ liên quan phù hợp với các nhóm đối tượng mục tiêu mong muốn.

Ví dụ: AI có thể phát hiện tin nhắn của người dùng về các địa điểm ăn uống và sau đó phân phối các quảng cáo có nội dung liên quan đến người dùng.

Dự kiến sẽ ra mắt vào đầu năm 2024 tại các thị trường trọng điểm.

Microsoft dự kiến việc tích hợp sẽ được triển khai vào cuối năm nay và ra mắt chính thức vào đầu năm 2024.

Quảng cáo ban đầu sẽ được hiển thị cho các thị trường như Mỹ, Canada, Vương quốc Anh và Úc.

Đối với các nhà quảng cáo, Microsoft lưu ý rằng họ có thể tận dụng cơ hội mới bằng cách đảm bảo rằng các chiến dịch quảng cáo trên Microsoft của họ được thiết lập để nhắm mục tiêu (targeting) rộng đến toàn bộ mạng lưới hiển thị quảng cáo.

Microsoft trông cậy vào AI để chuyển đổi vị thế trong mảng quảng cáo vốn đang được thống trị bởi Google.

Trong thông báo, Microsoft định vị thương vụ này là một phần quan trọng trong tầm nhìn rộng hơn của nền tảng đối với trí tuệ nhân tạo trong mảng quảng cáo.

Việc tích hợp với Baidu là động thái mới nhất nhằm mang lại trải nghiệm quảng cáo được hỗ trợ bởi AI hấp dẫn hơn, được cá nhân hóa cao hơn cho các nền tảng và đối tượng mục tiêu mới.

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer