TikTok vừa thông báo mở rộng tính năng có tên gọi là TikTok Series tới nhiều nhà sáng tạo hơn, người dùng TikTok theo đó phải trả phí để xem các nội dung độc quyền từ nhà sáng tạo.
TikTok Series: Người dùng TikTok phải trả phí để xem nội dung độc quyền từ nhà sáng tạo
Với tên gọi là “TikTokSeries”, lần đầu tiên được TikTok công bố vào tháng 3, đây là tính năng cho phép các nhà sáng tạo nội dung trên TikTok tính tiền cho người dùng nếu muốn xem các nội dung độc quyền của họ.
Về cơ bản, tính năng này tương tự như mô hình thuê bao (Subscription) trên các nền tảng như Netflix, người dùng phải trả phí để được truy cập nội dung.
Theo TikTok, tính năng mới hiện chỉ được áp dụng cho các nhà sáng tạo được chọn tại một số thị trường nhất định.
Nhà sáng tạo cũng có thể định giá nội dung của họ trong khoảng từ 1 USD đến 190 USD đồng thời có thể tải lên video dài tối đa 20 phút, tức gấp đôi với mức thông thường.
Cách thức kiếm tiền mới được áp dụng cho các nhà sáng tạo được chọn từ 18 tuổi trở lên, có tối thiểu 10.000 người theo dõi và đã đáp ứng các tiêu chuẩn bắt buộc khác.
Với các nhà sáng tạo có ít hơn 10.000 người theo dõi nhưng đáp ứng được các yêu cầu khác cũng có thể đăng ký tham gia chương trình bằng cách hiển thị những nội dung độc quyền (Exclusive Content) mà họ đã bán được ở các nơi khác, mặc dù TikTok cũng có thể từ chối các tài khoản này.
TikTok ra mắt chương trình kiếm tiền mới trong bối cảnh các cách thức hiện tại như TikTok Beta hay TikTok Creator Fund không đáp ứng được nhu cầu tăng thu nhập của các nhà sáng tạo, ít nhất là so với các nhà sáng tạo trên YouTube.
Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer
Khi nhiều doanh nghiệp đang nỗ lực cắt giảm chi phí trong bối cảnh khi nền kinh tế đối mặt với nhiều khó khăn, một số chiến lược thúc đẩy năng suất bán hàng và marketing dưới đây sẽ là rất cần thiết.
3 chiến lược để tăng năng suất Bán hàng và Marketing
Đối với nhiều người làm marketing, có một thứ gần như là hiển nhiên đó là để tăng doanh thu họ cần phải tăng chi phí quảng cáo và bán hàng, chi phí và doanh thu về cơ bản là luôn luôn tỷ lệ thuận với nhau.
Với tư duy này, các đội nhóm bán hàng và marketing đều tin rằng họ không thể duy trì được mức độ hiệu quả của công việc nếu cắt giảm đi chi phí (trong một khoảng thời gian nhất định).
Tuy nhiên, theo các nghiên cứu mới đây từ Bain & Co, đây là một niềm tin có hại cho doanh nghiệp, ít nhất là trong vô số các trường hợp.
Để chứng minh cho luận điểm này, số liệu chính mà các nhà nghiên cứu tập trung vào là “năng suất thương mại” (commercial productivity), chỉ số đo lường doanh thu (hoặc lợi nhuận gộp) có được trên mỗi đồng chi phí thương mại (commercial cost), sau đó đánh giá việc doanh thu sẽ tăng nhanh hơn bao nhiêu so với tốc độ tăng chi phí bán hàng và marketing.
Như đã đề cập ở trên, mục tiêu của nghiên cứu là đánh giá xem liệu niềm tin rằng muốn tăng doanh thu thì phải tăng chi phí marketing và bán hàng và chúng phải tỷ lệ thuận với nhau có đúng hay không.
Các nghiên cứu sau đó đã được thực hiện.
Để bắt đầu, các nhà nghiên cứu đã phân tích 1.254 công ty đại chúng (B2B) trong 10 ngành hàng khác nhau trên toàn thế giới từ năm 2017 đến năm 2021.
Các nhà nghiên cứu nhận thấy rằng, các doanh nghiệp trung bình có năng suất thương mại không đổi trong các năm, doanh thu của doanh nghiệp tăng cùng với tốc độ của chi phí bán hàng và marketing (tiếp thị).
Khoảng 19% doanh nghiệp đã cải thiện năng suất thương mại hơn 10% trong hầu hết các năm, nhưng hầu hết sau đó lại suy giảm sau từng năm. Chỉ 5% các doanh nghiệp có thể đạt được mức tăng năng suất thương mại trong mỗi 3 của 4 năm.
Các doanh nghiệp ưu tú này được xem là những “người đi đầu về năng suất bền vững”. Chỉ số tổng lợi tức của cổ đông (TSR) hàng năm của doanh nghiệp cao hơn đáng kể so với các công ty khác cùng ngành, với mức chênh lệch trung bình là 12%.
Nghiên cứu đã xác định rằng việc cố gắng tăng năng suất thương mại bằng cách chỉ tập trung vào chi phí (quảng cáo và marketing) có thể cản trở sự tăng trưởng của doanh nghiệp trong dài hạn.
Trong các trường hợp khác, với những doanh nghiệp chủ yếu dựa vào phần mềm marketing và bán hàng hoặc các công cụ AI (trí tuệ nhân tạo) chưa được chứng minh là ảnh hưởng đến doanh số lại chứng kiến mức chi phí tăng nhưng doanh thu lại không tăng với mức tương xứng.
Ở không ít các doanh nghiệp khác, khi doanh nghiệp đưa ra mức tăng năng suất một cách vô lý (thiếu cơ sở) vào kế hoạch kinh doanh (Business Plan) của họ mà không có lộ trình rõ ràng để đạt được chúng, hệ quả là các nhân viên bán hàng mất đi động lực, hiểu nhầm về mục tiêu và cuối cùng là nghỉ việc.
Các doanh nghiệp đi đầu hay các nhà lãnh đạo năng suất đã làm gì?
Nghiên cứu đã phát hiện ra rằng các doanh nghiệp đi đầu trong năng suất thương mại theo đuổi mục tiêu một cách có hệ thống, trong nhiều năm, dựa trên 3 đòn bẫy chính.
Thứ nhất, họ không ngừng tinh chỉnh mô hình tiếp cận thị trường (go-to-market) của mình.
Thứ hai, họ nâng cao năng suất ở nhóm tiếp cận trực tiếp với khách hàng cho mục tiêu bán hàng. Và cuối cùng, họ xác định một cách hiệu quả mức độ hỗ trợ của marketing đến hoạt động bán hàng (Sales).
Tinh chỉnh mô hình tiếp cận thị trường.
Quá trình này liên quan đến việc đánh giá cách triển hoạt động bán hàng và marketing theo cách sẽ tạo ra được mức lợi nhuận cao nhất.
Phần lớn các doanh nghiệp thường dựa vào những dữ liệu bán hàng cũ hoặc các mô hình đã lỗi thời để xác định số lượng nhân bán hàng cần thiết cũng như phân bổ cách các nhân viên này tiếp cận thị trường.
Điều các doanh nghiệp nên làm đó là phân bổ nguồn lực dựa trên chi tiêu dự kiến trong tương lai của khách hàng và chỉ định phạm vi tiếp cận của các nhân viên bán hàng.
Các doanh nghiệp hàng đầu không ngừng điều chỉnh mức độ ưu tiên theo các phân khúc khách hàng của họ và tiếp cận thị trường theo cách có lợi hơn, sử dụng cách tiếp cận có mức chi phí thấp hơn, chẳng hạn như sử dụng thương mại điện tử (eCommerce).
Nâng cao năng suất của đội nhóm bán hàng tuyến đầu.
Để nâng cao năng suất bán hàng của đội ngũ bán hàng tuyến đầu, tức những nhân viên bán hàng tiếp xúc trực tiếp với khách hàng, nhiều doanh nghiệp đã bắt đầu đào tạo và huấn luyện nhân viên của họ, đặc biệt là với những người mới.
Nghiên cứu của Bain & Co đã phát hiện ra rằng những nhân viên bán hàng có hiệu suất cao nhất thường xuyên tương tác với người quản lý của họ (và người quản lý cũng có các quy trình đánh giá nhân viên rõ ràng), những nhân viên bán hàng có hiệu suất thấp thì ngược lại, họ rất ít khi làm điều này.
Xác định mức độ hỗ trợ của Marketing đến Bán hàng.
Để có thể tối ưu hóa mức độ hỗ trợ của các hoạt động marketing đến bán hàng, doanh nghiệp phải tìm đúng công cụ hỗ trợ và dễ đo lường.
Có thể doanh nghiệp cần mở rộng số lượng phân khúc khách hàng và xây dựng nhiều đề xuất bán hàng phù hợp hơn cho từng phân khúc (Segmennt).
Điều này bao gồm việc phân khúc lại khách hàng dựa trên cơ hội và nhu cầu mới, tăng cường sử dụng các phương pháp tiếp cận thị trường với chi phí thấp hơn, đồng thời không ngừng tìm mới các nhân tài phù hợp.
Những câu hỏi đúng mà các nhà lãnh đạo cần hỏi trong thời kỳ suy thoái.
Để có thể thúc đẩy năng suất thương mại và phát triển bền vững, các nhà lãnh đạo như CFO, CMO, COO hay CEO phải tự hỏi và trả lời những câu hỏi sau:
Đâu là những yếu tố có thể thúc đẩy năng suất thương mại của doanh nghiệp?
Chúng ta cần tăng năng suất ở đâu – với mức độ nào – và khi nào?
Những chiến thuật nào có thể được sử dụng để tạo ra một con đường khả thi đến với các mục tiêu?
Cấu trúc tổ chức và mô hình kinh doanh của chúng ta có phù hợp với hiện tại không?
Ai sẽ là người chịu trách nhiệm hiện thực hóa mục tiêu lợi nhuận? và người (bộ phận) này có liên quan như thế nào đến những người (bộ phận) khác?
Việc duy trì tăng năng suất thương mại có thể mang lại lợi ích cho các doanh nghiệp trong bất kỳ ngành nào và ở bất kỳ giai đoạn nào của chu kỳ kinh tế.
Đối với các doanh nghiệp ngày nay, để tăng năng suất thương mại, các doanh nghiệp phải có một sự đánh đổi lành mạnh giữa các hành động tiết kiệm chi phí và để có được mức lợi nhuận cao nhất, sự đánh đổi sẽ giúp doanh nghiệp vượt qua các đối thủ cạnh tranh trong tương lai và phát triển bền vững hơn.
Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer
CEO của Apple, Tim Cook đã sử dụng ChatGPT và cho biết chatbot AI này sở hữu nhiều ứng dụng độc đáo và riêng biệt (Unique).
CEO Apple: ChatGPT sở hữu nhiều ứng dụng riêng biệt
Trong một cuộc phỏng vấn mới đây với ABC, CEO Appe Tim Cook thừa nhận rằng sau khi sử dụng chatbot AI ChatGPT, ông nhận thấy chatbot này sở hữu nhiều ứng dụng độc đáo, đồng thời nói thêm rằng Apple luôn theo sát ChatGPT.
Ông nói tiếp, các mô hình ngôn ngữ lớn hay các công cụ AI như ChatGPT của OpenAI và Google Bard cho thấy nhiều tiềm năng hứa hẹn, tuy nhiên, chúng cũng tiềm ẩn những rủi ro như sự thiên vị, thông tin sai lệch [và] hơn thế nữa.
CEO của Apple cũng đồng ý với quan điểm cần có những quy định rõ ràng đối với AI (trí tuệ nhân tạo), tuy nhiên cũng sẽ gặp nhiều trở ngại khi AI thực sự đang phát triển rất nhanh.
“Các quy định sẽ gặp khó khăn vì nó diễn ra quá nhanh. Vì vậy, tôi nghĩ rằng các đơn vị phát triển AI cũng phải tự điều chỉnh chính mình.”
Tuyên bố của Tim Cook được đưa ra một ngày sau bài phát biểu của ông tại hội nghị các nhà phát triển hàng năm của Apple, WWDC.
Apple đã giới thiệu các ứng dụng máy học mới cho iPhone, iPad và Mac, chẳng hạn như các mô hình AI có thể đưa ra những lời nhắc thông minh cho người dùng về các mục tạp chí tiềm năng, các công cụ AI tự động sửa lỗi và đọc chính tả, và hơn thế nữa.
Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer
Meta vừa thông báo mở rộng quảng cáo trên Reels đồng thời sẽ thanh toán dựa trên hiệu suất Reels (xem video) của nhà sáng tạo thay vì doanh thu từ quảng cáo hiển thị trên Reels.
Meta thử nghiệm cách kiếm tiền mới cho nhà sáng tạo trên Reels
Theo đó, Meta, công ty mẹ của Facebook và Instagram cho biết hiện đang cập nhật và mở rộng các thử nghiệm quảng cáo trên Reels để nhiều nhà sáng tạo nội dung hơn có thể kiếm tiền bằng cách tạo và chia sẻ Reels (video ngắn).
Nhiều nhà sáng tạo trên Facebook đã được mời tham gia chương trình thử nghiệm mới này, đồng thời các thử nghiệm tương tự cũng sẽ được Meta thử nghiệm trên Instagram trong những tuần tới.
Theo Meta, thông qua thử nghiệm, nền tảng này sẽ bắt đầu trả tiền cho nhà sáng tạo dựa trên hiệu suất của chính các Reels của họ thay vì là từ doanh thu của các quảng cáo được hiển thị trên Reels.
Điều này có nghĩa là nhà sáng tạo có thể tập trung nhiều hơn vào việc tạo ra những nội dung sáng tạo và hấp dẫn trong khi Meta sẽ tối ưu hóa trải nghiệm quảng cáo cho nhà quảng cáo và người dùng.
Nhà sáng tạo Reels sẽ kiếm tiền như thế nào.
Như MarketingTrips đã đề cập ở trên, giờ đây, Reels của nhà sáng tạo hoạt động càng tốt thì họ càng có thể kiếm được nhiều tiền (không phụ thuộc vào doanh thu từ quảng cáo hiển thị trên Reels của họ).
Trong khi các biến số liên quan đến quảng cáo như số lượt xem quảng cáo hay mức độ liên quan của quảng cáo đến nội dung vốn nằm ngoài tầm kiểm soát của các nhà sáng tạo, với mô hình trả tiền dựa trên hiệu suất, nhà sáng tạo có thể tập trung nhiều hơn vào những nội phù hợp với đối tượng người xem của họ.
Điều này cũng có nghĩa là nhà quảng cáo có thể truy cập vào nhiều khoảng không quảng cáo (ad inventory) hơn để tiếp cận nhiều người hơn.
Tất cả những nhà sáng tạo tham gia thử nghiệm sẽ tự động được thêm vào mô hình thanh toán mới và trong những tuần tới.
Tiếp đó, Meta sẽ bắt đầu thử nghiệm quảng cáo trên Instagram Reels với mô hình thanh toán tương tự, tức dựa trên hiệu suất của Reels.
Định dạng quảng cáo trong luồng (in-stream ads) trên Facebook cũng sẽ được thử nghiệm với mô hình thanh toán này (cho một số nhà sáng tạo được chọn).
Nhà sáng tạo có thể tham gia bằng cách nào?
Để đủ điều kiện tham gia, nhà sáng tạo phải sống ở một trong 52 quốc gia được chọn.
Sau khi được thêm vào thử nghiệm, để có thể bắt đầu kiếm tiền từ quảng cáo trên Reels, người sáng tạo phải hoàn tất quy trình bao gồm việc chấp nhận các điều khoản sử dụng và cung cấp chi tiết thông tin thanh toán.
Để kiểm tra xem bạn có tham gia chương trình hay không, hãy truy cập Trang tổng quan (Professional Dashboard) và chuyển đến phần Công cụ kiếm tiền (Monetization Tools).
Nếu được mời, bạn sẽ thấy phần Quảng cáo trên Reels (Ads on Reels) và bạn có thể chọn Thiết lập để bắt đầu tham gia.
Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer
Spotify vừa cho biết nền tảng này sẽ cắt giảm 200 nhân viên khỏi bộ phận podcast trong đợt sa thải nhân sự mới, khi công ty tái cấu trúc hoạt động kinh doanh sau nhiều năm đầu tư lớn.
Spotify sa thải 200 nhân viên thuộc mảng podcast
Cổ phiếu của công ty có trụ sở tại Thụy Điển đã tăng khoảng 0,5% trong giao dịch sớm, vượt trội so với thị trường.
Spotify đã chi mạnh tay để xây dựng hoạt động kinh doanh podcast của mình trong những năm gần đây, với hy vọng mức độ tương tác cao hơn do định dạng này mang lại sẽ thu hút nhiều nhà quảng cáo hơn.
Nhưng điều đó đã dẫn đến sự gia tăng chi phí hoạt động của công ty. Lãi suất tăng và lạm phát cao đồng nghĩa với việc các doanh nghiệp cũng đang giảm chi tiêu cho quảng cáo.
Đáp lại, Spotify đã cắt giảm 6% lực lượng lao động vào đầu năm 2023 và thông báo về sự ra đi của Dawn Ostroff.
Sahar Elhabashi, người đứng đầu mảng kinh doanh podcast, cho biết hôm thứ Hai rằng công ty đã “đưa ra quyết định khó khăn nhưng cần thiết để thực hiện tái tổ chức chiến lược”.
Spotify cũng cho biết họ sẽ hợp nhất các studio Parcast và Gimlet của mình thành một bộ phận Spotify Studios duy nhất.
Elhabashi cho biết giờ đây công ty sẽ thực hiện một cách tiếp cận phù hợp cho từng chương trình và người sáng tạo, so với cách tiếp cận thống nhất trước đây.
Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer
Báo cáo mới đây của WGSN cho thấy Việt Nam là thị trường đầy tiềm năng đối với các nhãn hàng. Trong đó, thương hiệu nội địa đang chiếm được cảm tình lớn từ người tiêu dùng.
Việt Nam là thị trường bán lẻ trọng điểm ở APAC
Trong báo cáo mới công bố, công ty dự báo xu hướng tiêu dùng WGSN gọi Việt Nam là thị trường tăng trưởng trọng điểm của khu vực châu Á – Thái Bình Dương (APAC) đối với các thương hiệu và nhà bán lẻ trong năm 2023.
Đơn vị này cho biết Việt Nam đã nổi lên như điểm đến ưa thích của các công ty đa quốc gia vì ít xảy ra tình trạng gián đoạn sản xuất trong thời kỳ đại dịch. Số lượng công ty khởi nghiệp cũng đã tăng gấp đôi kể từ khi bắt đầu dịch Covid-19 đến giữa năm 2022.
Cùng với đó, những cải tiến về cơ sở hạ tầng logistics góp phần thúc đẩy ngành thương mại điện tử (eCommerce) của Việt Nam ước đạt giá trị 49 tỷ USD vào năm 2025.
Theo các chuyên gia của WGSN, Việt Nam sẽ sớm trở thành nền kinh tế số phát triển nhanh nhất ở Đông Nam Á và là một trong những quốc gia có kinh tế phát triển nhanh nhất châu Á trong năm 2023, với tốc độ tăng trưởng GDP dự kiến khoảng 6,2%.
Đáng chú ý, khảo sát của McKinsey & Company hồi đầu năm cũng cho biết có đến 70% người trẻ thuộc Gen Y (những người sinh năm 1981-1996) ở Việt Nam tỏ ra lạc quan về tương lai kinh tế của đất nước. Đây là tỷ lệ cao nhất trong số các quốc gia châu Á mà đơn vị này khảo sát.
“Người tiêu dùng Việt Nam ngày càng tin tưởng vào các nhãn hiệu và sản phẩm nội địa với 76% số người thích hàng hóa mang thương hiệu ‘Made in Vietnam’ hơn là các thương hiệu nước ngoài.
Do đó, các thương hiệu cần đầu tư vào các sáng kiến nhằm tôn vinh cộng đồng địa phương và giúp kết nối với giới trẻ Việt”, bà Helen Sac, Giám đốc tư vấn khu vực APAC của WGSN, nhìn nhận.
Với việc Gen Y và Gen Z (những người sinh năm 1996-2010) chiếm gần một nửa dân số Việt Nam, các chuyên gia dự báo người tiêu dùng trong nước sẽ tiếp tục có lối sống theo hướng số hóa. Nhóm đối tượng này sẽ mong muốn có được trải nghiệm đa kênh ngày càng linh hoạt và thuận tiện, cũng như thanh toán số dễ dàng.
Tuy nhiên, trong khi chi tiêu hộ gia đình năm nay được dự báo tăng 7,3% so với cùng kỳ năm ngoái, người tiêu dùng vẫn có xu hướng tăng cường tiết kiệm trong bối cảnh nền kinh tế suy thoái.
Theo các báo cáo trước đó của WGSN, mô hình chi tiêu bán lẻ của người tiêu dùng Việt Nam bao gồm hai yếu tố đặc trưng. Một mặt là theo đuổi sự hài lòng ngay tức thì, mặt khác là nỗ lực tăng cường tiết kiệm.
“Để giữ chân người mua sắm trong năm 2023, các thương hiệu và doanh nghiệp nên kết hợp các kênh trực tiếp và trực tuyến một cách liền mạch bằng cách đầu tư vào hiện diện trực tuyến, khám phá hình thức dịch vụ ‘click and collect’ (đặt hàng trực tuyến và nhận tại cửa hàng), thanh toán tại cửa hàng cho các đơn hàng trực tuyến và nâng cấp đa dịch vụ”, báo cáo của WGSN khuyến nghị.
Người tiêu dùng Việt Nam đang đón nhận sự tiện lợi và dễ dàng của thanh toán số. Vì vậy, các thương hiệu cần bắt đầu tích hợp dịch vụ này để giảm thiểu những vấn đề phát sinh và tăng tỷ lệ chuyển đổi.
Ngoài ra, việc tăng giá trị của một thương hiệu thông qua các chương trình thành viên hoặc quan hệ đối tác khách hàng thân thiết cũng sẽ là chìa khóa để các doanh nghiệp đáp ứng mô hình chi tiêu bán lẻ (Retail) của người tiêu dùng Việt Nam.
Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer
Theo thông báo mới đây, Elon Musk chính thức thôi giữ vai trò CEO của mạng xã hội Twitter, CEO mới, Bà Yaccarino theo đó sẽ nhận nhiệm vụ sớm hơn 2 tuần so với dự kiến trước đó.
Elon Musk chính thức thôi vị trí CEO của Twitter
Elon Musk theo đó đã không còn là CEO của Twitter khi CEO mới là Bà Linda Yaccarino đã bắt đầu công việc tại Twitter từ ngày 5/6.
Điều này cũng có nghĩa là CEO mới đã nhận việc sớm hơn 2 tuần so với thông báo lần đầu của cựu CEO Elon Musk.
Elon Musk cho biết: “Vai trò của tôi sẽ chuyển sang làm chủ tịch điều hành & CTO (Giám đốc Công nghệ) của Twitter, công việc chủ yếu tập trung giám sát và phát triển sản phẩm, phần mềm và hệ thống.”
Elon Musk bổ nhiệm nhanh chóng CEO mới trong bối cảnh mạng xã hội Twitter hiện đã mất đi khoảng 70% giá trị so với khoản ngân sách 44 tỷ USD bỏ ra ban đầu để mua lại.
Theo thông tin từ báo cáo của The New York Times, doanh thu quảng cáo của Twitter tại Mỹ giảm đến 59% so với cùng kỳ năm ngoái – và hiện đang liên tục giảm.
Với CEO mới là Bà Yaccarino, người đã có hơn 20 năm kinh nghiệm trong mảng kinh doanh quảng cáo ở các tập đoàn lớn, Elon Musk kỳ vọng sẽ làm thay đổi bối cảnh kinh doanh ảm đạm hiện tại của Twitter.
Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer
Có một nghịch lý là ChatGPT đang tạo ra rất nhiều dịch vụ có giá trị cao, nhưng gần như không có chi phí và đặc biệt là có chi phí cận biên bằng không.
Những nghịch lý kinh tế xoay quanh sự ra đời của ChatGPT
Trong những năm gần đây, sự phát triển của trí tuệ nhân tạo (AI) đã dẫn đến một làn sóng công nghệ mới đang có tác động mang tính cách mạng làm thay đổi phương thức sống và làm việc của con người.
Một trong những dấu ấn quan trọng nhất của AI là sự phát triển của chatbot – một mô hình ngôn ngữ sử dụng máy học để tạo ra văn bản tương tác với con người, điển hình là ChatGPT do công ty khởi nghiệp OpenAI phát triển đã thu hút số lượng lớn người dùng.
Ra đời từ tháng 11/2022, Chat GPT chỉ trong một thời gian ngắn đã nhanh chóng gây sốt trên toàn cầu với hơn một triệu người đăng kí chỉ sau một tuần ra mắt, và tính đến ngày cuối tháng 1/2023 đã cán mốc hơn 100 triệu người dùng.
Trong khi đó, theo thống kê của Sensor Tower, Facebook phải mất gần 2 năm, nền tảng chia sẻ video ngắn TikTok cần 9 tháng, Instagram mất tới 2,5 năm, còn ứng dụng dịch Google Translate phải mất hơn 6 năm mới đạt con số 100 triệu người dùng.
ChatGPT cũng như sự phát triển của trí tuệ nhân tạo (AI) đã dẫn đến một làn sóng công nghệ mới đang có tác động mang tính cách mạng làm thay đổi phương thức sống và làm việc của con người.
Tác động lớn nhất của trí tuệ nhân tạo sẽ là giúp con người thực hiện những khám phá mà con người không thể tự mình thực hiện được.
ChatGPT sử dụng thông tin mà con người “có” để tạo thông tin mà con người rất khó có thể có được, đặc biệt là trong lĩnh vực dự đoán. Trên phương diện “kinh tế”, ChatGPT có tác động như thế nào?
ChatGPT có mang lại “cuộc cách mạng hóa nền kinh tế truyền thống”?
Trong nhiều lĩnh vực công việc khác nhau, ChatGPT có thể giúp mở rộng chuyên môn và khả năng của những người không phải là chuyên gia, chẳng hạn các nhà kinh tế có ít kiến thức về các công cụ máy học phức tạp, có được một công cụ tìm kiếm tài liệu, tức là có thể mang máy học đến với các kinh tế.
Để xác định mức đóng góp cụ thể của AI vào GDP, cần xem xét nhiều yếu tố, bao gồm tốc độ phát triển của công nghệ AI, đầu tư và sự áp dụng của công nghệ này trong các ngành công nghiệp khác nhau, sự phát triển của hệ thống giáo dục và đào tạo AI và chính sách hỗ trợ của chính phủ.
Mặc dù chưa có các nghiên cứu đầy đủ về đóng góp kinh tế của AI, một báo cáo của Goldman Sachs được công bố vào tháng 4 năm 2023, cho thấy rằng AI có thể tăng GDP toàn cầu thêm 7% trong thập kỷ tới.
Bất chấp còn có những do dự và lúng túng từ phía các doanh nghiệp, công nghệ AI được dự đoán sẽ tạo ra gần 16.000 tỷ USD cho nền kinh tế thế giới vào năm 2030.
Đó cũng là lý do nhiều quốc gia trên thế giới đang tăng cường mức độ chi tiêu cho công nghệ này. Một số nhà kinh tế cũng nhận định rằng nếu có chính sách ứng dụng, phát triển công nghệ AI, Việt Nam và các quốc gia Đông Nam Á sẽ thu về những món lợi trị giá hàng tỷ USD từ trí tuệ nhân tạo.
Tại Đông Nam Á, công nghệ AI được dự đoán sẽ đóng góp 1.000 tỷ USD vào GDP của các quốc gia trong khu vực vào năm 2030. Trong đó, AI được kỳ vọng đóng góp 92 tỷ USD cho GDP Philippines, đối với Indonesia, công nghệ AI có thể bổ sung 366 tỷ USD vào GDP nước này trong thập kỷ tới.
Trong những năm gần đây, AI đã có những đóng góp đáng kể vào nền kinh tế Việt Nam thông qua các lĩnh vực như dịch vụ tài chính, bán lẻ, sản xuất và nông nghiệp. Nếu phát triển một cách tối ưu, AI có thể đóng góp một phần lớn vào GDP Việt Nam trong những năm tới, tạo ra sự tăng trưởng nhanh chóng và hiệu quả trong nhiều lĩnh vực kinh tế.
Tuy nhiên, đằng sau những con số “bằng tiền” ấy, trí tuệ nhân tạo mà cụ thể là ChatGPT đang tạo ra những phúc lợi mà kinh tế học truyền thống đã không tính đến, cũng giống như các dịch vụ thông tin và dữ liệu miễn phí Wikipedia, dịch vụ email như Gmail, bản đồ kỹ thuật số như Google Maps, và mạng xã hội TikTok.
Các sản phẩm này đều có giá trị kinh tế khổng lồ, các dịch vụ mang lại phúc lợi rất lớn, tuy nhiên về cơ bản lại không được tính trong hệ thống tài khoản quốc gia.
Có một nghịch lý là ChatGPT đang tạo ra rất nhiều dịch vụ có giá trị cao, nhưng gần như không có chi phí và đặc biệt là có chi phí cận biên bằng không. Trong nền kinh tế số (Digital Economy), dữ liệu đang ngày càng trở thành nhân tố sản xuất quan trọng, tuy nhiên rất khó để đo lường chính xác giá trị của tài sản vô hình ngoài việc xác định sự tồn tại của chúng.
Do vậy, một thách thức đặt ra mang tính cách mạng đối với các mô hình kinh tế truyền thống hiện nay là làm thế nào để kết hợp được yếu tố “dữ liệu” với các yếu tố truyền thống, đặc biệt là vốn nhân lực, vốn con người, để đánh giá được đầy đủ và chính xác hơn các nguồn tăng trưởng và đóng góp của từng nhân tố.
ChatGPT có giải được bài toán “”Nghịch lý năng suất Solow”?
Paul Krugman đã nhận định rằng năng suất không phải là tất cả, nhưng về lâu dài nó hầu như là tất cả đối với khả năng cải thiện mức sống của một quốc gia theo thời gian.
Mặc dù tăng trưởng năng suất được coi là yếu tố quyết định để các quốc gia trở nên giàu có và thịnh vượng hơn, nhưng điều không may mắn là quá trình này đã trở nên ảm đạm ở Mỹ và hầu hết các nền kinh tế tiên tiến (Vương quốc Anh và Nhật Bản là những trường hợp cụ thể) từ những thập niên 1980.
Năm 1987, Robert Solow, người đã đoạt giải Nobel năm đó nhờ giải thích cách thức đổi mới thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, đã có câu nói nổi tiếng: “Bạn có thể thấy thời đại máy tính ở mọi nơi, ngoại trừ trong các số liệu thống kê về năng suất”.
“Nghịch lý năng suất Solow” này đề cập đến hiện tượng trong những năm 1980 và 1990, mặc dù có sự tiến bộ nhanh chóng của công nghệ thông tin, tăng trưởng năng suất ở Mỹ là không đáng kể.
Các cuộc thảo luận và tranh luận giữa các nhà kinh tế về nghịch lý này liệu có xảy ra với AI hay không cho thấy đã có những lo lắng rằng các nhà phát triển AI đang có những nhận định và đánh giá hơi lạc quan về công nghệ trí tuệ nhân tạo.
Hai năm trước, người ta đã dự đoán sự bùng nổ năng suất từ AI và các công nghệ kỹ thuật số khác, và ngày nay người ta lại tiếp tục lạc quan về tác động của các mô hình AI mới. Phần lớn sự lạc quan này đến từ niềm tin rằng các doanh nghiệp có thể hưởng lợi rất nhiều từ việc sử dụng AI như ChatGPT để mở rộng dịch vụ và cải thiện năng suất lao động.
Với những nền kinh tế có tốc độ phát triển AI như hiện nay thì phần lớn nhân lực sẽ là công nhân tri thức và công nhân thông tin. Câu hỏi đặt ra là vậy thì khi nào thì mức tăng năng suất sẽ được cải thiện cơ bản?
Câu trả lời mang tính “nguyên lý” cho đến nay là điều đó phụ thuộc vào việc liệu chúng ta có thể tìm ra cách sử dụng công nghệ mới nhất và khác với trong quá trình chuyển đổi doanh nghiệp trong thời đại máy tính trước đây hay không.
Phần lớn các nhà kinh tế hiện nay cho rằng, cần sự kiên nhẫn khi số liệu thống kê hiện tại vẫn cho thấy trí tuệ nhân tạo và các công nghệ kỹ thuật số khác đang có tác động khá chậm một cách đáng ngạc nhiên trong việc cải thiện tăng trưởng kinh tế.
Lý do là cho đến nay, các công ty mới chỉ sử dụng AI để thực hiện các nhiệm vụ “tốt hơn một chút” mà thôi.
Tuy nhiên, với hy vọng ChatGPT và các chatbot AI khác hiện nay chủ yếu là tự động hóa công việc nhận thức, nó khác với các yêu cầu đòi hỏi đầu tư vào thiết bị và cơ sở hạ tầng, nên việc tăng năng suất được kỳ vọng có thể diễn ra nhanh hơn nhiều so với cuộc cách mạng công nghệ thông tin trước đây.
Mặc dù phán quyết về thời điểm gia tăng năng suất sẽ xảy ra với AI vẫn chưa chắc chắn, nhưng một số nhà kinh tế đã dự đoán rằng có thể thấy năng suất sẽ gia tăng mạnh hơn vào cuối năm 2024.
GS. Trần Thọ Đạt,Chủ tịch Hội đồng Khoa học và Đào tạo
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân
Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer
Vision Pro của Apple được trang bị công nghệ EyeSight cho phép nhìn không gian xung quanh. Đây là tai nghe thực tế hỗn hợp (mixed reality), kết hợp công nghệ thực tế ảo VR và thực tế tăng cường AR.
Apple ra mắt Vision Pro dựa trên công nghệ thực tế ảo (VR)
Tại sự kiện WWDC 2023 diễn ra rạng sáng nay ở California, Apple giới thiệu mẫu kính Vision Pro. Đây là tai nghe thực tế hỗn hợp (mixed reality), kết hợp công nghệ thực tế ảo VR và thực tế tăng cường AR.
Khi đeo kính, người dùng sẽ thấy giao diện hệ điều hành visionOS hiển thị trong không gian. Kính tích hợp hệ thống 12 camera, 5 cảm biến và 6 micro để nhận dạng khi người dùng tương tác với nội dung bằng giọng nói và cử chỉ tay, như sử dụng ngón tay để cuộn trang web. Kính cũng theo dõi chuyển động của mắt để biết người dùng đang nhìn vào nội dung nào.
Do đó, người đeo kính có thể xem phim, chơi game, tham gia họp trực tuyến, chụp ảnh và quay video cũng như nhiều hoạt động khác thông qua màn hình độ phân giải cao. Theo Apple, mỗi bên mắt kính sử dụng màn hình micro LED 23 triệu điểm ảnh, mật độ cao hơn TV 4K.
“Vision Pro có thể xem là một loại máy tính mới giúp tăng cường trải nghiệm thực tế bằng cách kết hợp nhuần nhuyễn thế giới thực với thế giới kỹ thuật số”, CEO Apple Tim Cook nói.
“Bạn có thể nhìn, nghe và tương tác với nội dung kỹ thuật số như đang trong không gian vật lý. Bạn không còn bị giới hạn bởi màn hình và môi trường xung quanh trở thành một khung hình vô tận”.
Apple Vision Pro VR được thiết kế hiện đại và tiện dụng hơn.
Apple Vision Pro được thiết kế hiện đại và tiện dụng hơn.
Vision Pro được làm bằng khung nhôm, mặt trước bằng kính và phía sau là đệm vải. Trái với các sản phẩm VR phổ biến khác như HTC Vive hay Meta Quest, kính Apple không đi kèm bộ điều khiển cầm tay. Thay vào đó, người dùng vận hành thiết bị bằng tay, mắt và giọng nói.
Trong khi Vive và Quest được đeo bằng nhiều dây đai và qua đầu, Vision Pro sử dụng dây đeo duy nhất, giúp giảm cảm giác vướng víu. Dù vậy, theo The Verge, thiết kế này có thể khiến phần lớn trọng lượng kính đè xuống phần mũi gây khó chịu.
Apple chưa công bố trọng lượng Vision Pro, nhưng theo Techradar, sản phẩm sẽ nhẹ hơn nhiều so với đối thủ từ Meta, Sony hay HTC nhờ phần pin được làm rời thay vì tích hợp vào thân máy. Điểm trừ là nó không thuận tiện khi di chuyển.
EyeSight – tính năng điểm nhấn của Vision Pro.
Khác với hầu hết kính VR khiến người đeo không nhìn thấy và tách biệt với môi trường bên ngoài, Vision Pro duy trì kết nối với thế giới thật thông qua tính năng EyeSight. Khi có người ở gần, chức năng này sẽ thông báo và đưa họ vào tầm nhìn của người dùng.
“Đôi mắt là chỉ báo quan trọng về kết nối và cảm xúc của mỗi người”, Alan Dye, Phó chủ tịch mảng giao diện con người tại Apple, nói. “EyeSight không chỉ hiển thị đôi mắt của bạn với người đối diện. Nó còn cung cấp tín hiệu quan trọng cho người khác về những gì bạn đang tập trung”.
Theo Business Insider, phải tới 2024, kính mới có mặt trên thị trường nên hiện còn quá sớm để đánh giá tính hiệu quả của EyeSight. Tuy nhiên, trang này nhận định việc cho phép người dùng nhận biết môi trường xung quanh là bước đi đúng hướng, khác biệt với đối thủ.
Trải nghiệm tốt hơn.
Vision Pro trang bị chip M2 để xử lý tác vụ về thị giác máy tính, đồ họa, cùng một chip mới là R1 xử lý ảnh và âm thanh đầu vào. Sản phẩm chạy hệ điều hành visionOS hoàn toàn mới, được Apple gọi là “nền tảng đầu tiên được thiết kế cho điện toán không gian”, có thể chạy hầu hết ứng dụng iOS và iPadOS hiện tại, giúp người dùng không bị giới hạn mới khi trải nghiệm – điểm yếu của hầu hết thiết bị VR và AR trên thị trường.
Bên cạnh đó, kính được thiết kế để hoạt động với máy Mac như một màn hình bổ sung. Cùng với khả năng kết nối thiết bị ngoại vi như Magic Keyboard và Magic Trackpad, người dùng có thể thiết lập không gian làm việc trên Vision Pro với vai trò một màn hình 4K di động.
Kính cũng có thể theo dõi chuyển động của mắt qua hệ thống camera hồng ngoại để nhận biết người dùng đang muốn nhìn, tương tác với nội dung nào – điều hầu hết sản phẩm đối thủ chưa có.
Một điểm yếu của kính VR và AR hiện nay là cảm giác chóng mặt sau một thời gian đeo. Apple cho biết đã cải thiện vấn đề này với R1 – chip mới do hãng sản xuất, được thiết kế để loại bỏ độ trễ, truyền hình ảnh đến màn hình “nhanh hơn tám lần so với đối thủ và hơn cả cái chớp mắt”.
Sử dụng Vision Pro thế nào.
Tại sự kiện, Apple không mô tả chi tiết cách sử dụng Vision Pro. Chance Miller, phóng viên của 9to5mac và là một trong những người trải nghiệm sớm, cho biết sau khi đeo, kính sẽ thực hiện quá trình thiết lập gọi là Spatial Audio, gồm quét khuôn mặt, tinh chỉnh âm thanh hai bên tai. Với người dùng có các vấn đề về thị lực, kính tự động kiểm tra để chỉnh màn hình hiển thị sao cho chuẩn xác nhất.
Sau khi khởi động, màn hình hiển thị giao diện chính Home View với các ứng dụng có thiết kế icon giống của iOS, nhưng được làm tròn và hiển thị dạng tổ ong như Apple Watch.
Các thao tác như liếc mắt hay cử chỉ ngón tay như chọn, phóng to, thu nhỏ, vuốt được mô phỏng chính xác, dù hơi có độ trễ. Nếu chọn sai, có thể điều hướng trở lại màn hình chính bằng cách nhấn nút Digital Crown trên thân kính.
Miller đã xem phiên bản 3D của Avatar 2 và đánh giá “tốt hơn mong đợi, cảm giác như đang xem trong một rạp hát chuyên dụng tại nhà”. Ông đã xem hơn 30 phút nhưng không có cảm giác chóng mặt như khi dùng các mẫu kính VR và AR khác. Chất lượng âm thanh trên sản phẩm cũng “tốt hơn AirPods”, dù không nhắc đến phiên bản nào.
Ai sẽ mua Vision Pro mới của Apple?
Vision Pro sẽ có giá 3.500 USD, ngang với HoloLens 2 của Microsoft và tương đương một chiếc MacBook Pro cấu hình mạnh. Apple cho biết sản phẩm đóng vai trò song hành cùng máy Mac và iPhone trong tương lai, thay vì cạnh tranh trực tiếp.
Independent dẫn nguồn tin nội bộ rằng Apple đặt mục tiêu “khiêm tốn” với 150.000-250.000 chiếc Vision Pro được bán trong năm đầu (từ 2024), tức doanh thu 525 triệu USD – nhỏ bé nếu so với iPhone nhưng vẫn vượt trội đối thủ.
Trước đó, theo hãng nghiên cứu TrendForce, Apple có thể sẽ sản xuất không quá 300.000 kính thông minh năm nay, thay vì mục tiêu hàng triệu trước đó. Lý do là chi phí cao, khó sản xuất, cũng như sản phẩm giai đoạn đầu sẽ chủ yếu hướng tới nhà phát triển hơn là người dùng phổ thông.
Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer
Bên cạnh TikTok với 150 triệu người dùng hàng tháng, nhiều ứng dụng Trung Quốc như CapCut, Temu hay Lemon8 cũng đạt hàng triệu lượt tải.
Trung Quốc sở hữu nhiều ứng dụng phổ biến toàn cầu
Những năm gần đây, TikTok nổi lên như một ứng dụng được giới trẻ toàn cầu, trong đó có Mỹ, ưa chuộng.
Tuy nhiên, nền tảng video của ByteDance cũng trở thành tâm điểm của các nhà lập pháp và quan chức tình báo Mỹ vì lo ngại nó có thể được sử dụng để theo dõi người dùng Mỹ. CEO TikTokShou Zi Chew đã phải điều trần trước quốc hội nước này hồi tháng 3, trong khi một số bang đang xem xét cấm ứng dụng.
Dù vậy, không chỉ TikTok, các ứng dụng khác của Trung Quốc cũng đang trở nên phổ biến rộng rãi ở nước này. Theo Insider Intelligence, ứng dụng mua sắm Temu, thuộc sở hữu của PDD Holdings, đứng thứ hai trên App Store Mỹ tính đến cuối tháng 5, vượt những cái tên của Mỹ như Kohl’s, Wayfair, Nordstrom.
Trong khi đó, TikTok và CapCut, đều do ByteDance phát triển, giữ vị trí thứ tư và thứ năm trên bảng xếp hạng App Store của Mỹ. Shein, thương hiệu thời trang nhanh Trung Quốc, giữ vị trí thứ mười bốn.
Lemon8, nền tảng tương tự Pinterest và Instagram và cũng thuộc ByteDance, đạt gần một triệu lượt tải chỉ trong một tuần cuối tháng 3 đầu tháng 4, ngay sau khi ông Chew điều trần. Ứng dụng hiện có 1,8 triệu người dùng hàng tháng tại Mỹ.
Số người tải về các ứng dụng Trung Quốc cũng đang tăng mạnh ở Mỹ. Từ khi ra mắt, TikTok đạt 415 triệu lượt tải xuống, CapCut có 99 triệu lượt còn Temu 67 triệu lượt, theo Apptopia.
Shein thậm chí vượt TikTok với 855 triệu lượt tải, dù số lượng người dùng hoạt động hàng tháng ít hơn với 22 triệu tài khoản.
Ứng dụng Trung Quốc nở rộ tại Mỹ diễn ra giữa bối cảnh chính quyền nước này đang có động thái ngăn chặn TikTok với lý do nền tảng có thể chuyển dữ liệu của người dùng Mỹ về Trung Quốc, từ đó gây nguy hiểm đến an ninh quốc gia.
“Một ứng dụng có một nghìn hoặc một triệu người dùng Mỹ không gây rủi ro an ninh như một ứng dụng có hàng chục triệu người dùng”, Lindsay Gorman, thành viên cấp cao của Liên minh Bảo mật (ASD) thuộc quỹ German Marshall Fund, nói.
Theo bà Gorman, khi Mỹ nhắm mục tiêu đến TikTok, nước này cũng cần đưa ra một khuôn khổ chung về cách đánh giá rủi ro đối với ứng dụng Trung Quốc có nhiều người dùng.
Các yếu tố cần được xét tới là loại ứng dụng, khả năng lan truyền và truyền bá thông tin cùng một số chi tiết khác.
Dựa trên tiêu chí đó, những cái tên như CapCut gây rủi ro thấp hơn cả, do ứng dụng có mục đích chỉnh là sửa video. Đối với nền tảng thương mại điện tử như Temu hoặc Shein, nguy cơ phát tán thông tin sai lệch có thể không cao như với mạng xã hội.
Nhưng Mỹ vẫn có lý do lo ngại. Theo một báo cáo gần đây của CNN, nền tảng “chị em” của Temu là Pinduoduo – ứng dụng mua sắm phổ biến ở Trung Quốc – có chứa phần mềm độc hại. Ủy ban Đánh giá Kinh tế và An ninh Mỹ – Trung Quốc sau đó trích dẫn báo cáo này khi đánh giá rủi ro dữ liệu của Temu.
Trong khi đó, Shein cũng bị Shut Down Shein – nhóm tự giới thiệu là liên minh gồm các cá nhân, thương hiệu Mỹ và tổ chức nhân quyền – tố đã thu thập dữ liệu của người dùng trái phép, dù không đưa ra bằng chứng.
“Tôi hiểu người Mỹ thích sự tiện lợi từ thương mại điện tử và các công cụ sáng tạo của Trung Quốc, nhưng mọi người cần tính đến thực tế rằng những công ty đó cuối cùng phải tuân theo yêu cầu từ phía Trung Quốc”, Chủ tịch Ủy ban Tình báo Thượng viện Mỹ Mark Warner nói.
Hồi tháng 3, ông Warner và thượng nghị sĩ Cộng hòa John Thune đã soạn một dự luật có tên Hạn chế mối đe dọa bảo mật gây rủi ro công nghệ thông tin và truyền thông (RESTRICT).
Dự luật sẽ “giải quyết toàn diện mối đe dọa từ công nghệ của các đối thủ nước ngoài, như TikTok”, theo thông cáo của văn phòng ông Warner ngày 6/3.
Andy Yen, CEO công ty dịch vụ email và VPN Proton, cho rằng những nền tảng như TikTok cần bị giới hạn tại Mỹ. Tuy nhiên, các điều khoản của RESTRICT quá rộng để thực hiện mà không gây hậu quả.
Theo Yen, giải pháp để tạo ra thị trường kỹ thuật số cạnh tranh ở Mỹ không phải là cho phép các công ty Trung Quốc hoạt động tràn lan, mà cần sân chơi bình đẳng, cho phép doanh nghiệp Mỹ, châu Âu hoặc bất kỳ nơi nào khác cạnh tranh công bằng ở Mỹ.
Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer
Một trong những bất bình lớn nhất của nhiều cấp trên với Gen Z tại Mỹ (ở mức 39%) là chuyên môn cứng không đạt yêu cầu. Theo tờ New York Post, 21% các sếp tin rằng quyền lợi cũng là một vấn đề.
Nghiên cứu: Gen Z bị sa thải vì thiếu chuyên môn cứng và thái độ hợp tác
Không giống các thế hệ trước, Gen Z ưu tiên sự cân bằng giữa công việc và cuộc sống hơn mọi thứ.
Trong cuộc khảo sát với 1.300 quản lý, các nhà nghiên cứu nhận thấy cứ 4 người thì có 3 người đồng ý rằng Gen Z khó làm việc hơn so với các thế hệ khác.
65% nhà quản lý sẵn sàng đưa nhóm này lên đầu danh sách sa thải và 12% từng đuổi việc nhân viên trẻ chưa đầy một tuần sau ngày bắt đầu, theo Yahoo News.
Một trong những bất bình lớn nhất của nhiều cấp trên với thế hệ Z tại Mỹ (ở mức 39%) là chuyên môn cứng (Technical Skills) không đạt yêu cầu. Tờ New York Post, lại cho rằng 21% các sếp tin rằng quyền lợi cũng là một vấn đề lớn.
Không ít nhân sự Gen Z đã làm rõ mục đích duy nhất của họ tại công ty là hoàn thành nhiệm vụ và ra về. Thay vì xây dựng sự gắn bó với vai trò của mình, họ ưu tiên mức độ cân bằng giữa công việc và cuộc sống hơn mọi thứ.
Các chuyên gia cho rằng suy nghĩ đó được hình thành ở những người sinh từ năm 1996 trở về sau và thậm chí cả Millennials (Gen Y) là vì 2 thế hệ này bị ảnh hưởng nhiều nhất bởi các biến động lớn như khủng hoảng chi phí sinh hoạt, biến đổi khí hậu, đại dịch Covid-19, làn sóng sa thải diện rộng.
“Không nhất thiết các thế hệ phải có chung thái độ về công việc. Với Gen Z và Gen Y, họ đã chứng kiến hai cuộc suy thoái liên tiếp.
Đây là một trải nghiệm rất khác trên thị trường lao động so với những gì cha mẹ và ông bà của họ gặp phải”, Sarah Damaske, phó giáo sư tại Đại học Pennsylvania, nói với Vox.
Theo tờ Insider, những lao động trẻ không lười biếng, đòi hỏi đặc quyền hay thích chểnh mảng. Họ chỉ đơn giản là chọn từ chối một số thông lệ mà các thế hệ trước buộc phải chấp nhận.
Tháng 2/2023, Deloitte và PwC, hai gã khổng lồ trong ngành kiểm toán toàn cầu, thông báo họ đang cung cấp các biện pháp hỗ trợ cho những nhân viên mới ở Anh để nhóm này sớm thích nghi với văn hóa công sở.
Các nhà tâm lý chỉ ra rằng những khó khăn tại nơi làm việc thường đi đôi với sự rối loạn bên trong. Từ năm 2005 đến năm 2017, lúc Gen Z bước sang tuổi 20, tỷ lệ lo lắng và trầm cảm ở thanh niên Mỹ đã tăng 63%.
Đặc biệt khi Covid-19 cướp đi “thời điểm vàng” để sinh viên mới ra trường phát triển sự nghiệp, phần lớn nhóm này bị rơi vào trạng thái mất cân bằng và cảm thấy hoang mang về tương lai phía trước.
Sự cô đơn cộng với thiếu hụt kỹ năng dẫn đến nhân sự Gen Z dễ mất việc trước khi họ nhận được khoản lương đầu tiên.
Một số chuyên gia nhận xét thế hệ Alpha (sinh từ sau năm 2010) có thể bị tác động kéo dài bởi “đại dịch kiệt sức” từ Gen Z. Điều này được coi là tác dụng phụ của tham vọng tạo ra sự thay đổi trong công việc và xã hội.
Dan Schawbel, quản lý đối tác tại Cơ quan nghiên cứu Workplace Intelligence, cho biết Gen Alpha thậm chí sẽ đòi hỏi nhiều hơn từ người sử dụng lao động so với Gen Z và thế hệ Millennials.
“Nhóm nhân khẩu học này sẽ không làm việc cho một công ty không phù hợp với các giá trị của họ và không đưa ra sản phẩm có lợi cho xã hội.
Bên cạnh đó, thế hệ Alpha sẽ chọn nơi nào có lịch trình linh hoạt, chính sách hỗ trợ sức khỏe, thể chất, tinh thần dù mức lương thấp còn hơn là thu nhập cao nhưng làm đến cạn kiệt năng lượng”, Schawbel nhận định.
Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer
Theo thông tin mới đây từ Nikkei Asia, đại diện Tập đoàn LEGO cho biết, trong bối cảnh các nhà máy liên tục chuyển sang thị trường Việt Nam nhằm đa dạng hoá chuỗi cung, các doanh nghiệp phải ngừng đặt yếu tố lợi nhuận lên trên yếu tố môi trường.
LEGO Việt Nam: Doanh nghiệp phải ngừng đặt mục tiêu lợi nhuận lên trên yếu tố môi trường
Phát biểu tại một diễn đàn về môi trường, xã hội và quản trị (ESG) tại Thành phố Hồ Chí Minh mới đây, Phó chủ tịch kiêm Tổng giám đốc Tập đoàn LEGO Việt Nam, ông Preben Elnef cho biết ông không đồng tình với việc các doanh nghiệp ấn định kết quả kinh doanh trong ngắn hạn chỉ vì cho rằng họ phải chịu chi phí sản xuất xanh,
“Đã có rất nhiều doanh nghiệp tập trung vào việc tìm một nơi sản xuất rẻ để có thể bán sản phẩm với lợi nhuận cao nhất. Nhưng chúng ta phải thay đổi điều đó”, vị lãnh đạo Tập đoàn LEGO Việt Nam nhấn mạnh.
Theo đó, công ty hiện đang xây dựng một nhà máy trung hòa carbon trị giá 1 tỷ USD ở Việt Nam. Ông Elnef chia sẻ, khoản đầu tư trị giá 1 tỷ USD phụ thuộc rất nhiều vào mức độ bảo vệ môi trường và LEGO đã chọn tỉnh Bình Dương dựa trên các điều kiện về xử lý rác thải, tiết kiệm nước và năng lượng mặt trời.
“Chúng ta cần phải hết sức nghiêm túc về các mục tiêu môi trường của mình”, ông Elnef cho hay. Đồng thời, ông cho biết thêm rằng công ty “sẽ theo dõi” tiến độ đáp ứng các mục tiêu liên quan đến môi trường.
Ngoài ra, vị lãnh đạo Tập đoàn LEGO Việt Nam thông tin, công ty cũng đang tìm cách thu hút và hỗ trợ cho người lao động.
Ông cho biết, những người lao động nhập cư thường sống trong những ngôi nhà tạm bợ hoặc gặp khó khăn trong việc đăng ký cho trẻ em đi học, và Lego đã đề nghị địa phương hỗ trợ cho những đối tượng này.
Theo ông Preben Elnef, cách tiếp cận của Lego ban đầu đã gây ngạc nhiên.
“Rất nhiều người cũng như một số lãnh đạo Việt Nam đã cảm thấy ngạc nhiên khi LEGO đề xuất các thoả thuận liên quan đến năng lượng tái tạo và hỗ trợ người lao động thay vì giảm thuế”, ông Preben Elnef cho hay.
Bởi lẽ, họ đã quen với việc các công ty đưa ra các thoả thuận đầu tư bằng việc đề xuất những thỏa thuận ưu đãi thuế đặc trong 10 – 20 năm hoặc một số hình thức hỗ trợ tài chính khác “, ông nói.
Tính đến năm 2022, doanh thu hàng năm của Tập đoàn LEGO đạt mức gần 10 tỷ USD.
Nguồn: Nikkei Asia
Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer
Google vừa tung bản cập nhật AI dành cho Gmail trên các thiết bị di động, hứa hẹn rút ngắn đáng kể thời gian thực hiện tác vụ tìm kiếm trong ứng dụng.
Google thêm tính năng AI mới vào Gmail
Theo đó, việc tìm kiếm trong ứng dụng, chẳng hạn như một email cũ, địa chỉ liên hệ hay những con số cụ thể đã trở nên dễ dàng hơn rất nhiều.
Gã khổng lồ tìm kiếm cho biết, trong khoảng 2 tuần tới, ứng dụng Gmail sẽ xuất hiện mục mới có tên “Kết quả tìm kiếm hàng đầu” (top result) khi người dùng cuối thực hiện tác vụ tìm kiếm trong Hộp thư (Inbox).
Mục mới này chạy trên nền tảng máy học của Google, có khả năng phân tích các từ khoá tìm kiếm, những email gần đây nhất hoặc “các yếu tố tương đương” để xác định tin nhắn nào phù hợp nhất với truy vấn mà khách hàng đưa ra.
Đây là động thái mới nhất trong nỗ lực thay đổi chiến lược dành cho dịch vụ email, bao gồm một chính sách cập nhật gây tranh cãi được đưa ra vào tháng trước, về việc Google có thể xoá bỏ hoàn toàn dữ liệu và nội dung của những tài khoản không có hoạt động trong hai năm trở lại đây.
Trong tháng 2, Google đã hoàn thành việc phát hành giao diện người dùng mới của ứng dụng Gmail, nhấn mạnh vào việc tái thiết kế và trọng tâm là các công cụ cải thiện năng suất.
Điều này phù hợp với chiến lược chung của CEO Sundar Pichai, nhằm tiết kiệm chi phí hoạt động, đưa gã khổng lồ tìm kiếm cải thiện “20% năng suất”.
Trong cuộc họp báo cáo kết quả kinh doanh mới nhất của Alphabet, các giám đốc điều hành công ty đã thảo luận kế hoạch phân bổ nguồn lực cho những lĩnh vực bao gồm AI và tìm kiếm.
Trong bài đăng trên blog, Google nói rằng tính năng cập nhật mới “được nhiều người dùng yêu cầu” và sẽ phát hành có sẵn cho tất cả chủ tài khoản và khách hàng.
Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer
Cổ đông của Alphabet yêu cầu Google minh bạch về AI (trí tuệ nhân tạo) và các thuật toán đề xuất nội dung, nhưng công ty này từ chối.
Google từ chối việc minh bạch hoá thuật toán đề xuất nội dung
Cổ đông của Alphabet yêu cầu Google minh bạch về AI (trí tuệ nhân tạo) và các thuật toán đề xuất nội dung, nhưng công ty này từ chối.
Yêu cầu được quỹ Trillium Asset Management, cổ đông của Alphabet, đưa ra tại cuộc họp thường niên năm 2023 do công ty mẹ của Google tổ chức tuần này.
Trillium nêu ra những lo ngại về cách thuật toáncó thể dẫn đến những kết quả nguy hiểm trong những lĩnh vực như tư pháp, y học.
Ví dụ năm 2019, một điều tra từng cho thấy thuật toán đề xuất nội dung trên YouTube của Google đã làm thúc đẩy tính cực đoan liên quan đến một cuộc bạo động tại New Zealand.
“Trách nhiệm giải trình và tính minh bạch trong trí tuệ nhân tạo là điều cần thiết để biết liệu công nghệ này có an toàn cho xã hội”, Trillium lập luận.
Cổ đông này đang sở hữu 135 triệu USD cổ phiếu của công ty. Năm ngoái, quỹ cũng đưa ra yêu cầu tương tự với Alphabet, trước khi cơn sốt ChatGPT nổi lên.
Tuy nhiên, Google phản đối yêu cầu trên. Hãng khẳng định đã tiết lộ thông tin về thuật toán của mình một cách công khai trên website, như thông tin về cách thuật toán YouTube sắp xếp nội dung.
Tuy nhiên, với các thuật toán độc quyền, đây là nền tảng cho các hoạt động kinh doanh của công ty và ngoài ra, chúng có thể bị lạm dụng nếu rơi vào tay kẻ xấu.
“Bất kỳ việc xem xét nào về tính minh bạch của thuật toán cũng cần tính đến các rủi ro nghiêm trọng mà thông tin có thể bị khai thác bởi kẻ xấu, quyền riêng tư của người dùng có thể bị ảnh hưởng và thông tin nhạy cảm về mặt thương mại có thể bị lộ”, Google giải thích lý do phản đối.
CEO Google Sundar Pichai đánh giá AI sẽ có khả năng tác động đến mọi lĩnh vực, bao gồm y tế và công ty đang tiếp cận AI một cách có trách nhiệm.
“Chúng tôi đã trải qua 7 năm trong hành trình của một công ty AI-first (ưu tiên AI) và đã làm việc trong thời gian dài để đưa AI vào các sản phẩm của mình, để làm cho chúng trở nên hữu ích hơn”, Pichai nói.
Yêu cầu minh bạch được Trillium được nêu ra trong bối cảnh các công nghệ AI gây nhiều lo ngại với giới công nghệ.
Hồi tháng 5, một trong những người tiên phong về AI Geoffrey Hinton đã rời Google và đưa ra cảnh báo công khai về sự nguy hiểm của các chatbot dựa trên AI thế hệ mới.
Trước đó, năm 2020, Timnit Gebru, lãnh đạo nhóm AI của Google, cũng bị sa thải sau khi phát hiện các thuật toán của Google tồn tại sự phân biệt giới tính và phân biệt chủng tộc.
Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer
Đại diện cơ quan thẩm tra, ông Lê Quang Huy – Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường cho rằng, OTT về bản chất là dùng Internet để cung cấp phần mềm ứng dụng, như Zalo, Viber, Telegram. Theo kinh nghiệm quốc tế, về cơ bản, OTT được chia thành hai loại chính, gồm OTT viễn thông và OTT cung cấp nội dung thông tin.
Zalo, Viber, Telegram sẽ được đưa vào diện quản lý triệt để
OTT có chức năng hội thoại, họp trực tuyến, chat, tin nhắn không thu phí. Đặc điểm này dẫn đến việc sử dụng dịch vụ OTT phát triển rất nhanh, ảnh hưởng lớn đến doanh thu tin nhắn và thoại truyền thống của doanh nghiệp viễn thông nhiều quốc gia, trong đó có thị trường Việt Nam.
Quản lý OTT viễn thông sẽ là chính sách quan trọng, có tác động lớn đến người dân, doanh nghiệp, đến công cuộc chuyển đổi số, phát triển kinh tế số, xã hội số.
Trước đó, Bộ Thông tin và Truyền thông cũng đề xuất quản lý bình đẳng giữa các doanh nghiệp trong nước và nước ngoài, tránh tình trạng bảo hộ ngược giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp nước ngoài cung cấp dịch vụ xuyên biên giới đến người sử dụng trên lãnh thổ Việt Nam.
Theo đó, với dịch vụ OTT viễn thông có thu cước, nhà cung cấp trong nước phải có giấy phép, còn nhà cung cấp xuyên biên giới phải thông qua thỏa thuận thương mại với một nhà cung cấp được cấp phép trong nước.
Trường hợp dịch vụ OTT viễn thông không thu cước, nhà cung cấp cần thông báo, đăng ký với Bộ Thông tin và Truyền thông.
Riêng nhà cung cấp dịch vụ xuyên biên giới có quy mô lớn tại Việt Nam, ví dụ theo số người sử dụng, phải có thỏa thuận thương mại hoặc đặt văn phòng đại diện ở Việt Nam nhằm giải quyết vấn đề liên quan đến quyền lợi người sử dụng và tuân thủ pháp luật.
Thực tế, các nhà cung cấp dịch vụ OTT tại Việt Nam hiện không có liên hệ với các nhà cung cấp dịch vụ viễn thông. Một số khu vực, quốc gia ở châu Âu, Trung Quốc, Hàn Quốc đã phân loại dịch vụ này là dịch vụ viễn thông và thực hiện quản lý theo pháp luật về viễn thông.
Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer
Theo thông báo mới đây từ TikTok, nền tảng này đang thử nghiệm một chatbot AI mới có tên là Tako, động thái được xem là tuyên bố gia nhập cuộc đua AI (trí tuệ nhân tạo) của TikTok.
TikTok thử nghiệm chatbot AI mới có tên là Tako
Theo xác nhận của TikTok, Tako được phát triển bằng công nghệ của bên thứ ba (third-party technology) và hiện đang được thử nghiệm cho một số người dùng TikTok được chọn ở Philippines.
TikTok cũng cho biết Tako đang ở giai đoạn đầu của quá trình khám phá công nghệ mà TikTok theo đuổi với mục tiêu hỗ trợ các hoạt động tìm kiếm và khám phá trên ứng dụng (TikTok).
Theo thông tin từ Reuters, Tako có những tính năng có thể đề xuất video hoặc các nhà sáng tạo nội dung dựa trên những gì người dùng đang xem.
Tako cũng đóng vai trò như các chatbot khác, có thể trả lời các câu hỏi của người dùng theo hình thức hội thoại (conversational).
TikTok ra mắt Tako trong bối cảnh các chatbot AI hay công nghệ AI tổng quát (Generative AI) đang là xu hướng công nghệ nóng nhất trên thị trường, trong đó ChatGPT của OpenAI và Google Bard của Google đang dẫn đầu cuộc đua.
Ở khía cạnh tổng thể, trong khi có không ít các nhà lãnh đạo công nghệ tỏ ra thận trọng và lo ngại với sự phát triển của AI, người sáng lập Microsoft Bill Gates đã hoan nghênh AI vì những tác động có thể có của nó đối với xã hội, cho rằng công nghệ này có thể được sử dụng để cải thiện năng suất lao động và hơn thế nữa.
Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer
Người Trung Quốc mê trà nhưng Starbucks không những không bị khai tử mà còn mở hơn 6000 cửa hàng, doanh thu năm 2022 lên tới 2,5 tỷ USD: Tất cả là nhờ vào 1 chiến lược thâm nhập thị trường đặc biệt. Cùng khám phá phương thức Starbucks thâm nhập vào thị trường trung Quốc trong bài viết này.
Chiến lược thâm nhập thị trường của Starbucks vào Trung Quốc
Nếu có một công ty đồ uống đáng lẽ phải thất bại ở Trung Quốc, thì đó chính là Starbucks. Trung Quốc vốn là quốc gia có văn hóa uống trà kéo dài hàng ngàn năm lịch sử.
Khi bắt đầu thâm nhập thị trường Trung Quốc vào năm 1999, nhiều người nghi ngờ về khả năng thành công của Starbucks ngay cả khi đây là một gã khổng lồ trong ngành.
Không ai nghĩ rằng người Trung Quốc sẽ thay đổi thói quen đi vào tiềm thức đó để uống cà phê. Thế mà, Starbucks lại đang làm rất tốt điều đó tại đất nước tỷ dân. Không những thế, họ còn biến nơi này trở thành thị trường lớn thứ 2 sau Mỹ.
Theo CNBC, nhu cầu về cà phê Starbucks ở Trung Quốc tăng mạnh đến mức vào năm 2017, cứ 15 phút lại có một cửa hàng mới được mở trên khắp đất nước tỷ dân để đáp ứng nhu cầu khổng lồ của người tiêu dùng.
Năm 2019, Starbucks báo cáo doanh thu tăng 92% tại Trung Quốc.
Năm 2022, thị trường Trung Quốc đã đóng góp 2,5 tỷ USD trong tổng doanh thu toàn cầu 32 tỷ USD của Starbucks.
Vào tháng 9 cùng năm, Starbucks đã mở cửa hàng thứ 6.000 tại Trung Quốc. Starbucks cũng sẽ mở một nhà máy rang trị giá 130 triệu USD trong năm nay tại thành phố Côn Sơn.
Đây sẽ là nhà máy rang đầu tiên tại châu Á của Starbucks.
Trong báo cáo chiến lược phát triển đến năm 2025 của Starbucks chi nhánh Trung Quốc, họ đặt mục tiêu mở thêm 3.000 quán trong tổng số 6.019 chi nhánh đang hoạt động hiện nay.
Điều này có nghĩa là cứ mỗi 9 tiếng Starbucks sẽ lại mở một quán mới ở Trung Quốc.
Với kế hoạch này, CEO Schultz đã khẳng định rằng Trung Quốc sẽ vượt qua Mỹ để trở thành thị trường lớn nhất của hãng trên thế giới vào năm 2025.
Vậy từ chỉ sống thành công bằng 0, Starbucks đã làm như thế nào để có thể lật ngược tình thế và biến Trung Quốc trở thành một trong những thị trường tiềm năng nhất? Tất cả xuất phát từ một chiến lược thâm nhập được tính toán kỹ lưỡng bao gồm nhiều yếu tố:
1. Suy nghĩ khác biệt là yếu tố đầu tiên mà Starbucks cần khi thâm nhập vào thị trường Trung Quốc.
Khi Starbucks lần đầu tiên mở cửa tại Trung Quốc vào năm 1999, văn hóa uống cà phê ở quốc gia này hầu như không tồn tại. Trong khi đó, văn hóa uống trà của Trung Quốc đã ăn sâu vào tiềm thức của người dân và rất ít người quan tâm đến việc thử một cái gì đó mới.
Để thâm nhập vào thị trường này với Starbucks là một thách thức lớn. Tuy nhiên, họ không để sự hoài nghi về khả năng thành công kìm hãm mình.
Họ nghiên cứu và tìm thấy cơ hội cho mình. Một nghiên cứu thị trường cho thấy rằng sự gia tăng của tầng lớp trung lưu Trung Quốc tạo cơ hội cho Starbucks mang trải nghiệm cà phê phương Tây đến đất nước tỷ dân – nơi mọi người có thể trò chuyện với bạn bè trong khi thưởng thức uống đồ uống yêu thích của họ.
Sau hơn 20 năm lăn lộn tìm chỗ đứng tại Trung Quốc, Starbucks thực sự đã tạo ra nhu cầu đó. Ngày nay, người ta có thể tìm thấy một quán cà phê Starbucks trên hầu hết các con phố lớn của Trung Quốc.
Theo một khảo sát , tỷ lệ người Trung Quốc uống cà phê sau bữa ăn thay vì trà đã tăng lên đáng kể. Starbucks thực sự đã cách mạng hóa nhận thức của người Trung Quốc và khiến họ uống và yêu thích cà phê hơn.
Starbucks đã phải tìm cách làm cho cà phê hấp dẫn khẩu vị của người Trung Quốc. Họ đã làm điều này bằng cách tạo ra một thực đơn đồ uống cà phê độc đáo kết hợp hương vị truyền thống của Trung Quốc.
Ngày nay, gã khổng lồ ngành F&B Starbucks có hơn 3.700 cửa hàng trên khắp Trung Quốc và là chuỗi cà phê hàng đầu của quốc gia này. Nhờ S
2. Chiến lược Marketing thông minh của Starbucks khi thâm nhập vào Trung Quốc.
Sau khi quyết định thâm nhập vào thị trường Trung Quốc, Starbucks đã áp dụng một chiến lược thâm nhập thị trường khôn ngoan. Thay vì khiến người Trung Quốc cảm thấy bị đe dọa bởi văn hóa uống trà của họ, các chiến dịch quảng cáo của họ tập trung vào việc chọn những địa điểm có nhiều người qua lại, dễ thấy để xây dựng hình ảnh thương hiệu.
Tiếp theo, Starbucks tận dụng văn hóa uống trà của người tiêu dùng Trung Quốc, giới thiệu đồ uống được làm bằng các nguyên liệu phổ biến của địa phương như trà xanh.
Chiến lược này đã giúp thương hiệu đồ uống ngoại này biến trở ngại thành một lợi thế một cách hiệu quả. Người tiêu dùng Trung Quốc nhanh chóng yêu thích cà phê Starbucks, đây là nguyên nhân cơ bản dẫn đến thành công của Starbucks tại Trung Quốc.
Một trong những chiến lược marketing quan trọng của Starbucks là cung cấp cho khách hàng trải nghiệm độc đáo. Starbucks xây dựng cửa hàng với nội thất trang nhã, hiện đại và không gian âm nhạc, sôi động thoải mái.
Từ đó, không chỉ tạo nên sự khác biệt giữa Starbucks so với các đối thủ cạnh tranh mà còn thu hút mạnh mẽ thế hệ trẻ, những người coi văn hóa cà phê phương Tây là biểu tượng của lối sống hiện đại.
Nhiều người đến Starbucks không chỉ để uống một ly Frappuccino mà còn để cảm nhận “trải nghiệm Starbucks” khiến họ cảm thấy sành điệu và thời thượng hơn. Cũng chính vì thế mà cà phê của Starbucks đã trở thành một trong những thức uống phát triển nhanh nhất ở Trung Quốc.
3. Quốc tế hóa thương hiệu.
Biết được giá trị của thương hiệu quốc tế của mình, Starbucks đã thực hiện một số bước để duy trì tính toàn vẹn của thương hiệu.
Một trong những cách tốt nhất là cử những nhân viên pha chế giỏi nhất của họ ở những thị trường lâu đời đến những thị trường mới và đào tạo nhân viên mới.
Những nhân viên pha chế này đóng vai trò là đại sứ thương hiệu, giúp thúc đẩy văn hóa Starbucks tại các cửa hàng mới, đảm bảo dịch vụ tại mỗi cửa hàng tuân theo tiêu chuẩn quốc tế của họ.
Nhìn chung, các thương hiệu phương Tây nổi tiếng về sản phẩm và dịch vụ chất lượng cao, đồng thời họ có lợi thế cạnh tranh so với các công ty Trung Quốc trong việc khẳng định mình là thương hiệu cao cấp.
Tuy nhiên, Shaun Rein, người sáng lập kiêm giám đốc điều hành của China Market Research Group, chỉ ra rằng có quá nhiều thương hiệu phương Tây đang giảm giá để giành thị phần, đây là một chiến lược thất bại vì họ sẽ không bao giờ có thể “rút ruột” các đối thủ địa phương Trung Quốc thông qua cuộc chiến về giá cả.
Thương hiệu quốc tế không có nghĩa là “sản phẩm quốc tế” hay “nền tảng quốc tế”. Starbucks đã nội địa hóa cao đồ uống của mình để phục vụ thị hiếu của người tiêu dùng Trung Quốc. Họ tiến hành rất nhiều phân tích về thị hiếu của người tiêu dùng Trung Quốc và kết hợp một cách sáng tạo thị hiếu phương Đông và phương Tây.
Starbucks thậm chí còn cho phép mỗi chi nhánh linh hoạt lựa chọn trong danh mục đồ uống đa dạng của mình để phù hợp với thị hiếu của người tiêu dùng địa phương.
Để các thương hiệu quốc tế thành công ở Trung Quốc, họ phải điều chỉnh hoạt động kinh doanh của mình cho phù hợp với thị trường địa phương. Đó là những gì Starbucks làm.
4. Cộng tác nội địa hóa.
Trung Quốc không phải là một thị trường đồng nhất mà có nhiều “Trung Quốc”. Văn hóa ở miền bắc Trung Quốc rất khác so với ở phía đông. Sức tiêu thụ của các thành phố nội địa không thể so sánh với các thành phố ven biển.
Để giải quyết vấn đề phức tạp này tại thị trường Trung Quốc, Starbucks đã chọn ba đối tác trong khu vực như một phần trong kế hoạch mở rộng của mình.
Ở phía bắc, Starbucks liên doanh với Công ty Cà phê Meida Bắc Kinh. Ở phía đông, Starbucks đang hợp tác với Uni-President Enterprises của Đài Loan (Trung Quốc).
Ở phía Nam, đối tác của Starbucks là Hong Kong Maxim’s Food Co., Ltd. Mỗi đối tác đều có những thế mạnh và kiến thức nhất định về địa phương, giúp Starbucks hiểu được thị hiếu và sở thích của người tiêu dùng Trung Quốc tại địa phương.
Làm việc với các đối tác phù hợp có thể hiểu người tiêu dùng địa phương một cách hiệu quả và đạt được tốc độ tăng trưởng nhanh chóng mà không cần trải qua một lộ trình học tập dài và quanh co.
5. Thâm nhập vào thị trường Trung Quốc là nỗ lực và chiến lược lâu dài của Starbucks.
Trước khi thập nhập vào thị trường (Market Penetration) Trung Quốc, Starbucks hiểu rằng thị trường này không phải là thị trường có thể phát triển dễ dàng mà cần nỗ lực lâu dài. Một chiến lược quan trọng là đầu tư vào nhân viên. Starbucks thực hiện xuất sắc công việc tuyển dụng và đào tạo nhân viên của mình.
Đó là một chiến lược đôi bên cùng có lợi vì nhân viên là trung tâm của việc mang lại “trải nghiệm Starbucks” cho khách hàng. Họ là những đại sứ tiếp thị tốt nhất của công ty.
Nỗ lực lâu dài cũng có nghĩa là kiên nhẫn. Khai thác thị trường và giành được lòng trung thành của khách hàng cần có thời gian. Các công ty thực hiện đầu tư dài hạn chắc chắn sẽ thu được lợi nhuận đáng kể.
Nếu Starbucks có thể thành công ở một trong những thị trường ít có khả năng thành công nhất, thì không có lý do gì các công ty khác, dù lớn hay nhỏ, không thể thành công ở Trung Quốc. Suy nghĩ khác biệt, có chiến lược phù hợp, phục vụ thị trường địa phương và cam kết lâu dài là những bước quan trọng để biến điều đó thành hiện thực.
Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer
MoMoTravel (Du lịch – Đi lại) là nền tảng du lịch trực tuyến thuần Việt duy nhất xuất hiện trong Bảng xếp hạng thương hiệu du lịch năm 2023 (Travel Brand Ranking 2023) do Decision Lab – đối tác độc quyền của YouGov tại Việt Nam – vừa công bố.
MoMoTravel thuộc Top 10 thương hiệu du lịch được người Việt biết đến
MoMoTravel giữ vị trí thứ 8 trong top 10 thương hiệu du lịch được người Việt cân nhắc lựa chọn nhiều nhất; đồng thời giữ vị trí thứ 3 trong top 5 thương hiệu du lịch có chỉ số cải thiện nhiều nhất, chỉ xếp sau 2 hãng hàng không là Vietnam Airlines và Bamboo Airways.
Đây là năm đầu tiên Decision Lab công bố Bảng xếp hạng thương hiệu du lịch năm 2023. Bảng xếp hạng được thực hiện trong thời gian từ ngày 24.5.2022 – 23.5.2023, so với cùng kỳ năm trước đó.
Các thương hiệu được xếp hạng dựa trên chỉ số “cân nhắc tích cực” (positive consideration). Với chỉ số này, người tham gia khảo sát được hỏi: “Trong lần tới khi mua các sản phẩm du lịch hoặc vé máy bay, bạn sẽ cân nhắc đến thương hiệu nào?”.
Dẫn đầu 10 thương hiệu du lịch được người Việt cân nhắc lựa chọn nhiều nhất là các hãng hàng không, công ty du lịch và nền tảng du lịch trực tuyến (Online Travel Agency).
Điều này cho thấy đây là những yếu tố được quan tâm hàng đầu của người Việt khi lên kế hoạch du lịch, đi lại.
Riêng với nền tảng du lịch trực tuyến, MoMoTravel là thương hiệu Việt duy nhất đứng cùng bảng với những cái tên quốc tế như Traveloka, Agoda, Booking.com…
Báo cáo cũng cho biết, tính đến tháng 5.2023, MoMoTravel đã tăng nhanh 3 bậc để tiến vào top 10 thương hiệu du lịch được người Việt cân nhắc lựa chọn nhiều nhất. Kết quả này cũng đưa MoMo vào top 5 thương hiệu du lịch có chỉ số cải thiện nhiều nhất (tăng 1,7 điểm) so với thời điểm tháng 5.2022.
Sự góp mặt của MoMoTravel trong bảng xếp hạng này không đơn thuần cho thấy tốc độ phát triển của các siêu ứng dụng tại thị trường Việt Nam đang tăng lên nhanh chóng, mà còn phản ánh sự dịch chuyển trong thói quen đặt vé máy bay, tàu xe và các sản phẩm du lịch của người Việt.
Sau 3 năm chính thức ra mắt (từ tháng 12.2020), MoMoTravel phổ biến và trở thành cái tên quen thuộc với người Việt, đặc biệt là nhóm người dùng yêu thích du lịch hoặc có tần suất di chuyển liên tỉnh cao. Theo đó, MoMoTravel “chinh phục” người dùng bằng chính nền tảng siêu ứng dụng “tất cả trong một” (all-in-one).
Người dùng chỉ cần mở MoMoTravel là có thể trải nghiệm từ tìm kiếm và so sánh giá vé, giá phòng, thời gian khởi hành; đặt vé máy bay, vé xe khách, vé tàu hỏa; thuê xe tự lái, khách sạn đến quản lý cả chuyến đi một cách nhanh chóng, thuận tiện.
Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer
CEO của OpenAI, Sam Altman đã có chuyến thăm châu Âu, gặp gỡ người đứng đầu các chính phủ và cộng đồng khởi nghiệp để chia sẻ về các quy định của AI, ChatGPT và hơn thế nữa.
CEO OpenAI: Ngành giáo dục toàn cầu sẽ chứng kiến một sự thay đổi lớn nhờ vào AI
Trong lần xuất hiện trên sân khấu tại Station F ở Paris, Altman đã trả lời các câu hỏi của các doanh nhân địa phương và chia sẻ quan điểm của mình về trí tuệ nhân tạo (AI).
Vài ngày trước cuộc thảo luận, Altman đã gặp tổng thống Pháp, Emmanuel Macron . Đầu tiên, giám đốc Station F, Roxanne Varza hỏi Altman về nội dung của cuộc trò chuyện.
Đúng như dự đoán, cuộc thảo luận chủ yếu xoay quanh quy định liên quan đến AI. “Thật tuyệt vời, chúng tôi đã trò chuyện về việc cân bằng giữa việc sử dụng AI một cách an toàn và cách để AI phát triển hơn nữa trong tương lai” Altman nói.
Altman đã liệt kê một số lý do khiến anh hào hứng với tình trạng trí tuệ nhân tạo hiện tại. Theo vị CEO này, AI đóng vai trò quan trọng trong mọi lĩnh vực chứ không chỉ riêng một lĩnh vực nào.
Chẳng hạn, AI có thể hữu ích khi được ứng dụng trong lĩnh vực giáo dục và chúng ta có thể sắp chứng kiến có một sự thay đổi lớn trong giáo dục trên toàn thế giới.
CEO này cũng đề cập đến cách GPT và các mô hình AI khác hữu ích như thế nào để cải thiện năng suất trong nhiều loại công việc, bao gồm cả phát triển phần mềm.
Vài ngày trước, tại một sự kiện tương tự ở Đại học College London, Altman đã cảnh báo rằng việc vi phạm quá mức quy định của châu Âu có thể dẫn đến việc OpenAI bị cấm ở lục địa này hoàn toàn.
Tuy nhiên sau đó, Altman đã đăng một tweet trên Twitter nói rằng “Chúng tôi rất vui mừng được tiếp tục hoạt động ở đây và tất nhiên chúng tôi không có kế hoạch rời đi”.
“Chúng tôi có kế hoạch tuân thủ, chúng tôi thực sự thích châu Âu và chúng tôi muốn cung cấp dịch vụ của mình ở châu Âu nhưng chúng tôi chỉ muốn đảm bảo rằng chúng tôi có khả năng về mặt kỹ thuật” Altman giải thích cho những dòng tweet của mình.
Trong phiên hỏi đáp này, Altman thể hiện sự lạc quan vào trí tuệ nhân tạo. Anh chia sẻ rằng sẽ có một số đột phá công nghệ lớn (đặc biệt là xung quanh phản ứng tổng hợp hạt nhân) sẽ giải quyết vấn đề biến đổi khí hậu trong tương lai gần.
Tương tự như vậy, vị CEO cũng đã trả lời nhiều câu hỏi hóc búa từ khán giả và vẫn tin rằng lợi ích của trí tuệ nhân tạo vượt trội hơn rất nhiều so với những nhược điểm của nó.
“Cuộc thảo luận đã tập trung quá nhiều vào những điều tiêu cực” Altman nói. “Có vẻ như sự cân bằng giữa ưu và nhược điểm đã bị mất đi do tất cả giá trị mà mọi người đang nhận được từ những công cụ này ngày nay”.
Altman một lần nữa yêu cầu một “khuôn khổ pháp lý toàn cầu” tương tự như quy định về hạt nhân hoặc công nghệ sinh học dành cho AI.
“Tôi nghĩ rằng khuôn khổ pháp lý toàn cầu sẽ giúp AI trở nên tốt đẹp hơn. Điều quan trọng là chúng ta cần làm rõ ràng về những quy định này”.
CẠNH TRANH & CẢI THIỆN MÔ HÌNH.
Thành công của OpenAI và ChatGPT cũng dẫn đến nhiều cạnh tranh hơn. Có những công ty và phòng thí nghiệm AI khác đang tiến hành thử nghiệm trên các mô hình ngôn ngữ lớn và AI tổng quát nói chung. Nhưng Altman lại coi cạnh tranh là một điều tốt.
“Mọi người cạnh tranh với nhau để tạo ra những mô hình ngày càng tốt hơn, đó là điều tuyệt vời”. “Miễn là chúng ta không cạnh tranh theo cách có thể gây rủi ro cho sự an toàn, nếu chúng ta tạo ra các mô hình cạnh tranh trong khi vẫn có thể nâng cao tiêu chuẩn về an toàn thì tôi nghĩ đó là một điều tốt”.
Trên thực tế, sẽ không có một mô hình nào thống trị tất cả. Một số mô hình sẽ trở nên chuyên dụng hơn. Một số mô hình sẽ tốt hơn ở một số nhiệm vụ so với những mô hình khác. “Sẽ có rất nhiều mô hình được phát minh trên thế giới trong tương lai.
Tôi nghĩ quỹ đạo mà chúng tôi đang đi sẽ trở thành nền tảng cơ bản cho phép công nghệ phát triển” Altman nói.
AI NHƯ LÀ MỘT CÔNG CỤ HỖ TRỢ VÀ THÚC ĐẨY KHẢ NĂNG CỦA CON NGƯỜI.
Altman coi AI là một công cụ mà con người có thể tận dụng để tạo ra những thứ mới, khai phá tiềm năng và thay đổi cách chúng ta nên suy nghĩ về các vấn đề cụ thể. Chẳng hạn, Altman không tin rằng AI gây rủi ro cho thị trường việc làm.
“Sự lo lắng rằng trí tuệ nhân tạo sẽ phát triển đến mức mà con người không có việc gì để làm hoặc mất việc làm chưa bao giờ ảnh hưởng đến tôi” Altman nói. “Sẽ có một số người chọn không làm việc và tôi nghĩ điều đó thật tuyệt.
Tôi nghĩ đó nên là một lựa chọn đúng đắn và có rất nhiều cách khác để tìm thấy ý nghĩa cuộc sống. Nhưng tôi chưa bao giờ thấy bằng chứng thuyết phục rằng những công cụ AI này có thể thay thế con người ở những việc mà họ làm tốt”.
Khi nói về báo chí, Altman nói rằng AI có thể giúp các nhà báo tập trung vào những gì họ làm tốt nhất, chẳng hạn như điều tra, khảo sát nhiều hơn và dành nhiều thời gian hơn để tìm kiếm thông tin mới đáng chia sẻ.
Và đây có lẽ là hiệu ứng chóng mặt nhất của làn sóng AI hiện nay. Theo suy nghĩ của Altman, trí tuệ nhân tạo sẽ thích ứng với nhu cầu của con người và con người sẽ thích ứng với những gì trí tuệ nhân tạo có thể làm.
“Công nghệ AI và xã hội sẽ cùng phát triển. Mọi người sẽ sử dụng nó theo những cách khác nhau và vì những lý do khác nhau” Altman nói.
Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer
Competitive insight là khái niệm mô tả việc luôn theo dõi và thấu hiểu đối thủ cạnh tranh, từ góc độ làm kinh doanh hay marketing, điều này có thể đảm bảo rằng doanh nghiệp luôn theo sát các diễn biến trên thị trường, nhìn nhận mọi thứ từ góc nhìn của đối thủ và hơn thế nữa.
Competitive insight: Làm thế nào để ứng dụng trong doanh nghiệp
Khi xem xét đến khái niệm Competitive insight, người làm marketing hay nhà lãnh đạo doanh nghiệp ngầm hiểu rằng, để có được cái gọi là lợi thế cạnh tranh trên thị trường, điều cần thiết là phải nhìn nhận mọi thứ từ quan điểm của đối thủ cạnh tranh (Competitor).
Nhiều chuyên gia trong ngành marketing và phân tích cạnh tranh đề cao việc sử dụng Competitive insight hay Sự hiểu biết sâu sắc về đối thủ, coi đây là một bước tiến từ trí thông minh cạnh tranh (competitive intelligence) trong kinh doanh.
Khi các nhà lãnh đạo không coi trọng đối thủ cạnh tranh, họ sẽ dần mất cảnh giác và không thể hành động hoặc phản ứng một cách hiệu quả trước đối thủ.
Về mặt tổng thể, Competitive insight bao gồm 4 phần với mục tiêu cuối cùng là biến các dữ liệu (Data) có được thành các hành động cụ thể.
Phần đầu tiên được gọi là thông tin tình báo cạnh tranh tiêu chuẩn: xem xét các báo cáo hàng năm, báo cáo doanh thu, lợi nhuận… của đối thủ cạnh tranh.
Sau khi có được các dữ liệu này, phần thứ hai liên quan đến việc hiểu những công cụ mà đối thủ cạnh tranh sẽ tận dụng để đưa ra các lựa chọn mang tính chiến lược với dữ liệu đó.
Phần thứ ba, khi phân tích đối thủ, điều quan trọng là phải hiểu về bản thân những người ra quyết định bằng cách xem xét hành động của họ trong quá khứ.
Một CEO có kiến thức nền tảng về Marketing sẽ đưa ra những lựa chọn rất khác so với một CEO vốn xuất thân và mạnh về tài chính.
Cuối cùng, các doanh nghiệp nên đưa ra những dự đoán ngắn hạn về cách đối thủ cạnh tranh có thể hành động và nhanh chóng thay đổi hướng đi nếu chúng được chứng minh là sai. Điều này cũng tương tự khi bạn chơi cờ vua — bạn luôn cần đi trước đối thủ một hoặc hai bước, suy nghĩ và chuẩn bị cho nước đi tiếp theo của họ và luôn sẵn sàng thay đổi nếu họ thay đổi chiến thuật (không theo cách bạn dự đoán).
Nếu bạn đoán đúng, điều đó cho thấy rằng bạn đang đi đúng hướng trong việc hiểu đối thủ cạnh tranh của mình, khi này bạn cần tiếp tục duy trì.
Ngược lại, nếu những gì bạn dự báo là sai, hãy nhanh chóng tìm hiểu lý do tại sao và thay đổi hướng đi nhanh nhất có thể.
Một khi bạn biết được sai lầm của mình nằm ở đâu, bạn có thể thay đổi cách bạn thu thập thông tin về đối thủ để từ đó đưa ra những dự đoán tốt hơn trong tương lai. Dự đoán của bạn sẽ ngày càng tốt hơn theo thời gian khi bạn lặp lại quy trình này.
Đừng tin tưởng hoàn toàn vào AI khi phân tích Competitive insight.
Trong những tháng trở lại đây, mà chính xác là kể từ khi các chatbot AI như ChatGPT hay Google Bard ra đời, thuật ngữ AI càng trở nên “bình dân” hơn bao giờ hết.
Trong khi khó có thể phủ nhận vai trò của AI trong việc thu thập, phân tích và tổ chức dữ liệu, không phải mọi hoạt động kinh doanh đều có thể tin tưởng và giao phó cho AI.
Vấn đề ở đây là, các đối thủ cạnh tranh không phải lúc nào cũng tuân theo các khuôn mẫu có thể dự đoán được và AI thì hiện vẫn thiếu yếu tố trực giác của con người.
Trong trường hợp này, cách tiếp cận đúng cho các doanh nghiệp nên là khai thác năng lực chuyên môn của con người (nhân viên) từ nhiều khía cạnh khác nhau, những kết luận đúng đắn nên hài hoà giữa yếu tố công nghệ và trực giác của con người.
Biến sự hiểu biết thành hành động.
Về bản chất, việc có được những sự hiểu biết sâu sắc về đối thủ hay Competitive insight sẽ không có ý nghĩa gì nếu nó không thực sự ảnh hưởng đến cách mà doanh nghiệp ra quyết định. Doanh nghiệp có thể khai thác các dữ liệu có được theo 3 cách: thông qua con người, quy trình và hiệu suất.
Với yếu tố con người, hãy xem xét việc doanh nghiệp nên tuyển ai, họ cần có những năng lực gì và doanh nghiệp cần bao nhiêu người.
Yếu tố quy trình liên quan đến việc tìm kiếm các phương pháp, nền tảng hay cách thức tiếp cận đúng cho doanh nghiệp.
Cuối cùng, yếu tố hiệu suất đề cập đến việc đo lường những giá trị mà doanh nghiệp có được khi theo dõi và thấu hiểu về đối thủ.
Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer
Amazon sẽ sử dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo (AI) để phát hiện và loại bỏ những sản phẩm lỗi và hư hỏng ở các trung tâm hoàn thiện đơn hàng, từ đó, giúp đẩy nhanh tốc độ giao hàng. Amazon cho biết công nghệ này phát hiện hàng lỗi hiệu quả gấp 3 lần so với nhân viên nhà kho.
Amazon sử dụng AI để phát hiện lỗi và xử lý đơn hàng
Amazon đang triển công nghệ AI ở hàng chục nhà kho lớn nhất để sàng lọc các mặt hàng bị hư hỏng trước khi đóng gói đơn hàng để giao cho khách hàng.
Gã khổng lồ thương mại điện tử (eCommerce) kỳ vọng AI có thể cắt giảm số lượng mặt hàng hư hỏng được gửi cho khách hàng và cuối cùng sẽ đóng một vai trò quan trọng trong nỗ lực của nền tảng nhằm tự động hóa nhiều hoạt động hoàn thiện đơn hàng hơn.
Nhân viên kho hàng của Amazon chịu trách nhiệm kiểm tra hàng hóa để tìm dấu hiệu sản phẩm bị hỏng (chẳng hạn như méo mó hoặc bị rách, xước) trước khi đóng gói trong khi vẫn đáp ứng mục tiêu số lượng đơn hàng họ xử lý mỗi giờ.
Jeremy Wyatt, Giám đốc khoa học ứng dụng của Amazon Robotics, đơn vị tự động hóa của Amazon cho biết việc kiểm tra hàng hóa lỗi có thể tốn thời gian do hầu hết các mặt hàng đều ở trong tình trạng tốt.
Wyatt nói: “Điều đó tốn nhiều công sức vì rõ ràng bạn đang tìm kiếm thứ gì đó hiếm xảy ra và đó không phải là công việc chính của bạn”.
Amazon ước tính trung bình, có ít hơn một trong số 1.000 mặt hàng mà công ty xử lý bị hư hỏng, mặc dù tổng số hàng lỗi sẽ rất đáng kể vì Amazon xử lý khoảng 8 tỉ gói hàng mỗi năm.
Amazon đang tăng cường sử dụng AI vào thời điểm các nhà bán lẻ, nhà điều hành chuỗi cung ứng và nhà sản xuất phần mềm chạy đua ứng dụng AI để tăng tốc quy trình làm việc và đơn giản hóa việc ra quyết định trong chuỗi cung ứng.
Amazon đang đẩy mạnh tự động hóa ở các kho hàng khi hoạt động tuyển dụng nhân viên đang trở nên khó khăn hơn. Đồng thời, nền tảng này cũng tìm cách chuyển một số công việc đơn giản, lặp đi lặp lại ở kho hàng cho các thiết bị robot.
Việc triển khai AI của Amazon là một phần trong nỗ lực thúc đẩy rộng lớn hơn trên toàn thế giới doanh nghiệp nhằm đưa nhiều công nghệ AI hơn vào các hoạt động hậu cần (Logistics) khi doanh nghiệp cố gắng quản lý chuỗi cung ứng phức tạp trong khi vẫn đảm bảo việc hàng hóa được vận chuyển nhanh chóng và đáng tin cậy.
Rueben Scriven, Giám đốc nghiên cứu về lĩnh vực tự động hóa kho hàng tại Công ty nghiên cứu Interact Analysis, cho biết các nhà điều hành kho hàng đang phát triển các công nghệ có thể đảm nhận những công việc thường đơn giản đối với con người, từ chọn, đóng gói hàng hóa cho đến kiểm tra xem chúng có bị hư hại hay không.
Đối với Amazon, việc giảm số lượng hàng hóa hư hỏng cho những gói hàng được giao là điều rất quan trọng để cải thiện trải nghiệm của khách hàng.
Cho đến nay, Amazon đã triển khai hệ thống AI phát hiện hàng lỗi ở hai trung tâm hoàn thiện đơn hàng và có kế hoạch triển khai hệ thống này tại 10 nhà kho khác ở Bắc Mỹ và châu Âu.
Christoph Schwerdtfeger, Giám đốc phát triển phần mềm của Amazon, cho biết công ty nhận thấy AI có hiệu quả gấp ba lần trong việc xác định hàng lỗi so với một nhân viên kho hàng.
AI kiểm tra các mặt hàng trong quá trình chọn và đóng gói hàng. Hàng hóa được chọn cho các đơn đặt hàng riêng lẻ, rồi được đặt vào các thùng di chuyển qua trạm hình ảnh, nơi chúng được kiểm tra để xác nhận đúng sản phẩm đã được chọn.
Trạm hình ảnh đó giờ đây được trang bị thêm công nghệ AI để đánh giá xem có bất kỳ sản phẩm nào bị hư hỏng hay không.
Nếu phát hiện hàng lỗi, thùng hàng đó sẽ chuyển qua nhân viên kho hàng để xem xét kỹ hơn. Nếu mọi thứ đều ổn, thùng hàng sẽ được chuyển đi để đóng gói và giao cho khách hàng.
Schwerdtfeger cho biết Amazon đã đào tạo hệ thống AI phát hiện hàng lỗi bằng cách so sánh hình ảnh của các mặt hàng không hư hại với các mặt hàng lỗi.
Bằng cách này, hệ thống có thể nhận ra sự khác biệt và báo sản phẩm bị lỗi nếu hình ảnh không hoàn hảo như mong đợi.
Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer
Meta, công ty mẹ của Facebook vừa giới thiệu một số giải pháp quảng cáo mới, bao gồm quảng cáo chuyên dành cho các chương trình khuyến mãi và quảng cáo tìm kiếm khách hàng tiềm năng (Lead Generation).
Facebook giới thiệu một số định dạng quảng cáo mới
Theo thông báo từ Meta, nền tảng này đã bắt đầu thử nghiệm một định dạng quảng cáo mới được gọi là quảng cáo khuyến mãi (promotional ads) hướng tới mục tiêu giúp người dùng dễ dàng sử dụng hay tương tác với các chương trình khuyến mãi của nhà quảng cáo.
Meta cũng tiết lộ rằng Facebook sẽ sớm có công cụ quảng cáo tìm kiếm khách hàng tiềm năng mới (Lead Generation).
Khi sử dụng các quảng cáo khuyến mãi, người dùng Facebook có thể nhấp trực tiếp vào quảng cáo để yêu cầu nhận ưu đãi, ưu đãi này sẽ tự động được áp dụng tại thời điểm mua hàng. Nếu việc mua hàng không được thực hiện, khách hàng sẽ nhận được một thông báo nhắc nhở trước khi giao dịch kết thúc.
Với định dạng quảng cáo tìm kiếm khách hàng tiềm năng mới, Meta sẽ làm mới cách khách hàng có thể gửi biểu mẫu (Lead Form), trải nghiệm này sẽ được cá nhân hoá nhiều hơn và việc thu thập thông tin khách hàng cũng sẽ trở nên liền mạch hơn.
Theo Meta, các định dạng quảng cáo mới hiện đang trong giai đoạn thử nghiệm, và sẽ có sẵn trước tại Mỹ, Vương quốc Anh, Ấn Độ và Canada trước khi mở rộng tới các khu vực khác trên toàn cầu.
Bà Helen Ma, giám đốc sản phẩm cấp cao của Meta cho biết: “Trong môi trường kinh tế ngày nay, điều quan trọng hàng đầu đối với các doanh nghiệp là tìm đúng khách hàng và khách hàng cũng tìm thấy các sản phẩm phù hợp.”
Đối với các quảng cáo tìm kiếm khách hàng tiềm năng, các biểu mẫu câu hỏi và câu trả lời sẽ dễ dàng được tùy chỉnh (cá nhân hoá) hơn với khả năng cập nhật tự động thông tin khách hàng theo từng tình huống cụ thể.
Cuối cùng, Meta hiện đang thử nghiệm nhiều tính năng quảng cáo mới với sự hỗ trợ của AI, AI Sandbox là một trong số đó và hiện đang được một số nhà quảng cáo được chọn thử nghiệm.
Bạn có thể xem thêm về các định dạng quảng cáo mới của Facebook tại đây.
Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer
Trong một phỏng vấn mới đây, CEO của gã khổng lồ ngành FMCG, P&G, Jon Moeller đã chia sẻ rằng chìa khoá cho thành công của P&G là luôn tập trung vào niềm vui và sự hài lòng của khách hàng, đồng thời ông cũng nói thêm là marketing đã thay đổi hoàn toàn trong những năm trở lại đây.
CEO P&G: Tập trung vào niềm vui của khách hàng là chìa khoá để thành côngCEO P&G: Tập trung vào niềm vui của khách hàng là chìa khoá để thành công
Procter & Gamble hay còn được gọi tắt là P&G bắt đầu bán xà phòng và nến từ năm 1837, gần hai thế kỷ sau, đây là một trong 20 công ty đại chúng lớn nhất thế giới.
Theo số liệu mới nhất từ Yahoo Finance, tính đến hết quý 1 năm 2023, P&G là công ty FMCG lớn thứ 2 trên thế giới với giá trị vốn hoá hơn 337 tỷ USD.
Một câu hỏi được đặt ra là, bằng cách nào mà từ một công ty nhỏ lẻ bán xà phòng, P&G lại có thể trở thành gã khổng lồ sau chừng ấy năm?
Trong một phỏng vấn mới đây giữa CEO Jon Moeller và Giáo sư Charles Fine của trường kinh doanh MIT, vị CEO này đã chia sẻ nhiều câu chuyện về P&G, từ chiến lược tập trung vào khách hàng đã giúp công ty thành công rực rõ, theo đuổi tính bền vững đến việc luôn hướng tới các chiến lược marketing mới trong một thị trường luôn không ngừng thay đổi.
Dưới đây là chi tiết nội dung của câu chuyện.
Thu hẹp lại để phát triển.
Cách đây chừng 10 năm, P&G đã trải qua một sự thay đổi mạnh mẽ, giảm quy mô danh mục sản phẩm của mình từ 225 thương hiệu xuống còn 65. Đồng thời, công ty cũng đã giảm mức đầu tư từ 22 danh mục sản phẩm xuống chỉ còn 10.
CEO Moeller cho biết: “Chúng tôi tập trung vào các danh mục sản phẩm vốn được sử dụng hàng ngày. Chúng tôi quay trở lại với những giá trị cốt lõi, với những thứ mà chúng tôi thực sự có năng lực cạnh tranh.”
Kết quả là, P&G chứng kiến sự tăng trưởng của vốn hóa thị trường từ mức 150 tỷ USD năm 2009 lên hơn 300 tỷ USD ngày nay. Công ty cũng đã cắt giảm và đơn giản hóa cơ cấu tổ chức của mình.
P&G trước đây được chia thành ba nhánh: thương hiệu toàn cầu (Global), khu vực (Regional) và chức năng (functional).
Tuy nhiên, theo CEO Moeller, cơ cấu này đã khiến mọi người thường trốn tránh trách nhiệm giải trình khi có sự cố xảy ra. Trong trường hợp khi mọi thứ diễn ra tốt đẹp, cũng khó có thể nhận biết được chính xác là ai đã hoàn thành tốt những gì.
CEO Moeller khẳng định rằng việc một doanh nghiệp được chia tách thành các bộ phận riêng lẻ thực sự mang lại nhiều rủi ro tiềm ẩn, các nhà lãnh đạo doanh nghiệp không thể nhìn thấy được một bức tranh toàn cảnh về doanh nghiệp của họ. Điều này khiến cho việc ra quyết định trở nên vô cùng khó khăn.
Cuối cùng, P&G đã bắt đầu tích hợp các bộ phận khác nhau của toàn bộ chuỗi cung ứng thành một tổ chức duy nhất, các bộ phận giờ đây làm việc xuyên suốt và liên kết chặt chẽ với nhau, cùng hướng tới một mục tiêu chung.
Các hoạt động Marketing đã thay đổi nhanh chóng trong nhiều năm qua và P&G theo đó cũng không ngừng chuyển mình.
CEO Moeller cho biết rằng bên cạnh những thay đổi cơ bản về cơ cấu tổ chức của doanh nghiệp, yếu tố công nghệ cũng đang làm thay đổi cách P&G làm kinh doanh và marketing.
Trong khi các sản phẩm như tã giấy hoặc các sản phẩm trị ho đã từng được quảng cáo trên các kênh truyền hình (TV) quốc gia, tiếp cận cả những người không có con hoặc không bị ho, với quảng cáo trực tuyến ngày nay, khả năng nhắm mục tiêu (Targeting) trở nên chính xác hơn nhiều.
Các công nghệ mới cũng đang làm tăng tính linh hoạt của quá trình phát triển và sản xuất sản phẩm, điều này càng trở nên rõ ràng hơn sau cú sốc trong chuỗi cung ứng và sự thay đổi trong thói quen của người tiêu dùng trong thời kỳ đại dịch.
Nếu việc phát triển một công thức mới cho chất tẩy rửa của Tide từng phải mất đến hai tháng, thì giờ đây nó có thể được điều chỉnh lại trong thời gian thực tùy thuộc vào chi phí nguyên vật liệu và tính sẵn có. “Chúng tôi nhanh hơn và có khả năng hơn với những sự đổi mới mà chúng tôi mang đến thị trường.”
Mặc dù công nghệ là vô cùng quan trọng đối với sự phát triển của doanh nghiệp, CEO P&G cũng chia sẻ rằng doanh nghiệp “không nên say mê với công nghệ.”
Ông gợi ý rằng công nghệ là phương tiện để đạt được mục đích, chứ bản thân nó không phải là mục đích. “Hãy say mê với việc theo đuổi niềm vui và nhu cầu của người tiêu dùng thay vì là công nghệ.”
Tính bền vững là chìa khoá.
CEO Moeller cho biết P&G không chỉ phục vụ khách hàng, doanh nghiệp còn phải phục vụ nhân viên, các cổ đông lẫn các cộng đồng trong xã hội.
Trước hết, P&G đang cố gắng để giảm bớt các tác động đến môi trường. Ví dụ, lượng phát thải khí nhà kính của công ty đã giảm 57% kể từ năm 2010, và công ty hiện đang theo đuổi mục tiêu không phát thải.
Thứ hai, P&G đang cố gắng giúp người tiêu dùng giảm lượng khí thải carbon của họ. Bằng cách tạo ra những loại bột giặt có thể khiến quần áo bền lâu hơn, P&G đang giúp giảm lượng quần áo cũ được thải ra môi trường, hiện đây là một gánh nặng đối với môi trường, không chỉ đối với các doanh nghiệp kinh doanh thời trang mà còn cả với các doanh nghiệp liên quan như P&G.
CEO Moeller nói tiếp rằng P&G “không thể đánh đổi niềm vui của người tiêu dùng với sự bền vững của môi trường. Mọi thứ theo đó cần phải được cân bằng.”
Cuối cùng, P&G cũng đang phát triển một quy trình tái chế mới để loại bỏ các sắc tố và mùi ra khỏi polypropylene tái chế.
“Chúng tôi đang bắt đầu suy nghĩ rất khác về mục tiêu của sự đổi mới, nó phải là thứ gì đó hoạt động như các mã nguồn mở, công khai và minh bạch.
Nếu bạn nghĩ về nó theo cách này, bạn không chỉ đang giúp đỡ chính bản thân mình mà còn đang giúp đỡ cho cả thế giới vì mục tiêu chung.
Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer
Hệ thống Giám sát và Phân tích thông tin trên môi trường mạng (Reputa) trong báo cáo về ngành fintech công bố có dẫn dự báo của Robocas Group rằng thị trường fintech Việt Nam có thể cán mốc 18 tỷ USD vào năm 2024.
Thị trường Fintech Việt Nam sẽ cán mốc 18 tỷ USD vào 2024
Báo cáo của Reputa cho biết, trong tháng 1/2023, Blockchain có tỷ lệ thảo luận vượt trội hơn so với các thảo luận khác, gấp 17 lần so với thanh toán điện tử. Diễn biến thảo luận ngành có xu hướng tăng lên vào các ngày cuối tháng 1 và đạt đỉnh với 12,715 thảo luận.
Độ tuổi thảo luận nhiều nhất từ 25 đến 34 tuổi, chiếm 54% trong tổng số người dùng thảo luận về fintech. Đây cũng là đối tượng sử dụng các ứng dụng Fintech như thanh toán điện tử nhiều nhất.
Tuy có sự giảm nhẹ 1,5 lần so với tháng 12/2022, trên “sân chơi” fintech, ví điện tử MoMo vẫn giữ vững ngôi vị đầu bảng xếp hạng với Total Score đạt 128,19. Trong tháng 1, MoMo nhận về 2,357,607 tổng tương tác từ các bài viết trên nền tảng Facebook.
Trong đó, bài viết minigame “Sáng tạo mã QR-Mê say rước lộc về nhà liền!” với tổng giải thưởng lên tới 50 triệu đồng, được người dùng hưởng ứng nhiệt tình nhận về hơn 13.390 tương tác.
ZaloPay bất ngờ vượt lên 4 bậc, đạt vị trí top 2 với Total Score tăng gấp 9,5 lần tháng 12/2022. Với những minigame tăng tương tác như “Chia sẻ story này đi” hay “Tương tác đón lộc ví vàng” cùng nhiều lì xì hấp dẫn cho dịp đầu xuân năm mới.
Trong tháng qua, MB Bank tiếp tục đứng top 1 bảng xếp hạng ngân hàng số theo mức độ phổ biến trên Mạng xã hội, với điểm Total Score đạt 6,1 tăng 23.9%. Nổi bật nhất với bài viết chúc mừng năm mới trên fanpage MB Bank thu về 741 lượt tương tác.
Nhìn chung, top 5 Bảng xếp hạng tháng 2/2023 lượng thảo luận đang có chiều hướng tăng lên. TP Bank vượt lên top 2, tăng 32%, đạt 5,72 điểm Total Score thông qua các bài viết nổi bật như minigame “Năm MÈO mong …” nhận về 8,523 lượt tương tác. Bên cạnh đó Vietcombank có sự sụt giảm mạnh, giảm 93,1% so với tháng trước.
Về lượng thảo luận của 3 loại hình fintech, lượng thảo luận của 3 loại hình đều giảm đi so với tháng trước. Cụ thể, “thanh toán điện tử” ghi nhận giảm 36,26%, “mô hình gọi vốn” giảm 27,42% và các loại hình khác giảm 13,6% đến từ người dùng mạng xã hội.
Trong các yếu tố người dùng quan tâm khi sử dụng, người dùng các sản phẩm Fintech thường quan tâm nhiều đến các hoạt động quảng bá từ KOL và các sự kiện, chiếm hơn 66% lượng quan tâm. Trong khi đó, lỗi bảo mật là yếu tố mà người dùng quan tâm trong trải nghiệm chăm sóc khách hàng, chiếm 80,85% lượng thảo luận.
Dựa trên kết quả thống kê từ Social Listening của Reputa, tháng qua BIDV ra mắt BIDV Smart Kids dịch vụ ngân hàng số đầu tiên tại Việt Nam cho phép trẻ em từ 6 tuổi trở lên.
Bên cạnh đó, Grab hợp tác cùng ZaloPay cùng nhau thúc đẩy thanh toán không dùng tiền mặt lên một tầm cao mới. Đến cuối tháng 1, VNPay lọt vào top 1 ứng dụng miễn phí được tìm kiếm và sử dụng nhiều nhất trên cửa hàng ứng dụng App Store.
“Sự lạnh lẽo trên thị trường vốn mạo hiểm trong năm 2022 kéo theo sự ảm đạm chung của thị trường khởi nghiệp thế giới. Tuy nhiên, fintech vẫn là một điểm sáng, ghi nhận mức tăng trưởng đầu tư cao nhất trong năm.
Theo dự báo của Robocas Group, thị trường fintech Việt Nam có thể cán mốc 18 tỷ USD vào năm 2024”, báo cáo của Reputa nhấn mạnh.
Theo thống kê, hiện Việt Nam đang có khoảng hơn 40 ví điện tử và thị trường được đánh gia đang trong giai đoạn bùng nổ với 90% thị phần thuộc về 3 ví Momo, Moca và ZaloPay. Tiếp đến là các ví ShopeePay (AirPay), ViettelPay và VNPT Pay.
6 ví điện tử này cùng nhau chiếm tổng cộng 99% thị trường. Theo nghiên cứu của Decision Lab, cuối năm 2021, 56% dân số Việt Nam sử dụng Momo, ShopeePay (17%), ZaloPay (14%), ViettelPay (8%), Moca (2%) và VNPT Pay (1%).
Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer
Theo Bloomberg, Amazon đang đàm phán với các nhà mạng Verizon, Dish và T-Mobile (Mỹ) để cung cấp dịch vụ di động giá rẻ.
Amazon muốn cung cấp dịch vụ di động giá rẻ hoặc miễn phí
Bloomberg đưa tin Amazon cân nhắc cung cấp dịch vụ di động giá rẻ cho các thuê bao Prime của mình. Tin tức này đẩy giá cổ phiếu của các hãng viễn thông sụt giảm trong phiên giao dịch ngày 2/6. Ngay đầu phiên, cổ phiếu Verizon giảm hơn 4%, T-Mobile giảm 7%, AT&T giảm hơn 5%, song Dish lại tăng hơn 14%.
Theo Bloomberg, gã khổng lồ ngành bán lẻ muốn bán lại dịch vụ của Verizon, T-Mobile và Dish cho các thành viên Prime ở mức giá thấp hơn, thậm chí miễn phí. Các cuộc đàm phán đã diễn ra được khoảng 6 đến 8 tuần, bao gồm cả AT&T, song có thể mất vài tháng trước khi hoàn thiện kế hoạch.
Dù vậy, người phát ngôn Amazon cho biết, công ty luôn tìm cách mang đến nhiều lợi ích hơn cho thành viên Prime nhưng chưa có kế hoạch bổ sung dịch vụ di động vào lúc này.
Trước đây, Amazon từng thử sức trong mảng di động với mẫu điện thoại “yểu mệnh” Fire Phone ra mắt tháng 7/2014 và bị khai tử một năm sau đó.
Gần đây, công ty tập trung vào Internet tốc độ cao thông qua chương trình Kuiper với mục tiêu xây dựng mạng lưới 3.236 vệ tinh ở quỹ đạo thấp của Trái Đất.
Một gói cước di động sẽ giúp Amazon thu hút nhiều người đăng ký Prime hơn. Được tung ra năm 2005, Amazon Prime thu phí 139 USD mỗi năm để đổi lấy các quyền lợi như giao hàng miễn phí trong 2 ngày, truy cập chương trình và phim độc quyền, đặc quyền giao hàng Grubhub…
Hãng đang đối mặt với cạnh tranh khốc liệt từ chương trình khách hàng trung thành Walmart+ của Walmart, trong khi tăng trưởng người dùng cũng chậm lại. Tính đến tháng 4/2021, đã có hơn 200 triệu người dùng Prime.
Hợp tác với một nhà mạng như Verizon hay Dish, Amazon về cơ bản hoạt động như một nhà khai thác mạng riêng ảo (MVN). Thay vì sở hữu mạng di động riêng, họ sẽ mua dữ liệu từ một nhà mạng lớn hơn rồi bán lại cho khách hàng.
(Theo CNBC)
Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer
Sự kiện trò chơi Meta Quest 2023 đã tiết lộ một loạt trò chơi nổi tiếng sắp ra mắt phiên bản VR (thực tế ảo) vào cuối năm nay.
Công nghệ VR sẽ là tương lai của ngành game
Theo Engadget, Meta đã công bố một danh sách các trò chơi sắp ra mắt cho các kính VR độc lập của hãng, trong đó có cả Meta Quest 3 sắp ra mắt.
Apple dự kiến sẽ tham gia lĩnh vực thiết bị đeo thực tế ảo vào tuần tới, vì vậy Meta hy vọng sẽ tạo được ấn tượng lớn với người hâm mộ với hàng loạt tựa game VR sắp ra mắt từ các thương hiệu được yêu thích, nổi bật là Assassin’s Creed, Stranger Things, Ghostbusters và Attack on Titan.
Meta đã xác nhận rằng Assassin’s Creed Nexus VR sẽ ra mắt trên Meta Quest Store vào cuối năm nay. Nhưng các chi tiết còn lại chưa được tiết lộ và phải chờ đến sự kiện Ubisoft Forward được tổ chức vào ngày 12.6.
Một cái tên gây chú ý khác trong danh sách game VR sắp ra mắt là Stranger Things, phiên bản VR của trò chơi được phát triển bởi Tender Claws và từng được tiết lộ vào cuối năm 2022. Nhiều khả năng Stranger Things VR sẽ ra mắt vào mùa thu này trên các nền tảng VR lớn như Meta Quest Pro/ 3 / 2.
Bên cạnh đó, cũng có một IP mang tính biểu tượng được người hâm mộ mong chờ là Ghostbusters: Rise of the Ghost Lord. Trò chơi từng được công bố vào cuối năm 2022.
Ngoài những tên tuổi lớn, nền tảng thực tế ảo của Meta cũng sẽ chứng kiến nhiều trò chơi khác xuất hiện như The 7th Guest, Bulletstorm, PowerWash Simulator VR, I Expect You to Die 3: Cog in the Machine, Ghost Signal: A Stellaris Game, Underdogs, Silent Slayer: Vault of the Vampire, bản làm lại của Dreamcast Samba de Amigo.
Không dừng lại ở đó, các bản cập nhật lớn cho trò chơi có sẵn cũng sắp được phát hành. Chẳng hạn như game FPS Onward sắp nhận được bản cập nhật lớn 1.11 và nhiều hơn nữa.
Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer
Theo báo cáo mới nhất của Counterpoint Research, ngành công nghiệp điện thoại di động vẫn chưa thể thoát khỏi sự suy thoái do sụt giảm doanh thu. Năm 2023 nhiều khả năng ngành này sẽ tiếp tục đối mặt nhiều khó khăn.
Ngành công nghiệp điện thoại di động đang bước vào giai đoạn bão hoà
Dữ liệu mới nhất của Counterpoint Research cho thấy, tổng doanh số của ngành công nghiệp điện thoại di động toàn cầu trong quý I/2023 là 280,2 triệu chiếc, giảm 14% so với cùng kỳ năm ngoái (326,4 triệu trong quý I/2022).
Ngành công nghiệp di động đã bước vào giai đoạn trưởng thành và rất khó để các nhà sản xuất sử dụng hệ điều hành Android có khả năng bứt phá.
Sự suy thoái của ngành công nghiệp di động không phải là một chủ đề mới. Ngay từ trước khi dịch bệnh Covid-19 bùng phát, ngành công nghiệp này đã phải đối mặt với sự sụt giảm doanh số bán hàng.
Hiện nay, toàn bộ ngành công nghiệp điện thoại di động đã trải qua giai đoạn tăng trưởng nhanh chóng và bước vào thời kỳ bão hòa.
Điện thoại di động đã trở thành sản phẩm phổ biến, khó có thể xảy ra những đổi mới lớn, hướng cập nhật về cơ bản là cố định, không gì khác ngoài việc nâng cấp các kích thước hiện có như màn hình, chip và công nghệ hình ảnh để mang lại trải nghiệm tốt hơn.
Nếu không có những thay đổi quá lớn, người tiêu dùng sẽ không có lý do gì phải thay sang một chiếc điện thoại mới trong khi cái đang sử dụng vẫn dùng tốt.
Theo báo cáo của Counterpoint, năm 2023 nhiều khả năng không phải là thời kỳ tốt đẹp của ngành công nghiệp di động.
Đứng trước tình cảnh trên, các nhà sản xuất điện thoại di động liên tục tìm cách phá vỡ tình thế, tung ra các chiêu thức quảng cáo khác nhau trên thị trường điện thoại di động và sự ra đời liên tục của các sản phẩm điện thoại di động đều phản ánh sự lo lắng của các thương hiệu.
Lý do chính dẫn đến sự sụt giảm của ngành là tốc độ tăng trưởng thấp. Tuy nhiên, xét theo góc độ của thị trường chứng khoán, điện thoại di động vẫn là sản phẩm điện tử tiêu dùng lớn nhất trên thị trường hiện tại và tương lai, với số lượng xuất xưởng hằng năm trên 1 tỷ chiếc, đủ khiến các ngành khác phải ghen tị.
Bất chấp sự xuất hiện của các khái niệm mới như kính thông minh và AR/VR, chúng vẫn không thể làm lay động được vị trí của điện thoại di động. Ngay cả khi tương lai là một thế giới có ngôi nhà thông minh và mọi thứ được kết nối, thì điện thoại di động rất có thể vẫn là thiết bị trung tâm quan trọng nhất.
Nghĩ tích cực hơn thì trong năm 2023, các nhà sản xuất điện thoại sẽ tiếp tục nỗ lực cho ra sản phẩm, liên tục đổi mới cấu hình, giá bán không ngừng tăng.
Chúng ta có thể không mua được những sản phẩm điện thoại đột phá và sáng tạo lý tưởng, nhưng chúng ta có thể có những lựa chọn với cấu hình sang trọng hơn và hiệu suất cao hơn. Đối với những người tiêu dùng thực tế, đây chắc chắn là một tin vui.
Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer
Ella Irwin, Giám đốc phụ trách kiểm duyệt nội dung và chính sách tại Twitter và là một trong những nhân sự ủng hộ Elon Musk tích cực nhất, đã từ chức.
Người đứng đầu bộ phận kiểm duyệt nội dung của Twitter từ chức
Với tư cách là người đứng đầu bộ phận Tin cậy và An toàn, Irwin trực tiếp giám sát các chính sách của Twitter về quấy rối, ngôn từ kích động thù địch và nội dung bạo lực.
Những quy tắc này đã được nới lỏng dưới thời Elon Musk, và trong khi nhiều nhân viên và cựu nhân viên Twitter phản đối cách làm này, Irwin ủng hộ.
Cựu Giám đốc cũng là người trực tiếp đình chỉ nhiều tài khoản và đưa ra phản hồi công chúng về việc chặn tài khoản người dùng.
Fortune đưa tin Irwin từ chức ngày 2/6. Cựu Giám đốc sau đó đã xác nhận thông tin này với báo chí.
Theo Bloomberg, những người đã và đang làm việc tại Twitter cho biết Irwin là một trong những quản lý cấp cao được Musk tin cậy nhất, do sẵn sàng thực hiện và bảo vệ các quyết định của tỷ phú về kiểm duyệt nội dung và quản lý công ty, trong khi nhiều nhóm nhân sự bất mãn với việc sa thải hàng loạt và thay đổi các chính sách liên quan đến nội dung và vận hành.
Sự trung thành này đã làm tăng vị thế của Irwin tại Twitter, nhưng chính sách nội dung dưới tay Musk và Irwin khiến một số nhà quảng cáovà người dùng xa lánh nền tảng, với lý do Twitter ngày càng xuất hiện nhiều nội dung thù địch. Kể từ tháng 10/2022, doanh thu quảng cáo của Twitter đã giảm 50%, Musk cho biết vào tháng 3.
Irwin là người thứ hai phụ trách bộ phận Tin cậy và An toàn tại Twitter từ chức kể từ khi Musk tiếp quản. Người đầu tiên, Yoel Roth, rời đi vào tháng 11/2022.
Sau khi rời đi, Roth là người chỉ trích mạnh mẽ các chính sách mới của Twitter về nội dung, thậm chí nói rằng với cách điều hành theo cảm tính của Musk, vị trí này tại Twitter là vô nghĩa.
Theo TechCrunch, Roth xung đột với Musk về cách tiếp cận kiểm duyệt nội dung, cho rằng cách làm của sếp mới là tùy tiện, trong khi Irwin tỏ ra phù hợp với lý tưởng của Musk trong việc nới lỏng kiểm duyệt phát ngôn thù địch.
Chưa rõ lý do Irwin từ chức. Cựu Giám đốc bắt đầu làm việc tại mạng xã hội Twitter vào tháng 6/2022, một vài tháng trước khi thương vụ mua lại trị giá 44 tỷ USD của Musk khép lại.
Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer
Khi người tiêu dùng ngày càng có xu hướng mong muốn tương tác trực tiếp với thương hiệu ngay cả khi họ mua hàng trực tuyến, tiếp cận bán hàng đa kênh (omni channel) là chiến lược ưu tiên hàng đầu.
omnichannel sales: Thúc đẩy doanh số bán hàng bằng chiến lược đa kênh
Theo số liệu mới đây từ Google, có đến 59% người tiêu dùng muốn đến cửa hàng để xem hoặc chạm vào sản phẩm ngay cả khi họ sẽ mua hàng trực tuyến, con số này cao hơn so với năm 2022.
Trong khi khách hàng hiện đại ngày nay mua sắm trên web, ứng dụng (app) và cả tại cửa hàng, họ mong đợi những trải nghiệm nhất quán trên mỗi kênh.
Đối với các thương hiệu hay người làm marketing, điều này có nghĩa là để thúc đẩy doanh số bán hàng cả trực tuyến (online) lẫn ngoại tuyến (offline), một chiến lược marketing đa kênh là ưu tiên hơn cả.
Hãy giúp khách hàng trực tuyến tìm thấy cửa hàng một cách dễ dàng.
Ngay cả khi người mua sắm có ý định mua hàng tại cửa hàng, họ vẫn thường truy cập các nền tảng trực tuyến của thương hiệu để cập nhật và tìm kiếm các thông tin cần thiết như các chương trình khuyến mãi hay địa chỉ cửa hàng.
Bằng cách tiếp cận khách hàng trực tuyến và cho họ thấy bạn có những thứ mà họ đang tìm kiếm, bạn có thể thúc đẩy hơn nữa doanh số bán hàng tại các cửa hàng.
Cập nhật đầy đủ hồ sơ doanh nghiệp trên Google (Google Business Profile) và các sản phẩm tại cửa hàng (in-store).
Doanh nghiệp có thể giúp những người mua sắm trên Google Search và Google Maps bằng cách cập nhật đầy đủ hồ sơ doanh nghiệp (Google Business) với các thông tin cơ bản như giờ mở cửa, vị trí, hình ảnh, v.v.
Bạn cũng có thể cập nhật và giới thiệu các sản phẩm hiện có tại cửa hàng của mình từ tài khoản doanh nghiệp, điều này giúp khách hàng xác định được những sản phẩm đang khả dụng trước khi ghé thăm cửa hàng.
Sử dụng quảng cáo kỹ thuật số để thúc đẩy doanh số tại cửa hàng.
Để thúc đẩy doanh số bán hàng tại cửa hàng, bạn có thể sử dụng các chiến dịch quảng cáo trực tuyến (Digital Ads) với các công cụ và chiến lược phù hợp, gửi đúng thông điệp tới đúng người mua sắm vào đúng thời điểm họ trực tuyến.
Tận dụng kiểu chiến dịch tối đa hóa hiệu suất cho mục tiêu cửa hàng.
Các kiểu chiến dịch tối đa hoá hiệu suất (Performance Max) cho mục tiêu cửa hàng hiện có trong Google Ads có thể giúp thương hiệu tiếp cận khách hàng tiềm năng trên quy mô lớn và tăng số lượt ghé thăm cửa hàng từ hầu hết các nền tảng của Google như Google Search, Gmail, YouTube, Google Maps và cả GDN (mạng lưới quảng cáo hiển thị của Google).
Nhà quảng cáo cũng có thể sử dụng công cụ lập kế hoạch hiệu suất để xây dựng kế hoạch chi tiêu quảng cáo đồng thời đánh giá mức độ ảnh hưởng của việc điều chỉnh chiến dịch đến các chỉ số chính và hiệu suất tổng thể.
Khai thác quảng cáo kho hàng tại địa phương.
Có đến 50% người tiêu dùng tại các thị trường được khảo sát cho biết họ đã kiểm tra tình trạng còn hàng hay không của sản phẩm trước khi đến cửa hàng.
Kiểu chiến dịch quảng cáo kho hàng tại địa phương (Local Inventory Ads) giúp giới thiệu các sản phẩm còn hàng tại cửa hàng cho những người mua sắm tìm kiếm trên Google.
Bằng cách sử dụng kiểu quảng cáo này, các marketer có thể giúp những người mua sắm tại địa phương xác nhận rằng các cửa hàng mà họ sẽ đến hiện đang có (chính xác) những gì mà họ cần.
Sử dụng chiến lược đặt giá thầu thông minh cho lượt ghé thăm cửa hàng hoặc lượt chuyển đổi bán hàng tại cửa hàng.
Nếu ưu tiên của bạn là tăng lượng người ghé thăm cửa hàng, thì hãy sử dụng chiến lược đặt giá thầu thông minh cho lượt ghé thăm cửa hàng trong các kiểu Chiến dịch tìm kiếm, Chiến dịch mua sắm và Chiến dịch thúc đẩy hành động qua video.
Để tăng doanh số bán hàng tại các cửa hàng, hãy sử dụng chiến lược đặt giá thầu thông minh cho doanh số bán hàng tại cửa hàng (Store Sales) để tối ưu hóa giá thầu cho các giao dịch thực tế tại cửa hàng.
Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer
Thông qua một hợp tác với công ty nghiên cứu thị trường Nielsen, Meta, công ty mẹ của Facebook đã chia sẻ một số insights mới về hiệu suất quảng cáo video.
Facebook chia sẻ một số insights mới về hiệu suất quảng cáo video
Nghiên cứu mới của Meta hướng tới việc xem xét hiệu quả ngắn hạn và dài hạn của các chiến dịch quảng cáo video trên Facebook, bao gồm cả định dạng video ngắn Reels.
Bằng cách hợp tác của Nielsen, Meta đã phân tích hàng hoạt các thương hiệu FMCG ở khu vực Châu Á Thái Bình Dương (APAC) trong khoảng thời gian 3 năm, mục tiêu chính là tìm hiểu xem cách các quảng cáo của Meta đã giúp các doanh nghiệp tăng trưởng, cũng như tối đa hoá chi tiêu quảng cáo.
Dưới đây là một số điểm đáng chú ý từ nghiên cứu:
Quảng cáo của Meta tạo ra lợi tức chi tiêu quảng cáo (ROAS) cao hơn 30% so với chiến dịch quảng cáo trên TV.
Định dạng quảng cáo video mang lại lợi tức chi tiêu quảng cáo cao nhất, trong đó Reels và các video ngắn mang lại hiệu suất tương tác tốt nhất.
Video ngắn hơn 15 giây hoạt động rất hiệu quả cho các chiến dịch quảng cáo với nội dung khuyến mãi.
ROAS trong ngành hàng F&B (Food & Beverage) từ Meta cao hơn 40% so với quảng cáo trên TV, với ngành hàng chăm sóc sức khoẻ và sắc đẹp và 18%.
Để giúp các nhà quảng cáo có thể tối đa hoá hiệu suất của các chiến dịch quảng cáo video trên Meta, Nielsen cũng đã nhận diện và phân tích mức độ ảnh hưởng của nhiều yếu tố khác nhau trong cách xây dựng nội dung và phân phối quảng cáo:
Nhắm mục tiêu (Targeting) rộng theo đối tượng có thể giúp tăng thêm 2+% hiệu quả. Các nhóm tuổi nên có ít nhất là 3 nhóm.
Tần suất phân phối quảng cáo > 2.25 có thể tăng thêm 80% hiệu quả.
Vị trí hiển thị quảng cáo (placement) từ 6 nơi trở lên có thể giúp tăng thêm 3% hiệu suất.
Các chiến dịch quảng cáo dài hơn (từ 7+ tuần) giúp tăng thêm 17% hiệu quả.
Quảng cáo video có âm thanh giúp tăng thêm 53% hiệu suất.
Các video ngắn (dưới 15 giây) có thể giúp tăng thêm 76% hiệu quả.
Ngoài ra, nghiên cứu cũng thể hiện rằng, cách tiếp cận theo hướng Marketing Mix có thể giúp tối đa hoá hiệu quả của các hoạt động marketing.
Meta, công ty mẹ của Facebook cho biết sẽ chặn người dùng ở California chia sẻ link báo chí nhằm phản đối đề xuất các mạng xã hội phải trả tiền cho nhà xuất bản.
Facebook sẽ chặn các liên kết báo chí nếu buộc nền tảng này phải trả phí
Ngày 31/5, Meta cho biết công ty sẽ chặn bất cứ liên kết báo chí nào được chia sẻ lên các nền tảng của hãng như Facebook và Instagram nếu Đạo luật Bảo tồn và Cạnh tranh Báo chí California được phê duyệt.
Dự luật được bang California đề xuất từ năm ngoái, yêu cầu các nền tảng trực tuyến phải trả “phí sử dụng báo chí” cho nhà cung cấp tin tức.
“Chúng tôi sẽ xem xét việc xóa liên kết tin tức khỏi nền tảng nếu dự luật được thông qua”, Andy Stone, người phát ngôn của Meta, cho biết.
Trên Twitter cùng ngày, Stone nói dự luật chủ yếu mang lại lợi ích cho các công ty truyền thông “dưới chiêu bài hỗ trợ các nhà xuất bản ở California”.
“Dự luật không công nhận thực tế rằng các nhà xuất bản lẫn đài truyền hình đang tự đưa nội dung của họ lên nền tảng của chúng tôi. Trong khi đó, lĩnh vực tin tức tại California đã có từ lâu, rất lâu trước khi Facebook được sử dụng rộng rãi ở đây”, ông viết.
Tháng 2/2021, Facebook cũng từng chặn hiển thị các trang tin tức tại Australia để phản đối Quốc hội nước này xem xét thông qua dự luật Đàm phán Truyền thông Tin tức, trong đó yêu cầu Google, Facebook trả tiền cho báo chí Australia.
Khi đó, các nhà xuất bản, cơ quan báo chí ở Australia không thể đăng link lên Facebook, còn người dùng nước này cũng không thể chia sẻ và xem tin bài, kể cả trong nước và quốc tế trên Facebook. Sau thời gian ngắn, Facebook bỏ chặn khi đạt được thỏa thuận với chính phủ Australia.
Đầu năm nay, Meta lại dọa cấm người dùng Canada chia sẻ liên kết báo chí lên nền tảng nếu Đạo luật Tin tức trực tuyến (C-18) của nước này được chấp thuận.
Động thái của Meta được đánh giá có thể phản tác dụng. “Đó là chiến thuật gây sợ hãi mà Meta đang cố gắng triển khai, nhưng có thể không thành công ở mọi quốc gia”, Buffy Wicks, thành viên đảng Dân chủ và hiện phục vụ trong chính quyền bang California, nói.
“Thật nghiêm trọng khi một trong những công ty giàu có nhất thế giới thà chặn báo chí hơn là đối mặt với các quy định”.
“Cấm nội dung là sự thua cuộc đối với cả mạng xã hội Facebook lẫn nhà xuất bản”, Jasmine Enberg, nhà phân tích truyền thông xã hội của Insider Intelligence, nhận xét. “Tin tức tạo ra rất nhiều tương tác trên Facebook và mang lại cho họ tiền quảng cáo”.
Meta được đánh giá đang trong giai đoạn “dễ bị tổn thương” khi doanh thu liên tục giảm do các công ty thắt chặt chi tiêu quảng cáo trên Facebook và Instagram cũng như quy định mới về quyền riêng tư từ Apple hạn chế người dùng tiếp cận quảng cáo.
Ngoài ra, chiến lược theo đuổi metaverse của CEO Mark Zuckerberg cũng gây thiệt hại hàng chục tỷ USD. Từ nửa cuối năm ngoái đến nay, công ty đã sa thải hơn 20.000 nhân viên, đồng thời dự báo “thách thức kinh tế vẫn còn tiếp diễn”.
Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer
Doanh nghiệp do người Việt nắm 51% cổ phần song lại được các “công ty liên quan” ở nước ngoài liên tục cho vay hàng nghìn tỷ đồng không lãi suất; càng mở rộng quy mô càng thua lỗ nhưng vẫn chuyển hàng trăm tỷ đồng phí bản quyền, phí quản lý ra nước ngoài cho các “công ty liên quan”… là những vấn đề đáng chú ý tại Grab Việt Nam.
Grab Việt Nam: Lỗ hàng ngàn tỷ nhưng vẫn chuyển nhiều tỷ tiền bản quyền ra nước ngoài
Grab Việt Nam – Càng mở rộng, càng thua lỗ.
Trong số báo ra ngày 22/5/2023, Báo Đầu tư Chứng khoán đăng tải bài viết “Đằng sau khoản lỗ hơn 4.000 tỷ đồng của Grab Việt Nam”, phản ánh câu chuyện kinh doanh của Công ty TNHH Grab (gọi tắt là Grab, Grab Việt Nam), công ty liên quan của “ông lớn” công nghệ GrabTaxi Holdings Pte Ltd (trụ sở chính ở Singapore).
Theo đó, từ một công ty có doanh thu 1,5 tỷ đồng vào năm 2014, đến năm 2022, Grab đã có quy mô 6.384 tỷ đồng doanh thu, đồng thời thống lĩnh thị trường xe công nghệ tại Việt Nam, với trên 70% thị phần gọi xe đến từ hơn 30 triệu khách hàng, chưa kể các mảng giao đồ ăn nhanh, giao hàng, đi chợ hộ…
Trong khi không ngừng mở rộng quy mô, thống lĩnh thị trường, “ông lớn” xe công nghệ này ngày càng thua lỗ. Tại thời điểm cuối năm 2022, Grab có khoản lỗ luỹ kế hơn 4.036 tỷ đồng, vốn chủ sở hữu âm 4.016 tỷ đồng, gấp hơn 200 lần vốn điều lệ.
Vì sao Grab Việt Nam thua lỗ và vì sao lỗ lớn nhưng vẫn mở rộng được?
Lần theo dấu dòng tiền của Công ty TNHH Grab thì thấy rằng, tuy vốn góp chủ sở hữu chỉ 20 tỷ đồng, song Công ty vẫn có nguồn vốn “khủng” để hoạt động – chủ yếu đến từ các khoản cho vay không lãi suất của Công ty GrabTaxi Holdings Pte Ltd (trụ sở ở Singapore) và Grab Inc (trụ sở tại Cayman Island, nước Anh). Báo cáo tài chính các năm của Grab thể hiện hai công ty này là “công ty liên quan”.
Nếu như cuối năm 2018, tổng giá trị khoản vay là 2.705 tỷ đồng thì sang năm 2019, con số tăng lên 5.711 tỷ đồng, năm 2020 là 5.189 tỷ đồng, năm 2021 là 4.278 tỷ đồng và cuối năm 2022 là 4.388 tỷ đồng.
Với nguồn vốn dồi dào, lại không phải trả lãi suất, Grab Việt Nam tung ra nhiều chương trình khuyến mãi, thúc đẩy bán hàng nên doanh thu tăng trưởng mạnh mẽ qua các năm.
Tuy nhiên, chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp rất lớn đã khiến “ông lớn” xe công nghệ liên tục thua lỗ. Giai đoạn 2018 – 2022, chi phí này lần lượt là 1.816 tỷ đồng, 3.145 tỷ đồng, 2.280 tỷ đồng, 2.339 tỷ đồng và 3.722 tỷ đồng.
Đáng lưu ý, một số tiền khá lớn gọi là “phí quản lý”, “phí bản quyền”, “phải trả khác” được Grab Việt Nam trả cho GrabTaxi Holdings Pte. Ltd và Grab Inc, lên đến hàng trăm tỷ đồng. Đơn cử, năm 2019, phí bản quyền phải trả là 25 tỷ đồng; năm 2021, phí bản quyền là 67,58 tỷ đồng, ngoài ra còn có phí quản lý 314,4 tỷ đồng và phải trả khác 37 tỷ đồng…
Báo cáo tài chính của Grab Việt Nam cho thấy, hiện Công ty chỉ nộp một số khoản thuế gồm: thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập cá nhân, thuế nhà thầu nước ngoài, thuế trả hộ tài xế.
Theo đà tăng trưởng “thần tốc” của Grab, các khoản thuế này tăng nhanh qua các năm: Năm 2017 là 198 tỷ đồng, năm 2019 là 814 tỷ đồng, năm 2021 là 1.035 tỷ đồng… Về bản chất, đây là những khoản thuế có tính chất thu hộ do Grab thu từ khách hàng, tài xế, nhân viên, nhà thầu rồi nộp cho cơ quan thuế Việt Nam.
Grab Việt Nam chưa nộp khoản thuế thu nhập doanh nghiệp là 20% do quy định, nếu doanh nghiệp thua lỗ thì không phải nộp thuế thu nhập doanh nghiệp. Khi nào có lãi thì được kết chuyển lỗ từ các năm trước sang, trong thời hạn tối đa 5 năm.
Vì thế, trong suốt 9 năm hoạt động tại Việt Nam (thành lập tháng 2/2014), chỉ có 2 năm Grab có lãi là năm 2020 (lãi 243,4 tỷ đồng) và năm 2022 (lãi 329 tỷ đồng).
Báo cáo lưu chuyển tiền tệ của doanh nghiệp trong 5 năm gần đây (2018 – 2022) cho thấy, doanh nghiệp không phải nộp một đồng thuế thu nhập doanh nghiệp nào.
Công ty liên quan “ưu ái” bất ngờ.
Grab Việt Nam có hoạt động đáng chú ý. Thứ nhất, ông Nguyễn Tuấn Anh, trước đây là Chủ tịch Hội đồng thành viên (sau này chuyển nhượng vốn cho bà Lý Thụy Bích Huyền) góp vốn 10,2 tỷ đồng, đủ để nắm tỷ lệ sở hữu 51%, sau đó cả hai người này đều vay lại Công ty TNHH Grab đúng số tiền đã góp vốn đó.
Đây là hai cá nhân còn khá trẻ, bà Bích Huyền chỉ là lãnh đạo cấp thấp của Grab Việt Nam (Trưởng phòng Kinh doanh).
Cơ sở nào để GrabTaxi Holdings Pte. Ltd và Grab Inc cho vay vài nghìn tỷ đồng không lãi suất để vận hành một công ty càng kinh doanh càng lỗ?
Thứ hai, thường xuyên thua lỗ nhưng Grab Việt Nam vẫn chuyển hàng trăm tỷ đồng phí bản quyền, phí quản lý, phải trả khác ra nước ngoài cho GrabTaxi Holdings Pte. Ltd và Grab Inc.
Bình luận về việc này, luật sư Nguyễn Thế Truyền, Giám đốc Công ty Luật hợp danh Thiên Thanh (Đoàn luật sư TP. Hà Nội) cho biết: “Grab Việt Nam không phải công ty đại chúng nên không có nghĩa vụ công khai báo cáo tài chính hàng năm.
Grab cũng không thuộc đối tượng doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (ban đầu là công ty 100% sở hữu của người Việt, sau đó nhà đầu tư nội chuyển nhượng cổ phần cho nhà đầu tư nước ngoài và nhà đầu tư nước ngoài hiện nắm dưới 51% cổ phần) nên không phải xin giấy phép đầu tư, không thuộc diện bắt buộc phải kiểm toán hàng năm. Đây là lý do khó kiểm soát hoạt động của doanh nghiệp này”.
Còn theo một chuyên gia kiểm toán, việc Grab Việt Nam chuyển hàng trăm tỷ đồng về cho công ty mẹ hoặc công ty liên quan trong khi thua lỗ nặng nề là một dấu hiệu đáng chú ý.
Việc chuyển một số tiền lớn ra khỏi công ty liên quan đến thu nhập chịu thuế của doanh nghiệp, nên cần làm rõ những khoản đó có hợp lý, hợp lệ không?
Cơ quan thuế có ý kiến gì khi thanh kiểm tra công ty này không? Chuyện doanh nghiệp chuyển vay ngoại hối về và chuyển tiền ra ngoài, ngân hàng quản lý thế nào?”, vị chuyên gia nêu vấn đề.
Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer
Tài sản của CEO Tesla Elon Musk vượt ông chủ LVMH Bernard Arnault sau khi cổ phiếu LVMH giảm 2,6% phiên hôm qua.
Elon Musk lại trở thành người giàu nhất thế giới (vượt qua ông chủ LVMH)
Theo Bloomberg Billionaires Index, Elon Musk hiện sở hữu 192 tỷ USD, tăng 2 tỷ USD sau phiên giao dịch 31/5. Trong khi đó, ông trùm hàng xa xỉ Bernard Arnault chỉ có 187 tỷ USD, giảm 5,25 tỷ USD. Nguyên nhân là cổ phiếu LVMH giảm 2,6% trên sàn Paris hôm qua.
Ông chủ Twitter theo đó đã lấy lại ngôi giàu nhất thế giới từ tay Arnault. Tài sản của Arnault vượt lên từ tháng 12/2022, do nhóm cổ phiếu công nghệ lao dốc vì lãi suất cao và thế giới dần quay về trạng thái bình thường sau đại dịch.
Trong khi đó, nhóm hàng xa xỉ lại trụ vững trong thời kỳ lạm phát cao. LVMH sở hữu nhiều thương hiệu tên tuổi như Louis Vuitton, Fendi và Hennessy.
Tuy nhiên, khi tăng trưởng kinh tế toàn cầu gần đây có nhiều dấu hiệu chậm lại, đặc biệt là tại Trung Quốc, niềm tin vào động lực của hàng xa xỉ dần đi xuống. Cổ phiếu LVMH đã giảm 10% kể từ tháng 4. Có thời điểm, tài sản của Arnault giảm 11 tỷ USD chỉ trong một ngày.
Châu Á và Mỹ hiện là các thị trường quan trọng của ngành hàng xa xỉ châu Âu. Theo báo cáo năm ngoái của LVMH, châu Á (trừ Nhật Bản) đóng góp 30% doanh thu cho hãng. Tỷ lệ này của Mỹ là 27%.
Ngược lại, Musk đã có hơn 55,3 tỷ USD năm nay, chủ yếu nhờ Tesla. Cổ phiếu hãng xe điện đóng góp 71% tài sản cho tỷ phú. Mã này đã tăng 66% năm nay.
Musk tuần này có chuyến công tác tại Trung Quốc. Từ khi đặt chân đến Bắc Kinh hôm 30/5, ông đã gặp Bộ trưởng Ngoại giao, Bộ trưởng Thương mại và Bộ trưởng Công nghiệp Trung Quốc. Ông cũng ăn tối với Zeng Yuqun – Chủ tịch hãng sản xuất pin CATL.
Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer
Google vừa thông báo mở rộng chương trình huấn luyện các kỹ năng kỹ thuật số dành cho SMEs (các doanh nghiệp vừa và nhỏ), cung cấp những sự hỗ trợ và tư vấn về Digital Marketing miễn phí cho các doanh nghiệp tại Mỹ.
Theo Google, mục tiêu chính của chương trình là kết nối các SMEs với các chuyên gia trong khu vực của họ, nhằm giúp họ điều hướng các khía cạnh khác nhau của hoạt động kinh doanh trực tuyến và tối đa hóa nhận thức về thương hiệu (Brand Awareness).
Được ra mắt lần đầu tiên vào năm 2019, Google hiện đang mở rộng chương trình tới nhiều các khu vực mới như Georgia, Iowa, Michigan, North Carolina, Ohio, Oklahoma, Oregon, Pennsylvania, South Carolina và Virginia.
Theo giải thích của Google:
“Những huấn luyện viên sẽ làm việc trực tiếp với các doanh nghiệp ở khu vực của họ, tập trung vào những doanh nghiệp hoạt động ở các khu vực nhỏ và cộng đồng nông thôn.
Các buổi hội thảo sẽ được tổ chức liên tục với các chủ đề được thiết kế hướng tới mục tiêu giúp các doanh nghiệp nhỏ phát triển tốt hơn, bao gồm cả việc sử dụng Digital Marketing để kết nối với khách hàng, bán hàng trực tuyến và cải thiện năng suất – tất cả đều là miễn phí.”
Tất nhiên, lợi ích mà Google có được là doanh nghiệp sẽ chi tiêu quảng cáo nhiều hơn nếu nó thực sự mang lại hiệu quả cho doanh nghiệp.
Google cho biết cho đến nay, nền tảng đã giúp hơn 160.000 doanh nghiệp nhỏ đạt được các kỹ năng mới và việc mở rộng mới này có thể giúp con số đó tăng lên nhanh chóng hơn, giúp nhiều doanh nghiệp dễ dàng hơn trong quá trình chuyển đổi kỹ thuật số.
Bạn có thể tìm hiểu thêm về chương trình Grow with Google Digital Coaches tại đây.
Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer
Doanh nghiệp, nhất là startup, muốn thành công khi tung sản phẩm, dịch vụ ra thị trường, cần quan tâm đến hai yếu tố then chốt nhất, đó là thời điểm và tốc độ. Tuy nhiên, không phải cứ chạy thật nhanh và đúng thời điểm là đã đủ, vì mọi nỗ lực là vô ích nếu chạy không đúng hướng hay nói cách khác là sai chiến lược.
Chiến lược tìm kiếm và xác định cơ hội thị trường
Với tư cách là những người làm marketing, việc tìm ra được phương án điều hướng, xác định thị trường tiềm năng để tìm đúng “sân chơi” là rất cần thiết.
Dù vậy, xác định cơ hội hoặc nhóm cơ hội thị trường tiềm năng không dễ, khi công việc này đòi hỏi kỹ năng quan sát, thực nghiệm và cả xây dựng mối quan hệ để có thể hiểu được nhu cầu của khách hàng cũng như biết cách thỏa mãn chúng. Trong khi cải thiện các kỹ năng này, công cụ điều hướng cơ hội thị trường là một lựa chọn tốt nhất.
Được xây dựng bởi Marc Gruber và Sharon Tal, công cụ này giúp trả lời ba câu hỏi: Có những cơ hội thị trường nào? Đâu là cơ hội thị trường tiềm năng nhất? Nên tập trung vào cơ hội thị trường nào?
Tương ứng với ba câu hỏi này là ba bước trọng tâm, gồm lập nhóm cơ hội thị trường, đánh giá mức độ hấp dẫn của từng cơ hội, lập kế hoạch kinh doanh linh hoạt.
Lập nhóm cơ hội thị trường.
Có hai bước cần thực hiện để tạo lập các nhóm cơ hội thị trường tiềm năng:
Thứ nhất, doanh nghiệp cần hiểu rõ năng lực hoặc thế mạnh công nghệ mà mình sở hữu, bởi đó là nền tảng cho quy trình tìm kiếm và tạo lập cơ hội thị trường.
Theo hai tác giả của bộ công cụ trên, việc suy nghĩ cũng như mô tả thế mạnh công nghệ và năng lực sẽ giúp doanh nghiệp nghĩ ra được nhiều cách ứng dụng hơn, đồng thời nâng cao sự linh hoạt trong tư duy của người làm kinh doanh.
Một ví dụ cho thấy tầm quan trọng của việc nhìn nhận đúng bản chất của năng lực và thế mạnh công nghệ, qua đó tìm được cơ hội mới, là trường hợp của Flickr. Thành lập năm 2002, Flickr tung ra sản phẩm là một trò chơi điện tử trực tuyến cho phép người chơi tương tác qua tin nhắn theo thời gian thực.
Một tính năng nổi bật của nó là người chơi có thể chia sẻ hình ảnh khi trò chuyện. Tính năng này ngày càng cho thấy giá trị và đã trở nên phổ biến hơn cả chính trò chơi mà nó thuộc vào. Kết quả, Flickr đã ngừng phát hành trò chơi để tập trung phát triển một website hoàn toàn mới dùng để chia sẻ hình ảnh.
Thứ hai, hãy suy nghĩ xem năng lực và thế mạnh công nghệ đã liệt kê ở bước thứ nhất được sử dụng vào việc gì, bằng cách kết hợp chúng hoặc với công nghệ khác. Một ví dụ cho thấy tiềm năng ứng dụng bằng cách kết hợp các thế mạnh công nghệ là Fujifilm.
Ban đầu, tập đoàn này sản xuất phim chụp ảnh tại Nhật Bản và phát triển chủ yếu dựa trên việc kinh doanh sản phẩm này. Qua nhiều thập niên, mọi thứ liên quan đến phim chụp ảnh, từ nguyên liệu thô, quy trình đến hệ thống sản xuất, Fujifilm đã trở thành chuyên gia trong nhiều lĩnh vực khác thuộc ngành công nghệ vật liệu. Kết hợp thế mạnh này với những công nghệ mới, Fujifilm đã dấn thân vào ngành dược phẩm, mỹ phẩm, y tế và đều thành công.
Sau khi đã khám phá ra các ứng dụng trên, hãy trả lời câu hỏi “Ai cần đến những ứng dụng này?”, từ đó xác định nhóm khách hàng. Các nhóm khách hàng có thể được chia nhỏ hơn để tìm kiếm thêm cơ hội bán hàng.
Theo đó, sợi dây liên kết giữa những ứng dụng vừa tìm được và nhóm khách hàng chính là cơ hội thị trường. Và nhóm cơ hội thị trường sẽ là đối tượng được đánh giá mức độ hấp dẫn ở bước kế tiếp.
Đánh giá mức độ hấp dẫn của cơ hội.
Sau khi đã hoàn thành việc tạo lập nhóm cơ hội thị trường, doanh nghiệp cần tiếp tục đánh giá mức độ hấp dẫn của chúng dựa trên tiềm năng và thách thức.
Mỗi khía cạnh ấy bao gồm ba tiêu chí tương ứng, đi cùng một danh sách câu hỏi để làm rõ vấn đề, sau đó tổng hợp lại để xếp loại chung cuộc cho từng cơ hội thị trường.
Theo Gruber và Tal, những tiêu chí nói trên sẽ mang đến góc nhìn toàn diện về những yếu tố chính khi đánh giá mức độ hấp dẫn của một cơ hội thị trường.
Sau khi trả lời những câu hỏi thuộc về mỗi tiêu chí trong hai khía cạnh, hãy cho điểm đánh giá theo thang từ “thấp” đến “rất cao”.
Về “tiềm năng”, có ba tiêu chí cần quan tâm: lý do thuyết phục mua sản phẩm, quy mô thị trường, khả năng phát triển kinh doanh.
Đầu tiên, nếu “lý do thuyết phục mua sản phẩm” yếu, hãy mạnh dạn lựa chọn phương án khác. Và để đánh giá được sức mạnh của lý do thuyết phục mua sản phẩm, có ba câu hỏi cần lời đáp: Có nhu cầu nào chưa được đáp ứng?
Có thể cung cấp giải pháp hiệu quả cho nhu cầu chưa được đáp ứng hay không? Giải pháp ấy có thể tốt hơn (nhiều) các giải pháp hiện tại không?
Thứ hai, thỏa mãn nhu cầu thực tế là điều kiện quan trọng để tạo ra giá trị sản phẩm, song “quy mô thị trường” sẽ quyết định việc bán sản phẩm tới mức độ nào.
Để hiểu quy mô thị trường, cần ước tính có bao nhiêu khách hàng cần nhu cầu này trong tương lai gần, cùng số tiền họ sẵn sàng chi trả. Đồng thời, chính thị trường sẽ cung cấp chỉ báo cho thấy cơ hội thị trường lớn hay nhỏ.
Dù vậy, cần biết rằng, một thị trường không lớn vẫn có thể là một lựa chọn thú vị, đặc biệt nếu nó có thể trở thành bàn đạp hướng tới một thị trường lớn hơn sau này. Để đánh giá tiêu chí này, hãy tìm lời đáp cho hai câu hỏi: Quy mô thị trường hiện tại là bao nhiêu? Quy mô thị trường sẽ tăng bao nhiêu theo thời gian?
Thứ ba, “khả năng phát triển kinh doanh” đề cập đến các yếu tố cơ bản ảnh hưởng đến giá trị kinh tế của cơ hội thị trường. Tại thời điểm đánh giá, việc lập kế hoạch tài chính chi tiết (có ước tính lãi lỗ trong 3-5 năm) thường không khả thi, do phần lớn thông tin cho một kế hoạch như vậy là quá mơ hồ.
Thay vào đó, có thể hiểu về khả năng phát triển kinh doanh của một cơ hội thị trường bằng cách trả lời ba câu hỏi: Lợi nhuận có lớn không? Khách hàng có được tài trợ tốt để trả giá không? Khách hàng sẽ trung thành như thế nào?
Ngược lại, về khía cạnh “thách thức”, ba tiêu chí cần quan tâm, gồm trở ngại trong khi triển khai, thời gian chờ doanh thu, nguy cơ từ bên ngoài.
Để đánh giá những “trở ngại trong khi triển khai”, có ba câu hỏi quan trọng cần giải đáp: Khó khăn như thế nào khi phát triển sản phẩm? Khó khăn như thế nào khi tiếp cận thị trường? Khó khăn như thế nào trong việc gây quỹ cho lựa chọn này?
Với “thời gian chờ doanh thu”, cần khẳng định, việc sở hữu dòng tiền dương chắc chắn là chìa khóa để sống sót khi khởi nghiệp. Do đó, tốc độ để tạo ra dòng tiền thông qua bán hàng là vấn đề cần nhiều sự quan tâm.
Để ước tính thời gian mang lại doanh thu cho một cơ hội thị trường, cần xem xét ba câu hỏi: Thời gian ước tính để phát triển là bao lâu? Có cần đợi đến khi thị trường sẵn sàng cho sản phẩm? Chu kỳ bán hàng dự kiến kéo dài bao lâu?
Thứ tư, tiêu chí phải xem xét là “nguy cơ từ bên ngoài”. Để nắm bắt mức độ rủi ro từ bên ngoài, hãy trả lời ba câu hỏi: Bị đe dọa bởi sự cạnh tranh? Phụ thuộc như thế nào vào các công ty hoặc “người chơi” khác? Giải quyết thế nào trước các rào cản?
Sau khi hoàn tất đánh giá, hãy cho điểm theo thang từ “thấp” đến “rất cao”. Đánh giá mức độ hấp dẫn sẽ giúp tối ưu hóa việc lựa chọn cơ hội thị trường.
Kết hợp với nhóm cơ hội thị trường đã được tạo lập từ bước một, doanh nghiệp có thể nắm được bản chất của từng cơ hội và so sánh chúng với nhau, từ đó dự đoán được khả năng tăng trưởng.
Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer
Với hình thức thanh toán qua ví điện tử và trả góp, Apple đã chọn MoMo là đối tác chính thức và trở thành fintech Việt Nam duy nhất được đồng hành cùng Apple tại Việt Nam.
Ví MoMo được Apple chọn làm công cụ thanh toán tại Việt Nam
Sau nhiều ngày chờ đợi của người tiêu dùng, Apple Store (Cửa hàng trực tuyến của Apple) đã chính thức ra mắt tại Việt Nam.
Apple Store trực tuyến cung cấp đầy đủ các danh mục sản phẩm để người tiêu dùng có thể mua hàng trực tuyến, bao gồm: iPhone, Macbook, iPad, Airpod,… cùng nhiều phụ kiện, dịch vụ giải trí khác mang thương hiệu Apple.
Bên cạnh các sản phẩm mang thương hiệu Apple, lần ra mắt Apple Store trực tuyến còn gây chú ý khi có một fintech Việt Nam được lọt vào “mắt xanh” của công ty công nghệ hàng đầu thế giới.
Cụ thể, sau khi chọn mua các sản phẩm trên Apple Store trực tuyến, người dùng sẽ tới bước thanh toán gồm các hình thức: trả thẳng (thẻ tín dụng/thẻ ghi nợ, ví điện tử, thẻ ATM), và trả góp.
Với hình thức thanh toán qua ví điện tử và trả góp, Apple đã chọn MoMo là đối tác chính thức và trở thành fintech Việt Nam duy nhất được đồng hành cùng Apple tại thị trường Việt Nam.
Với hình thức trả qua ví điện tử, người dùng thao tác qua ví MoMo như bình thường.
Với hình thức trả góp, người dùng có thể lựa chọn các kỳ hạn thanh toán như: 6, 12, 18 và 24 tháng với mức trả trước chỉ 20% và lãi suất thấp.
Ngoài ra, người dùng có thể dùng thêm tính năng “Thu cũ đổi mới” để chuyển sản phẩm cũ của mình cho Apple và nhận tiền về MoMo. Số tiền nhận được tương đương với giá trị của sản phẩm cũ mà Apple định giá.
Trong đó, hạn mức trả góp được MoMo công bố lên đến 100 triệu đồng, dễ dàng sở hữu các sản phẩm chính hãng của Apple tại Apple Store trực tuyến như iPhone, iPad, Mac hay Apple Watch ngay khi có nhu cầu.
Được biết, trước khi có Apple Store trực tuyến, từ năm 2019, MoMo là ví điện tử đầu tiên tại Việt Nam trở thành phương thức thanh toán trên kho ứng dụng App Store.
Chia sẻ về sự kiện lần này, ông Đỗ Quang Thuận – Phó Tổng Giám đốc cấp cao, phụ trách Khối dịch vụ tài chính của MoMo cho biết: “Chúng tôi vui mừng mang đến cho người dùng Việt những lựa chọn thanh toán linh hoạt để mua các sản phẩm Apple yêu thích và dễ dàng quản lý, cân đối tài chính của mình”.
MoMo hiện cũng là fintech dẫn đầu xu hướng Mua sắm trước – Trả tiền sau, phối hợp cùng các ngân hàng cho ra mắt sản phẩm tín dụng tiêu dùng là ví trả sau, sản phẩm theo xu hướng tiêu dùng hiện đại trên thế giới.
Nhờ sự tiện lợi và dễ tiếp cận, chỉ trong thời gian ngắn ra mắt, sản phẩm đã chiếm được cảm tình của người dùng đặc biệt là những người trẻ thích nghi và nhạy bén với công nghệ, yêu thích mua sắm online.
Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer
Từng bỏ ra đến 44 tỷ USD để mua lại, Twitter của Elon Musk hiện chỉ còn giá trị khoảng 15 tỷ USD, tức mất đến 2/3 giá trị.
Twitter hiện chỉ còn 1/3 giá trị so với mức định giá ban đầu
Kể từ khi Elon Musk mua lại Twitter với giá 44 tỷ USD vào năm ngoái, có không ít chuyên gia đã cho rằng CEO này đã trả giá quá cao so với những gì mà Twitter có.
Theo định giá mới đây từ Fidelity, Twitter hiện chỉ có giá trị khoảng 33% so với số tiền mà Elon Musk đã bỏ ra ban đầu. Cụ thể, giá trị của Twitter chỉ rời vào khoảng 15 tỷ USD.
Bất chấp những tuyên bố gần đây của Elon Musk về việc Twitter sẽ sớm hòa vốn hoặc thậm chí có lãi, triển vọng của mạng xã hội lại không mấy khả quan.
Mạng xã hội Twitter đã mất khoảng một nửa số nhà quảng cáo lớn nhất kể từ khi Elon Musk tiếp quản. Trong số này, trong khi nhiều doanh nghiệp vẫn chưa quay lại nền tảng, các doanh nghiệp hiện đang quảng cáo cũng đã cắt giảm chi tiêu đáng kể.
Để bù đắp cho những “mất mát” này, Twitter sau đó đã cho ra mắt dịch vụ Twitter Blue, gói xác minh (cấp tick xanh) có trả phí của Twitter.
Twitter Blue hiện có giá từ 8 USD mỗi tháng đi kèm với các tính năng nâng cao, chẳng hạn như số ký tự tweet và video dài hơn, bên cạnh đó, tài khoản đăng ký cũng được cấp dấu tick xanh.
Theo dữ liệu từ Travis Brown, hiện có chưa đến 1% lượng người dùng hoạt động hàng tháng của Twitter đã đăng ký Twitter Blue (Twitter hiện có hơn 350 triệu người dùng toàn cầu).
Để tiếp tục xoay chuyển tình thế, Elon Musk mới đây cũng đã bổ nhiệm Bà Linda Yaccarino làm CEO mới của Twitter, một chuyên gia nhiều kinh nghiệm trong ngành quảng cáo.
Elon Musk tỏ ra khá lạc quan với tương lai của Twitter sau quyết định mới.
Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer
LinkedIn vừa ra mắt chiến dịch quảng cáo mới với tên gọi ‘Find Your In’, hướng mục tiêu trực tiếp đến mảng tìm kiếm việc làm trên nền tảng.
LinkedIn ra mắt chiến dịch quảng cáo mới hướng đến mảng tuyển dụng
Với chiến dịch quảng cáo mới, LinkedIn không xuất hiện với tư cách là một mạng xã hội mà là nền tảng tìm kiếm việc làm, nơi các ứng viên có thể tìm thấy nhiều cơ hội để phát triển bản thân và con đường sự nghiệp mơ ước của họ.
Thông qua chiến dịch quảng cáoFind Your In, thông điệp chính của LinkedIn là nền tảng này có thể mở khóa nhiều khả năng mới, do đó, bạn có thể trở thành bất cứ điều gì bạn tưởng tượng hay mơ ước với sự trợ giúp của LinkedIn.
Chiến dịch được bắt đầu với hình ảnh một cô bé đang ở trong một tiệm giặt là. Tuy nhiên, đằng sau bối cảnh hết sức bình thường này lại ẩn chứa nhiều điều hết sức bất ngờ.
Từ một thông báo trên LinkedIn, cô bé bắt đầu tìm thấy cảm hứng của chính mình, nhận ra mình có thể là thứ gì đó rất khác so với nơi mà cô đang ở, cô hoàn toàn có nhiều cơ hội để khai thác tiềm năng tiềm ẩn của chính mình.
Tương lai của cô bé bỗng chốc trở nên sống động hơn, tràn ngập cơ hội hơn và nhiều cách để khám phá hơn.
Không chỉ là mạng xã hội chuyên nghiệp, nơi người dùng có thể tìm thấy những kết nối phù hợp, LinkedIn đang tìm cách để hỗ trợ những người có ảnh hưởng và nhà sáng tạo trên nền tảng, đồng thời giúp người dùng khám phá thêm các cơ hội nghề nghiệp mới.
Chiến dịch sẽ được chạy trên nhiều nền tảng khác nhau trong những tuần tới.
Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer
Trong phiên giao dịch sáng 30/5 (giờ Mỹ), cổ phiếu của Nvidia tăng 4%, lên mức 404,9 USD. Có thời điểm, giá liên tục được giao dịch trên mức 410 USD. Điều này đã giúp Nvidia đạt được mức vốn hóa trên 1.000 tỷ USD, lọt top những công ty của Mỹ có mức vốn hóa thị trường (Market Cap) cao nhất, bao gồm cả Alphabet, Amazon, Apple và Microsoft.
Vốn hoá của Nvidia chính thức vượt mốc 1.000 tỷ USD
Nvidia đã trở thành nhà sản xuất chip và bộ xử lý đồ họa đầu tiên đạt mức vốn hóa thị trường một nghìn tỷ USD. Doanh thu của công ty được dự báo sẽ bùng nổ nhờ vào việc tập trung nghiên cứu sản phẩm bổ trợ cho công nghệ trí tuệ nhân tạo.
Trong phiên giao dịch sáng 30/5 (giờ Mỹ), cổ phiếu của Nvidia tăng 4%, lên mức 404,9 USD. Có thời điểm, giá liên tục được giao dịch trên mức 410 USD.
Điều này đã giúp công ty đạt được mức vốn hóa trên 1.000 tỷ USD, lọt top những công ty của Mỹ có mức vốn hóa thị trường cao nhất, bao gồm Alphabet, Amazon, Apple và Microsoft.
Ngoài ra, chỉ có 9 công ty trên toàn cầu từng đạt được mức vốn hóa nghìn tỷ USD.
“Lý do Nvidia thu hút nhiều nhu cầu và đạt được mức tăng trưởng này là vì họ thực sự đang cung cấp công nghệ cần thiết nhằm phục vụ làn sóng đổi mới. Họ đang sở hữu vị thế rất tốt”, Zeno Mercer, nhà phân tích nghiên cứu cấp cao tại ROBO Global cho biết.
Bloomberg nhận định cột mốc mới của Nvidia là ví dụ minh chứng cho niềm đam mê của Phố Wall đối với những thứ liên quan đến AI.
Vốn hóa thị trường của Nvidia, công ty sản xuất chip cần thiết cho các tác vụ điện toán AI phức tạp, đã tăng hơn gấp đôi trong năm nay. Mức tăng đột biến này đã giúp họ có thêm 600 tỷ USD tính đến cuối tuần trước.
Trong một bài thuyết trình kéo dài 2 giờ vào ngày 29/5, Giám đốc điều hành của Nvidia, Jensen Huang đã tiết lộ một số sản phẩm liên quan đến AI. Dòng sản phẩm đa dạng bao gồm thiết kế robot mới, trò chơi, dịch vụ quảng cáo và hệ thống mạng.
Hơn nữa, ông Huang cũng tiết lộ một nền tảng siêu máy tính AI có tên DGX GH200, có thể giúp các công ty công nghệ tạo ra nhiều phiên bản tương tự như ChatGPT. Microsoft, Meta và Google dự kiến nằm trong số những khách hàng đầu tiên của Nvidia.
Mặc dù cổ phiếu đã liên tục tăng trong năm nay, chất xúc tác chỉ thực hiện xuất hiện sau khi Nvidia đưa ra dự báo doanh thu. Công ty có trụ sở tại California cho biết họ dự kiến tạo ra doanh thu khoảng 11 tỷ USD trong quý tài chính thứ hai, hơn nhiều so với mức 7,2 tỷ USD mà các nhà phân tích.
“Trong hơn 15 năm làm công việc phân tích, chúng tôi chưa bao giờ thấy một dự báo nào giống như cách mà Nvidia vừa đưa ra”, nhà phân tích Stacy Rasgon của Sanford C. Bernstein cho biết.
Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer
Năm 2022, IMF (Quỹ Tiền tệ Quốc tế) tính GDP bình quân đầu người cho các nước trên thế giới. Trong đó, GDP bình quân đầu người Việt Nam năm 2022 đạt khoảng 4.162,94 USD, xếp thứ 117 trên thế giới. Với con số này, GDP bình quân đầu người Việt Nam năm 2022 sẽ nhảy 7 bậc so với năm 2021 và 56 bậc so với năm 2000 trên quy mô thế giới.
GDP bình quân đầu người Việt Nam năm 2022 đạt khoảng 4.200 USD
Theo dữ liệu của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), năm 2000, GDP bình quân đầu người của Việt Nam đạt khoảng 498,58 USD, xếp thứ 7/11 trong khu vực Đông Nam Á và thứ 173/200 trên thế giới.
Đến năm 2021, GDP bình quân đầu người của Việt Nam đã tăng lên đạt khoảng 3.718 USD, xếp thứ 6/11 trong khu vực Đông Nam Á và thứ 124 trên thế giới.
Như vậy, GDP bình quân đầu người Việt Nam từ vị trí thứ 173 lên thứ 124, nhảy 49 bậc trong bảng xếp hạng GDP bình quân đầu người thế giới giai đoạn 2000 – 2021 . Cùng với đó, GDP bình quân đầu người của Việt Nam đã tăng hơn 7 lần trong giai đoạn 2000 – 2021.
Năm 2022, IMF tính GDP bình quân đầu người cho các nước trên thế giới. Trong đó, GDP bình quân đầu người Việt Nam năm 2022 đạt khoảng 4.162,94 USD, xếp thứ 117 trên thế giới . Với con số này, GDP bình quân đầu người Việt Nam năm 2022 sẽ nhảy 7 bậc so với năm 2021 và 56 bậc so với năm 2000 trên quy mô thế giới.
Xét riêng các nước trong khu vực Đông Nam Á, năm 2022, Singapore là nước có GDP bình quân đầu người cao nhất trong khu vực, đạt khoảng 79.426,14 USD, xếp thứ 6 trên thế giới. Bruneicó GDP bình quân đầu người đạt khoảng 42.939,4 USD, xếp thứ 2 trong khu vực Đông Nam Á và thứ 23 trên thế giới.
Cùng với đó, Malaysia có GDP bình quân đầu người đạt khoảng 13.108 USD, xếp thứ 3 trong khu vực Đông Nam Á và thứ 65 trên thế giới. Thái Lan có GDP bình quân đầu người xếp thứ 4 trong khu vực Đông Nam Á và thứ 86 trên thế giới, đạt khoảng 7.631 USD vào năm 2022.
GDP bình quân đầu người của Indonesia đạt khoảng 4.691,24 USD, xếp thứ 5 trong khu vực Đông Nam Á và thứ 113 trên thế giới. Với Việt Nam, GDP bình quân đầu người được IMF xếp thứ 6 trong khu vực, xếp trên Phlippines, Lào, Đông Timor, Campuchia và Myanmar.
Phlippines, Lào, Đông Timor, Campuchia và Myanmar có chỉ số GDP bình quân đầu người đạt lần lượt là 3.597 USD; 2.172,15 USD; 1.792,71 USD ; 1.771,38 USD và 1.104,75USD trong năm 2022.
Theo Quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2050, đến năm 2050, mục tiêu phát triển đến năm 2030, về kinh tế, phấn đấu tốc độ tăng trưởng GDP cả nước bình quân đạt khoảng 7%/năm giai đoạn 2021 – 2030. Đến năm 2030, GDP bình quân đầu người theo giá hiện hành đạt khoảng 7.500 USD.
Giai đoạn 2031-2050, phấn đấu tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước (GDP) bình quân khoảng 6,5-7,5%/năm. Đến năm 2050, GDP bình quân đầu người theo giá hiện hành đạt khoảng 27.000-32.000 USD.
Nghị quyết nêu rõ, tầm nhìn đến năm 2050, Việt Nam là nước phát triển, thu nhập cao, có thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đầy đủ, đồng bộ, hiện đại, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; quản trị xã hội trên nền tảng xã hội số hoàn chỉnh.
Cùng với đó, Việt Nam thuộc nhóm các nước công nghiệp phát triển hàng đầu khu vực châu Á; là một trung tâm tài chính khu vực và quốc tế; phát triển kinh tế nông nghiệp sinh thái giá trị cao thuộc nhóm hàng đầu thế giới.
Trên thế giới, các nước có GDP bình quân cao đều có các ngành công nghiệp tạo ra giá trị gia tăng cao ngoại trừ Singapore, Hông Kông (Trung Quốc). Ví dụ như công nghiệp cơ khí chế tạo, hóa chất, công nghiệp vật liệu mới… là những ngành công nghiệp tạo ra giá trị gia tăng cao và tạo ra nội lực cho nền kinh tế.
Với Việt nam, nền công nghiệp của Việt Nam hiện được đóng góp rất lớn từ các doanh nghiệp nước ngoài. Cùng với đó, doanh nghiệp nội địa chưa thực sự có tác động lớn tới các ngành công nghiệp cốt lõi.
Thực tế, FDI tạo ra tới 70% xuất khẩu của Việt Nam và 70% này phụ thuộc chủ yếu vào ngành sản xuất. Chính vì thế, FDI gần như là chiếm tới 70 % sản xuất hàng công nghiệp của Việt Nam.
Khi các doanh nghiệp nội địa tạo ra nhiều giá trị gia tăng hơn trong ngành công nghiệp lõi thì không chỉ tăng trưởng mà cả GDP bình quân của Việt Nam sẽ cao trong tương lai.
Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer