Skip to main content

Tác giả: Community

[Download từ Meta] Báo cáo hiệu quả của phương thức truyền thông hỗn hợp

Meta vừa công bố một báo cáo (whitepaper) mới mang tên “Rethinking media mix effectiveness in the new digital landscape” nhằm mục tiêu nhấn mạnh mức độ hiệu quả của phương thức tiếp cận truyền thông hỗn hợp trong bối cảnh kỹ thuật số mới.

[Download từ Meta] Báo cáo hiệu quả của phương thức truyền thông hỗn hợp
[Download từ Meta] Báo cáo hiệu quả của phương thức truyền thông hỗn hợp
Ở thời điểm hiện tại, các doanh nghiệp đang phải đối mặt với một thực tế mới: bối cảnh kinh tế vĩ mô bất ổn, áp lực ngày càng tăng lên doanh thu và lợi nhuận của doanh nghiệp, cùng với đó là các thói quen sử dụng phương tiện truyền thông (media consumption) cũng không ngừng thay đổi.

Kết quả của những thay đổi này là những người làm marketing nhận thấy rằng các chiến lược tiếp thị hỗn hợp (Marketing Mix) trước đây của họ đã không còn chứng minh được mức độ hiệu quả của nó.

Thay vào đó, các thương hiệu đang phát hiện ra rằng việc chi tiêu nhiều hơn cho các nền tảng kỹ thuật số có thể giúp họ đạt được nhiều mục tiêu kinh doanh hơn, bao gồm cả hiệu quả lẫn lợi tức chi tiêu quảng cáo (ROAS).

Trong “Sách trắng” này, Meta chỉ ra những cơ hội chính mà các Marketer ở Châu Á Thái Bình Dương (APAC) có thể tận dụng bao gồm:

  • Digital là một kênh xây dựng thương hiệu lâu dài.
  • Tiềm năng của không gian kỹ thuật số trong việc thúc đẩy các sản phẩm cao cấp và giới hạn (premiumization).
  • Các giải pháp và định dạng Marketing mới có thể mang lại các kết quả cao hơn cho thương hiệu.
  • Tiềm năng của AI (trí tuệ nhân tạo) trong việc lập kế hoạch.

Bạn có thể tải xuống báo cáo “Rethinking media mix effectiveness in the new digital landscapetại đây.

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer

Hà Anh  | MarketingTrips   

Tim Cook: Chúng tôi đạt doanh thu kỷ lục tại Việt Nam

Việt Nam được ghi nhận là có đóng góp lớn cho kết quả kinh doanh quý III vừa qua của Apple.

Tim Cook: Chúng tôi đạt doanh thu kỷ lục tại Việt Nam
Tim Cook: Chúng tôi đạt doanh thu kỷ lục tại Việt Nam

Mới đây trong bài phát biểu sau báo cáo tài chính của Apple, CEO Tim Cook đã ca ngợi các thị trường như Việt Nam có đóng góp lớn cho doanh thu của hãng.

“Apple đã báo cáo mức doanh thu 89,5 tỷ USD trong quý III/2023. Chúng tôi đã đạt được mức doanh thu kỷ lục ở Ấn Độ cũng như một số thị trường như Brazuil, Canada, Pháp, Indonesia, Mexico, Philippines, Ả Rập Xê Út, Thổ Nhĩ Kỳ, UAE và Việt Nam”, CEO Tim Cook tự hào nói.

Theo vị giám đốc này, doanh thu của Apple tại thị trường Đông Nam Á cao hơn so với dự kiến, tương tự như các khu vực Trung Quốc, Châu Mỹ Latinh hay Trung Đông.

Nhắc đến Việt Nam, người đứng đầu Apple tự hào khi mở cửa hàng trực tuyến mới tại đây và Chile trong thời gian qua, đồng thời cho biết sẽ mở thêm chi nhánh tại Trung Quốc.

CEO Tim Cook cũng nhấn mạnh tập đoàn Apple đang tăng cường mở rộng sự xuất hiện tại các thị trường mới nổi, từ việc khai trương chi nhánh ở Ấn Độ cho đến việc mở cửa hàng online tại Việt Nam.

Kết thúc quý III/2023, thu nhập ròng của Apple đạt 22,9 tỷ USD, cao hơn mức 20,7 tỷ USD cùng kỳ năm ngoái.

Nhà sản xuất iPhone báo cáo doanh thu 383,3 tỷ USD trong cả năm tài khóa 2023 kết thúc vào tháng 9/2023, tương đương mức giảm khoảng 3% so với cùng kỳ năm trước.

Doanh thu quý IV/2023 của Apple cũng giảm gần 1% so với quý III.

Tuy nhiên, doanh số bán iPhone của Apple lại đúng như kỳ vọng của Phố Wall và thậm chí cao hơn 2% so với cùng kỳ năm ngoái. Đây là dòng sản phẩm phần cứng duy nhất ghi nhận sự tăng trưởng trong quý vừa qua của nhà táo khuyết.

Chia sẻ với hãng tin CNBC, CEO Tim Cook cho biết iPhone 15 ghi nhận kết quả tích cực hơn so với iPhone 14 trong quý vừa qua.

Thậm chí một số mẫu Pro và Pro Max còn khan hàng do nhu cầu quá cao. Riêng tại thị trường Trung Quốc, 4/5 số mẫu điện thoại bán chạy nhất là iPhone.

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer

Hà Anh  | MarketingTrips

Nhật Bản: Nỗ lực thăng tiến có liên quan đến bệnh trầm cảm

Bộ Y tế Nhật Bản vào ngày 13 tháng 10 vừa công bố sách trắng hàng năm về khoảng thời gian làm việc kéo dài của đa số người lao động. Chúng có mối liên hệ sâu sắc với bệnh trầm cảm và karoshi, tức tử vong do làm việc quá sức.

Nhật Bản: Nỗ lực thăng tiến có liên quan đến bệnh trầm cảm
Nhật Bản: Nỗ lực thăng tiến có liên quan đến bệnh trầm cảm

Khoảnh khắc được nâng lên cáng xe cứu thương, Kei Sato cảm thấy nhẹ nhõm. Chia sẻ với SCMP, anh cho biết khoảng thời gian 1 năm làm việc tại công ty này khiến đã khiến bản thân cảm thấy quá mệt mỏi.

“Tôi nhớ rất rõ”, Sato nói“Tôi vừa thuyết trình xong thì đột nhiên cảm thấy choáng váng. Trước đây tôi đã từng bị sỏi thận. Ban đầu tôi nghĩ đây đơn thuần chỉ là bệnh cũ tái phát. Tuy nhiên sau đó, mọi thứ nhanh chóng trở nên tồi tệ hơn. Tôi đã gọi xe cấp cứu”.

Được biết, Sato được bác sĩ chỉ định phẫu thuật thận ngay lập tức và phải nằm viện ít nhất 10 ngày. “Tôi như này là do căng thẳng công việc. Tôi bị cấp trên giao quá nhiều trách nhiệm. Không ai hỗ trợ tôi. Đó thực sự là một cơn ác mộng”, Sato nói và cho biết anh thường xuyên có mặt ở văn phòng trước 8 giờ sáng và thường sẽ không về nhà cho đến 11 giờ đêm.

Câu chuyện của Sato được coi là ‘bình thường’ ở Nhật Bản – nơi Bộ Y tế vào ngày 13 tháng 10 vừa công bố sách trắng hàng năm về khoảng thời gian làm việc kéo dài của đa số người lao động. Chúng có mối liên hệ sâu sắc với bệnh trầm cảm và karoshi, tức tử vong do làm việc quá sức. Tổng cộng, 2.968 người Nhật đã chết vì karoshi vào năm ngoái, tăng từ mức 1.935 vào năm 2021.

Theo đó, 10,1% nam giới làm việc ít nhất 60 giờ/tuần và 4,2% phụ nữ làm việc trên 60 giờ/tuần. 803 người đã nộp đơn xin bồi thường vào năm ngoái do mắc các bệnh liên quan đến não hoặc tim. Con số đó tăng từ mức 753 trường hợp vào năm 2021.

Theo các chuyên gia, số liệu trên chỉ phản ánh một phần thực tế. Họ lo ngại rằng số lượng người tự tử do áp lực công việc sẽ tiếp tục tăng lên. 26,8% nam giới và phụ nữ làm việc hơn 60 giờ/tuần tin rằng họ đang mắc chứng trầm cảm hoặc hội chứng lo âu.

Theo Bill Cleary, đại diện tổ chức tư vấn TELL Lifeline có trụ sở tại Tokyo, giới chức, công ty và nhiều cá nhân đều nhận thức được mức độ nghiêm trọng từ giữa những năm 1980 song chưa thể tìm ra giải pháp.

“Phần lớn những điều này xoay quanh đại dịch, khi mọi người trở nên cô lập về mặt xã hội và ít có khả năng gắn kết tình bạn và các mối quan hệ”, Bill Cleary nói. “Nếu họ bị cô lập trong khi khối lượng công việc tăng lên, rất có khả năng karoshi cũng sẽ tăng lên”.

Makoto Watanabe, giáo sư truyền thông tại Đại học Hokkaido Bunkyo ở Eniwa, cho biết các công ty Nhật Bản có quá ít sự thay đổi. Nhiều doanh nghiệp còn đang mắc kẹt trong “kỷ nguyên bong bóng” những năm 1980.

“Tiền lương ngày càng thấp, khối lượng công việc lại tăng lên. Mọi người phải làm việc chăm chỉ hơn”, Makoto Watanabe nói. Hơn 30 năm kể từ khi bong bóng nổ tung vào đầu những năm 1980, ông tin rằng người lao động Nhật Bản cần tìm lại sự cân bằng và giữ gìn sức khỏe tinh thần.

“Hãy nhìn vào sâu bên trong bản thân mình để đưa ra những quyết định nằm trong tầm kiểm soát”, Makoto Watanabe nói thêm. “Chúng ta phải thay đổi”.

Chính vì tình trạng karoshi, nhiều người không còn khao khát thăng chức lên quản lý. Đa phần đều muốn tìm kiếm sự cân bằng giữa công việc – cuộc sống – chọn khối lượng công việc vừa phải để trở nên hạnh phúc hơn.

Công ty tư vấn tổ chức và quản lý Shikigaku mới đây đã thực hiện một cuộc khảo sát toàn quốc với 300 nhân viên ở độ tuổi 20-50. Kết quả cho thấy 72% số người được hỏi không muốn đảm nhận vị trí quản lý. Ở nữ giới, chỉ 4% thực sự quan tâm đến vị trí này.

Lý do phổ biến nhất là bản thân những nhân viên này ngại chịu nhiều trách nhiệm và không sẵn sàng đáp ứng khối lượng công việc nặng hơn. Họ cho rằng việc thăng chức đồng nghĩa với thêm trách nhiệm, ngoài ra không có lợi ích nổi bật nào khác. Cũng có ý kiến cho rằng “làm thêm hơn 80 giờ/tháng sẽ khiến cuộc sống cá nhân, sức khỏe bị hủy hoại”.

Được biết, Nhật Bản là một trong số những quốc gia nổi tiếng với văn hóa làm việc quá sức, hy sinh cả quyền lợi cá nhân. Cụ thể, tháng 5/2021, nghiên cứu do Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) và Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) đã chỉ ra rằng có 745.000 người Nhật đã chết trong năm 2016 vì đột quỵ và bệnh tim sau khi làm việc trên 55 giờ/tuần. Con số này cao hơn 30% so với năm 2000.

Báo cáo của Bộ Y tế, Lao động và Phúc lợi Nhật Bản cho thấy trong số hơn 8.900 công ty tăng ca nhiều từ tháng 4/2020 đến tháng 5/2021, gần 3.000 doanh nghiệp đã phá vỡ giới hạn làm thêm 80 giờ/tháng. Thậm chí, ít nhất 93 công ty có nhân viên làm thêm 200 giờ/tháng.

Nhật Bản những năm gần đây đang cố gắng loại bỏ văn hoá làm việc quá giờ vốn đã tồn tại trong nhiều thập kỷ. Nạn nhân của văn hóa karoshi thường là những người đàn ông trung niên làm công việc văn phòng, theo Hiroshi Kawahito – luật sư kiêm tổng thư ký của Cố vấn Quốc phòng cho các nạn nhân của karoshi.

Ngoài Nhật Bản, Trung Quốc cũng tồn tại văn hóa “làm việc đến chết” mang tên 9-9-6. Nỗi sợ khiến nhiều người trẻ sẵn sàng từ bỏ mức lương cao đáng mơ ước để sống một cuộc sống an nhàn và cân bằng hơn.

Theo: SCMP, Nippon

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer

Theo Vũ Anh | Markettimes

Số tiền thuế từ Facebook, Google, Apple…năm 2023 đã gần gấp 3 lần năm 2022

Riêng trong năm 2023, số tiền thuế các nhà cung cấp nước ngoài như Meta (Facebook), Google hay Apple nộp thông qua Cổng thông tin điện tử của Tổng cục Thuế là hơn 8.000 tỷ đồng, cao gần gấp 3 lần so với con số hơn 3000 tỷ năm 2022.

Số tiền thuế từ Facebook, Google, Apple..năm 2023 đã gần gấp 3 lần năm 2022
Số tiền thuế từ Facebook, Google, Apple..năm 2023 đã gần gấp 3 lần năm 2022

Trong báo cáo mới công bố, về công tác quản lý thuế đối với thương mại điện tử, Tổng cục Thuế cho biết, đến hết tháng 10/2023, đã có 74 nhà cung cấp nước ngoài đăng ký thuế khai thuế và nộp thuế qua Cổng thông tin điện tử của Tổng cục Thuế dành cho nhà cung cấp nước ngoài.

Tổng số thuế các nhà cung cấp nước ngoài đã khai, nộp là 11.498 tỷ đồng, trong đó năm 2022 là 3.478 tỷ đồng; năm 2023 là 8.020 tỷ đồng. Một số nhà cung cấp nộp thuế lớn nhất là Meta (Facebook); Google; Apple; Microsoft…

Cũng theo Tổng cục Thuế, tính đến ngày 18/10/2023, đã có 375 sàn giao dịch thương mại điện tử thực hiện việc cung cấp thông tin.

Thời gian tới, Tổng cục Thuế cho biết sẽ tiếp tục tổ chức quản lý thuế hiệu quả đối với các nhà cung cấp nước ngoài, rà soát, đôn đốc các nhà cung cấp nước ngoài chưa thực hiện đăng ký thuế, khai thuế, nộp thuế trên cổng thông tin điện tử của Tổng cục Thuế. Phối hợp với các đơn vị liên quan rà soát, hoàn thiện các nội dung nâng cấp cổng thông tin điện tử dành cho nhà cung cấp nước ngoài đảm bảo thuận lợi trong quá trình thực hiện.

Về công tác hoàn thuế VAT được dư luận quan tâm, tính đến hết ngày 31/10, Cơ quan thuế đã ban hành 15.025 quyết định tương ứng số thuế đã hoàn 112.873 tỷ đồng, bằng 70,5% ước thực hiện đã báo cáo Chính phủ báo cáo Quốc hội (160.000 tỷ đồng), bằng 91% cùng kỳ năm 2022.

Hôm 2/11 vừa qua, phát biểu trước Quốc hội về vấn đề hoàn thuế, Bộ trưởng Bộ Tài chính Hồ Đức Phớc nhấn mạnh điều kiện hoàn thuế là phải có hóa đơn VAT, có chứng từ chuyển tiền. Đối với các công ty xuất nhập khẩu thì có thêm chứng từ chuyển tiền hợp đồng để chuyển tiền hàng hóa và tờ khai hải quan.

Theo Bộ trưởng, một số vướng mắc Bộ đã xác minh là cơ quan thuế nước ngoài cho biết không tồn tại doanh nghiệp này có nghĩa là hợp đồng bị vô hiệu, mà hợp đồng vô hiệu thì không hoàn được.

“Vấn đề hoàn thuế đã có bài học rất đau xót. Như vụ Thủ Đức House, Cục Thuế TP Hồ Chí Minh đã có 18 người đi tù, kể cả cục phó phải đi tù 4 năm, dù không lấy đồng nào hết.

Nếu trong luật thuế nói hoàn thuế mà chỉ xác minh người bán cuối cùng, cán bộ thuế không vi phạm thì chúng tôi thực hiện ngay, còn luật thuế quy định nếu hoàn trước, kiểm tra sau là 6 ngày, chúng tôi chấp hành, kiểm tra trước, hoàn sau là 40 ngày”, Bộ trưởng Bộ Tài chính nhấn mạnh.

Cũng theo báo cáo của Tổng cục Thuế, liên quan đến thu ngân sách, tổng thu ngân sách Nhà nước tháng 10/2023 do cơ quan Thuế quản lý ước đạt 151.000 tỷ đồng. Luỹ kế 10 tháng, tổng thu ngân sách nhà nước do cơ quan Thuế quản lý ước đạt hơn 1,2 triệu tỷ đồng, bằng 87,5% so với dự toán pháp lệnh, bằng 93,1% so với cùng kỳ. Trong đó, thu từ dầu thô ước đạt 51.366 tỷ đồng; thu nội địa ước đạt 1,15 triệu tỷ đồng.

Về công tác hỗ trợ, người dân và doanh nghiệp, trong 10 tháng đầu năm, tổng số tiền thuế, tiền thuê đất thuộc diện được gia hạn, miễn, giảm là khoảng 158.145 tỷ đồng. Trong đó, số tiền thuế, tiền thuê đất thuộc diện được gia hạn khoảng 106.476 tỷ đồng; số tiền thuế, tiền thuê đất được miễn, giảm khoảng 51.669 tỷ đồng.

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer

 

Nam Nguyen | MarketingTrips

Theo VTV

Bối cảnh cạnh tranh trong kỷ nguyên của các gã khổng lồ trực tuyến

Nhờ vào sự phát triển của yếu tố công nghệ, nhiều doanh nghiệp hay chính xác là các gã khổng lồ đang trở thành những “con cá mập” tìm cách đánh chiếm các “đại dương lớn”, chính điều này đã không chỉ tạo ra vô số các thách thức cho doanh nghiệp nhỏ hơn mà còn kéo theo nhiều vấn đề khác liên quan đến việc mất bình đẳng và sự ổn định của xã hội. Hãy cùng MarketingTrips khám phá chi tiết hơn trong bài viết này.

Cạnh tranh trong kỷ nguyên của các gã khổng lồ trực tuyến
Cạnh tranh trong kỷ nguyên của các gã khổng lồ trực tuyến

Trong bối cảnh kinh tế hiện tại, một số ít các gã khổng lồ trực tuyến như Alibaba, Amazon, Microsoft, Google hay Meta đã trở thành một “tổ hợp trung tâm” khi các doanh nghiệp này đang sở hữu và kiểm soát hàng tỷ khách hàng, thứ mà gần như tất cả các doanh nghiệp khác đều thèm muốn.

Các tổ hợp trung tâm này thúc đẩy lợi nhuận ngày càng tăng theo quy mô và nhận được một phần giá trị không tương xứng với những gì tạo ra trong nền kinh tế toàn cầu.

Các nhà phân tích cho rằng nền kinh tế trung tâm (hub economy) sẽ tiếp tục lan rộng ra nhiều ngành hơn, tập trung nhiều quyền lực hơn vào tay một số ít doanh nghiệp, thứ cuối cùng có thể biến họ trở thành một gã khổng lồ trong ngành.

Mối nguy hiểm là điều này sẽ làm trầm trọng thêm tình trạng bất bình đẳng kinh tế và đe dọa sự ổn định xã hội.

Đứng trước bối cảnh đó, để có thể duy trì được vị thế cạnh tranh, các doanh nghiệp nhỏ hơn, các doanh nghiệp truyền thống, hay các công ty khởi nghiệp phải liên tục thay đổi và sáng tạo trong cách thức kinh doanh của mình.

Ở khía cạnh ngược lại với các gã khổng lồ, tức các doanh nghiệp lớn, cần phải có trách nhiệm vì lợi ích của tất cả mọi người, không chỉ tạo ra và nắm bắt giá trị riêng mà còn là để hỗ trợ các doanh nghiệp khác trong hệ sinh thái.

Nền kinh tế toàn cầu đang xoay quanh một vài gã khổng lồ công nghệ (kỹ thuật số).

Hãy thử nhìn vào các gã khổng lồ như Alibaba, Alphabet/Google, Amazon, Apple, Baidu, Facebook, Microsoft và Tencent, đây thực là những tổ hợp trung tâm của nền kinh tế.

Trong khi cũng tạo ra giá trị thực sự cho người dùng, các doanh nghiệp này cũng đang chiếm được một phần giá trị không cân xứng và ngày càng được mở rộng theo quy mô, đồng thời cũng góp phần định hình lại tương lai của nền kinh tế tập thể (collective economic).

Ngoài việc thống trị các thị trường riêng lẻ, các tổ hợp trung tâm trong nền kinh tế trung tâm cũng xây dựng và kiểm soát các kết nối thiết yếu trong mạng lưới kinh tế toàn cầu.

Android của Google và các công nghệ liên quan đã giúp hình thành khả năng sở hữu quyền truy cập vào hàng tỷ người tiêu dùng di động trên toàn cầu, thứ mà bất kỳ doanh nghiệp nào và kinh doanh gì cũng đều muốn tiếp cận.

Google không chỉ đơn giản là trung gian hưởng lợi từ các giao dịch phát sinh mà còn ảnh hưởng cả đến những luồng thông tin và dữ liệu được thu thập trên hệ sinh thái.

Các sàn thương mại điện tử (eCommerce) của Amazon và Alibaba cũng kết nối với một số lượng lớn người dùng, nhà bán lẻ và nhà sản xuất. Hay nền tảng nhắn tin WeChat của Tencent cũng tập hợp hơn 1 tỷ người dùng toàn cầu.

Càng nhiều người dùng tham gia các mạng lưới này, các doanh nghiệp càng trở nên hấp dẫn trong mắt người tiêu dùng hay thậm chí có không ít người tiêu dùng còn coi đó là thứ thiết yếu (vì nhiều người khác đang dùng).

Bằng cách thúc đẩy lợi nhuận ngày càng tăng theo quy mô và kiểm soát các nút thắt cạnh tranh quan trọng, các gã khổng lồ này lại trở nên mạnh hơn, chính điều này đã tạo ra những chia sẻ giá trị không tương xứng (giữa các bên) đồng thời vượt qua cả cán cân cạnh tranh toàn cầu (competitive balance).

Các gã khổng lồ hay các tổ hợp trung tâm (hub firm) vốn không cạnh tranh theo kiểu truyền thống (traditional competition), tức cạnh tranh với các sản phẩm hoặc dịch vụ hiện có, bán với giá thấp hơn hay cải tiến thêm các tính năng mới.

Thay vào đó, họ sử dụng cái được gọi là sức mạnh dựa trên mạng lưới (network-based power) đã được xây dựng đến một quy mô đủ lớn trước đó và sau đó sử dụng chúng để tham gia vào một ngành công nghiệp khác.

Các doanh nghiệp này cũng sẽ “tái cấu trúc” cấu trúc cạnh tranh của chính nó, chuyển đổi nó từ định hướng sản phẩm (product-driven) sang định hướng mạng lưới hay hệ thống (network/systemt-driven), những thứ được xem là lợi thế cạnh tranh mà họ đã kiểm soát trước đó.

Ví dụ: công ty con chuyên về mảng tài chính Ant Financial (Ant) của Alibaba không chỉ cung cấp những dịch vụ thanh toán tốt hơn, thẻ tín dụng tốt hơn hoặc dịch vụ quản lý đầu tư tối ưu hơn (so với các đối thủ cạnh tranh khác); nó tận dụng các dữ liệu rộng lớn sẵn có của Alibaba (công ty mẹ) để biến các dịch vụ tài chính truyền thống thành các hàng hoá thông thường (Commodity) đồng thời tổ chức lại một phần lớn trong lĩnh vực tài chính tại thị trường Trung Quốc xung quanh nền tảng Ant Financial (Ant Financial platform).

Chỉ trong vòng 3 năm kể từ khi được thành lập, Ant đã có hơn nửa tỷ người dùng và có kế hoạch mở rộng ra ngoài Trung Quốc.

Điều tương tự cũng xảy ra đối với các đế chế như Google, Microsoft hay Amazon.

Nếu xu hướng này tiếp tục diễn ra, nền kinh tế trung tâm (hub economy) sẽ lan rộng ra nhiều ngành công nghiệp hơn, tập trung hơn nữa các yếu tố như dữ liệu, giá trị và quyền lực vào tay một số ít doanh nghiệp chỉ sử dụng một phần rất nhỏ lực lượng lao động (vì cơ bản mọi thứ được tự động hoá và giá trị có được từ lợi thế về quy mô), sự bất bình đẳng xã hội và nên kinh tế suy yếu là điều tất yếu.

Đứng trước bối cảnh “khốc liệt” này, không ít người sẽ tự hỏi, liệu xu hướng này của nền kinh tế có được thay đổi hay đảo ngược không. Câu trả lời phù hợp nhất có lẽ là KHÔNG.

“Nền kinh tế trung tâm” vẫn sẽ ở đó nhưng hầu hết các doanh nghiệp sẽ không trở thành trung tâm (Hubs), và họ sẽ cần phản ứng một cách khôn ngoan trước sự tập trung ngày càng tăng của cái gọi là quyền lực trung tâm (Hub Power).

Số hóa hay chuyển đổi số năng lực vận hành như cách mà người ta vẫn hô hào sẽ là không đủ. Ví dụ, các nền tảng nhắn tin kỹ thuật số (WhatsApp hay Zalo) đã giáng một đòn mạnh vào các nhà cung cấp dịch vụ viễn thông (Viettel, MobiFone); các nhà cố vấn đầu tư vẫn phải đối mặt với các mối đe dọa từ các công ty dịch vụ tài chính trực tuyến.

Trong kỷ nguyên này, để duy trì tính cạnh tranh, các doanh nghiệp sẽ cần phải sử dụng tài nguyên (con người, tài chính, công nghệ…) và năng lực của mình theo cách khác, chuyển đổi hoạt động kinh doanh cốt lõi, phát triển thêm các cơ hội tăng doanh thu mới và xác định các lĩnh vực có thể được bảo vệ khỏi sự xâm chiếm của các gã khổng lồ.

Mark Zuckerberg (hiện là CEO Meta) cũng đã từng tuyên bố trong bài diễn văn tốt nghiệp ở Harvard vào tháng 5 năm 2017 rằng: “Chúng ta đang chứng kiến một mức độ bất bình đẳng cao đến mức gây tổn thương đến mọi người. Kinh doanh như bình thường không phải là một lựa chọn tốt.”

Hiệu ứng Domino kỹ thuật số.

Sự xuất hiện của các gã khổng lồ hay doanh nghiệp trung tâm bắt nguồn từ 3 nguyên tắc của lý thuyết về mạng lưới và số hóa.

Đầu tiên là định luật Moore (Moore Law), nói rằng sức mạnh xử lý của máy tính (computer processing) sẽ tăng gấp đôi sau mỗi hai năm. Điều này hàm ý là những cải tiến về hiệu suất và công nghệ sẽ thúc đẩy việc tăng cường hay thậm chí là thay thế hoạt động của con người bằng các công cụ kỹ thuật số (Digital Tools).

Khi hầu hết các doanh nghiệp ngày nay đều cần công nghệ và liên quan đến công nghệ, điều này sẽ ảnh hưởng rất lớn đến toàn bộ nền kinh tế.

Nguyên tắc thứ hai liên quan đến sự kết nối (connectivity). Hầu hết các thiết bị máy tính ngày nay đều có kết nối mạng tích hợp cho phép chúng giao tiếp được với nhau. Trong khi các mạng lưới kỹ thuật số không ngừng phát triển, các công nghệ kỹ thuật số hiện đại sẽ cho phép việc chia sẻ thông tin với chi phí gần như là bằng không.

Định luật Metcalfe cho rằng giá trị của mạng lưới sẽ tăng theo số lượng các điểm kết nối hoặc người dùng (user), động lực vốn được gọi là hiệu ứng mạng.

Điều này có nghĩa là các công nghệ kỹ thuật số đang cho phép doanh nghiệp tăng trưởng đáng kể về giá trị khi kết hợp các điểm kết nối lại với nhau với mục tiêu đưa ra một đề xuất kinh doanh hay bán hàng mới.

Với Ant của Alibaba như đã phân tích ở trên thì đó là việc chuyển từ một công cụ thanh toán đơn thuần sang các dịch vụ tài chính và bảo hiểm rộng lớn.

Công nghệ kỹ thuật số đang cho phép tăng trưởng giá trị, nhưng việc nắm bắt giá trị đang trở nên chênh lệch và tập trung hơn.

Trong khi giá trị đang được tạo ra cho tất cả mọi người, việc nắm bắt giá trị đang trở nên chênh lệch và tập trung hơn. Điều này là do trong các mạng lưới hay hệ thống, lưu lượng truy cập hay người dùng (Traffic, User) có thể tạo ra nhiều lưu lượng truy cập (và người dùng) hơn và khi một số điểm kết nối nhất định trong mạng lưới được sử dụng nhiều hơn, chúng sẽ thu hút thêm nhiều hơn các kết nối tự nhiên khác, điều này càng làm tăng thêm tầm quan trọng của chính chúng và mạng lưới.

Điều này cũng sẽ dẫn đến nguyên tắc thứ ba: quan điểm cho rằng sự hình thành của các điểm kết nối (kỹ thuật số) tự nhiên sẽ dẫn đến sự xuất hiện của các vòng phản hồi tích cực (feedback loops), thứ sau đó sẽ khiến cho các doanh nghiệp trung tâm (gã khổng lồ) có tính kết nối cao hơn và khó thay thế hơn.

Khi các mạng lưới kỹ thuật số thực hiện ngày càng nhiều giao dịch kinh tế (bán hàng), sức mạnh kinh tế của mạng lưới vốn là trung gian kết nối người tiêu dùng, doanh nghiệp và thậm chí cả giữa các ngành với nhau… sẽ càng được mở rộng nhiều hơn.

Khi một tổ hợp trung tâm được kết nối ở mức độ cao (và được hưởng lợi nhuận ngày càng tăng theo quy mô) trong một lĩnh vực nhất định của nền kinh tế (chẳng hạn như viễn thông di động), nó cũng sẽ được có lợi thế quan trọng khi bắt đầu kết nối tới một lĩnh vực hay ngành công nghiệp mới (ví dụ như ô tô).

Các doanh nghiệp cạnh tranh trong các ngành công nghiệp tách biệt theo cách truyền thống sẽ bị loại bỏ hoặc trở thành một gã khổng lồ khác với nhiều thị phần hơn.

Nếu như trước đây, các nhà sản xuất điện thoại di động chỉ cạnh tranh trực tiếp với nhau để giành lấy vị trí dẫn đầu trong ngành (Marker Leader) mà không có bất cứ sự cạnh tranh nào liên quan đến việc tận dụng sức mạnh của mạng lưới hay tổ hợp kinh tế (Economic Hub).

Trong bối cảnh ngày nay, với sự ra đời của các nền tảng như iOS và Android, ngành công nghiệp bắt đầu chuyển từ trọng tâm là cạnh tranh về sản phẩm hay phần cứng sang cạnh tranh theo cấu trúc mạng lưới tập trung dựa trên nền tảng.

Khi các nền tảng kết nối điện thoại thông minh với một số lượng lớn các ứng dụng và dịch vụ (điểm kết nối) khác, tự bản thân nó sẽ trở nên có giá trị hơn, tạo ra hiệu ứng mạng lưới mạnh mẽ hơn, và cuối cùng tạo ra nhiều rào cản gia nhập ngành hơn đối với các doanh nghiệp mới.

Ngày nay, các thương hiệu như Motorola, Nokia, BlackBerry hay Palm đã không còn kinh doanh điện thoại di động, còn Google và Apple, vốn không phải là doanh nghiệp chuyên về sản xuất điện thoại thì đang chiếm phần lớn giá trị của ngành (chuỗi giá trị).

Đó chính là sức mạnh của nền tảng, của mạng lưới hay của nền kinh tế trung tâm như đã đề cập nhiều lần trong bài.

Hiệu ứng domino này hiện đang lan sang các lĩnh vực khác và với tốc độ ngày càng nhanh hơn. Ngành công nghiệp âm nhạc đã nghiêng về Apple, Google và Spotify.

Thương mại điện tử cũng đang đi theo một con đường tương tự: Alibaba và Amazon đang giành được nhiều thị phần (market share) hơn và dần chuyển sang đánh chiếm các doanh nghiệp truyền thống kinh doanh hàng tạp hóa, việc Amazon mua lại Whole Foods là một minh chứng.

Việc tăng lợi nhuận theo quy mô khiến doanh nghiệp rất khó bị đánh bại.

Yếu tố lợi thế cạnh tranh trong nhiều ngành được điều tiết bằng cách sẵn sàng cắt giảm lợi nhuận để thúc đẩy quy mô (scale up).

Trong các ngành kinh doanh sản phẩm và dịch vụ truyền thống, đường cong tạo ra giá trị (VCC) thường phẳng hơn (thấp hơn) khi số lượng người tiêu dùng tăng lên.

Một doanh nghiệp sẽ không đạt được bất cứ lợi thế cụ thể nào khi lượng người dùng của họ tiếp tục tăng lên nhưng vượt lại quá mức hiệu quả vốn có (biên hiệu quả), chính điều này là nguyên nhân dẫn đến việc sẽ nhiều đối thủ cạnh tranh khác nhau cùng tồn tại trên cùng một thị trường.

Tuy nhiên, với các gã khổng lồ, các tổ chức trung tâm hay các doanh nghiệp dựa trên mạng lưới (công nghệ), điều này lại diễn ra theo cách ngược lại, họ tăng quy mô để tăng lợi nhuận hay tăng lợi nhuận bằng cách đẩy nhanh quy mô.

Một nền tảng quảng cáo địa phương sẽ trở nên mạnh hơn khi ngày càng có nhiều người dùng truy cập hơn và khi có nhiều người truy cập hơn, nó càng có thể thu hút nhiều quảng cáo hơn.

Và khi số lượng quảng cáo (ads) tăng lên, khả năng nhắm mục tiêu quảng cáo đến người dùng (Target) cũng tăng theo, điều này cuối cùng sẽ làm cho các quảng cáo trở nên có giá trị hơn (trong mắt cả người xem lẫn nhà quảng cáo).

Càng có nhiều người dùng, nền tảng hay doanh nghiệp càng có nhiều động lực để xây dựng và tối ưu ứng dụng và càng có nhiều ứng dụng, người tiêu dùng càng có thêm động lực để sử dụng dịch vụ và các sản phẩm liên quan khác.

Đây chính là bản chất của khái niệm cạnh tranh trong bối cảnh các nền kinh tế trung tâm hay tổ hợp trung tâm.

Các gã khổng lồ như MarketingTrips đã phân tích không chỉ tìm cách loại bỏ các doanh nghiệp truyền thống hay kinh doanh riêng lẻ khác, họ cũng không ngừng cạnh tranh với nhau.

Facebook mua lại Oculus để gia nhập nền kinh tế thực tế ảo (VR) mới nổi và theo đuổi tham vọng Metaverse. Microsoft đầu tư vào OpenAI thông qua ChatGPT và cải tiến công cụ tìm kiếm Bing (tích hợp AI mới) để đối đầu với đối thủ Google, hay Apple cũng sản xuất tai nghe thực tế ảo để đón đầu xu hướng kinh tế mới.

Hợp lực là cách để tránh bị đào thải bởi một đối thủ thống trị ngành.

Vào những năm 1990, cộng đồng mã nguồn mở (open-source) đã hợp lực để cạnh tranh với Microsoft Windows bằng hệ điều hành Linux. Các doanh nghiệp truyền thống như IBM và Hewlett-Packard (HP) cũng được truyền cảm hứng theo cách tương tự.

Ngày nay, Linux (và các sản phẩm liên quan đến Linux) đã được ứng dụng rộng rãi trong các doanh nghiệp, thiết bị tiêu dùng và cả điện toán đám mây (Cloud Computing). Tương tự như vậy, cộng đồng mã nguồn mở của Mozilla và trình duyệt Firefox cũng đã phá vỡ sự kìm kẹp của Microsoft trong thế giới khám phá internet.

Trong kỷ nguyên trực tuyến hay kỹ thuật số, sự hợp tác và phối hợp sẽ ngày càng quan trọng và đó là cách thức hiệu quả để duy trì sự cân bằng trong nền kinh tế kỹ thuật số (Digital Economy).

Để có thể trở nên bền vững, các bên (doanh nghiệp) tham gia phải đảm bảo lợi ích hài hoà trong toàn bộ sinh thái, đây chính là chìa khoá để có thể thoát khỏi sự thống trị của các gã khổng lồ, nền kinh tế trung tâm và hơn thế nữa.

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer

Nam Nguyen | MarketingTrips

Sản phẩm là yếu tố quyết định sự bền vững của doanh nghiệp bằng thị phần và thương hiệu

Trong kinh doanh và marketing, con đường an toàn và chắc chắn nhất là tạo ra một sản phẩm hay dịch vụ thật sáng tạo (innovation) và đặc thù (USP), đáp ứng đúng nhu cầu của khách hàng trong phân khúc lựa chọn.

Sản phẩm là yếu tố quyết định sự bền vững của doanh nghiệp bằng thị phần và thương hiệu
Sản phẩm là yếu tố quyết định sự bền vững của doanh nghiệp bằng thị phần và thương hiệu

Trong khi tầm nhìn và tư duy của người sáng lập (Founder) là khởi điểm để tạo dựng nên một doanh nghiệp thành công và bền vững. Điểm cốt lõi của doanh nghiệp luôn luôn là sản phẩm hay dịch vụ được bán ra thị trường, đó không phải là con người, tập thể, tổ chức hay bất cứ thành phần nào khác.

Người ta biết đến Microsoft qua Windows OS, đến Boeing qua các máy bay 747, 757, 777, biết đến Apple qua IPhone, biết đến LV qua các túi xách thời trang xa xỉ, biết đến Hilton qua các khách sạn…

Albert Einstein có thể là một thiên tài nhưng ông không tạo ra sản phẩm nào nên không có một di sản nào về kinh doanh; trong khi đó, dù nhiều người không biết ai là Thomas Edison, nhưng mỗi tháng công ty Edison vẫn thu tiền điện của hơn 60% hộ gia đình Mỹ.

Sản phẩm là yếu tố quyết định sự bền vững và tuổi thọ của doanh nghiệp bằng thị phần và thương hiệu. Để thỏa mãn 2 điều kiện này, sản phẩm hay dịch vụ phải thật đặc thù và đáp ứng được nhu cầu của khách hàng, ít nhất là trong thời điểm bắt đầu và liên tục được cải tiến sau đó.

Quá trình tạo dựng một thương hiệu quốc tế thường kéo dài cả trăm năm. Ngành IT còn quá mới và năng động để chúng ta có thể kiểm nhận định luật này, nhưng Microsoft, Intel, IBM…đang làm ngạc nhiên nhiều nhà phân tích với mức độ bền bỉ của thương hiệu.

Để bắt đầu xây dựng sản phẩm, điều đầu tiên bạn cần làm đó là xác định loại sản phẩm mà bạn muốn theo đuổi, tuỳ vào từng loại sản phẩm khác nhau, bạn có thể cần những chiến lược tiếp cận khác nhau.

Dưới đây là các loại sản phẩm chính hiện có trên thị trường.

Sản phẩm nguyên liệu.

Một sản phẩm được coi như là “nguyên liệu” khi nó không có gì để phân biệt với các sản phẩm đồng loại khác. Công nghệ, thương hiệu hay chất lượng trở thành một mặt bằng không ai hơn ai. Lợi thế cạnh tranh cho loại sản phẩm này là giá cả và hệ thống phân phối.

Phần lớn sản phẩm và dịch vụ bày bán trên thị trường đều nằm dưới hình thức “nguyên liệu” và dù đây là một thị trường dễ thâm nhập, cường độ cạnh tranh rất cao và mức lời gần như không có nhiều.

Các sản phẩm dược phẩm khi hết sự bảo vệ của bằng sáng chế thường rớt xuống giá “nguyên liệu” khiến những hãng đã kiếm lời khủng khi độc quyền các mặt hàng như Aspirin, Vaseline, Zocor…đều ngưng sản xuất vì mức lời không còn.

Gạo, Cà phê, đồ Nhựa…là những sản phẩm nguyên liệu khi không có thương hiệu hay đặc thù nên dù Việt Nam giữ vị trí số 1 trên thị phần quốc tế vẫn không đem lại một lợi tức đáng kể nào cho những người kinh doanh.

Sản phẩm sao chép (và cải tiến).

Dĩ nhiên, một sản phẩm sao chép, bắt chước hay cải tiến dựa trên các sản phẩm đang ăn khách vẫn có thể sinh lợi cho doanh nghiệp. Rất nhiều doanh nhân thế giới đã trở nên thành đạt bằng việc sao chép sản phẩm, kinh doanh bầy đàn theo đám đông hay chỉ thuần túy dựa trên các mối liên hệ để mua qua bán lại.

Các doanh nghiệp Trung Quốc đã chiếm giữ vị thế điều khiển các thị trường hàng hóa của tư nhân tại Đông Á dựa trên mậu dịch và liên hệ trong lãnh thổ của họ.

Tuy nhiên, những lợi thế cạnh tranh này đang bị bào mòn bởi các công ty đa quốc gia và sức mạnh của Internet và E-commerce (thương mại điện tử).

Loại sản phẩm này thường chỉ bùng lên một thời điểm nào đó rồi chìm lắng nếu không có cố gắng để thay đổi và cải tiến.

Các nhà sản xuất Trung Quốc đã kiềm tiền khá nhiều khi sao chép điện thoại IPhone, máy cày Caterpillar, xe hơi Chevrolet, khí cụ công nghiệp…nhưng nếu không có sáng tạo gì khác hơn, đây sẽ chỉ là một chiến thuật tìm kiếm thị phần qua giá cả. Cạnh tranh luôn khốc liệt và mệt mỏi khi mọi đối thủ phải liên tục bán với giá thấp nhất.

Sản phẩm của thế hệ kế tiếp (Next-gen Product).

Nhiều sản phẩm đi tiên phong trong việc khám phá thị trường mới và thành công trong việc giáo dục, tạo ra nhu cầu cho người tiêu dùng (chiến lược đại dương xanh).

Tuy nhiên, nếu người làm kinh doanh hay marketing không có một kế hoạch kinh doanh bài bản, có tiềm lực tài chính mạnh mẽ, một chiến lược Marketing thông minh cùng một đội ngũ quản lý tài năng và kiên nhẫn, họ sẽ bị đối thủ qua mặt.

Microsoft OS không phải là hệ điều hành PC đầu tiên, mà là OS viết bởi Dr. Gary Kildall.

Facebook ra đời sau MySpace 6 năm nhưng lại là nền tảng mạng xã hội lớn nhất thế giới hiện nay với gần 3 tỷ người dùng toàn cầu.

Trong khi đó, kẹo gum Wrigley hay máy lạnh Carrier là một thương hiệu bền vững ngay từ lúc bắt đầu hơn 100 năm trước và vẫn chiếm vị trí số 1 trên thị trường.

Hiểu rõ vị trí của sản phẩm của mình trong chuỗi nhu cầu (không ngừng thay đổi) của người tiêu dùng là cách để có được một chiến thuật hợp lý để từ đó tối ưu hóa các lợi thế cạnh tranh của mình.

Chiến thuật tạo ra các sản phẩm đặc thù.

Thực ra rất khó để có được một sản phẩm hoàn toàn mới lạ có thể ứng dụng trên toàn cầu. Chúng ta cần những đầu óc siêu việt như Edison hay Bell; và phần lớn nhân loại đều không có khả năng hay may mắn này.

Tuy nhiên, bằng cách không ngừng nỗ lực để giải quyết các vấn đề của khách hàng, doanh nghiệp vẫn có nhiều cơ hội để tạo ra các điểm khác biệt cho sản phẩm.

Dưới đây là một số cách bạn có thể tham khảo.

Chiến thuật đơn giản nhất là cải biến một sản phẩm thông dụng thông qua thiết kế, công nghệ, bao bì hay lối sắp xếp…

Nike là ví dụ tiêu biểu khi Phil Knight đem đôi giày chạy bộ bình thường và biến nó thành một biểu tượng vừa thoải mái vừa phong cách cho phần lớn dân số không nghĩ đến môn thể thao chạy bộ. Hay Starbucks và mô hình biến quán cà phê thành “trung tâm của các thương vụ”.

Coca Cola đã chiếm lĩnh thị trường vững chắc hơn sau khi thiết kế lại tay cầm lõm vào trong cho các sản phẩm nước ngọt đóng chai. Khi Ponomareva xếp túi trà xanh Nhật Bản thành hình những con chim origami, doanh thu gia tăng đột biến.

Một cách thức khá phổ biến khác để tạo ra sự riêng biệt cho sản phẩm là đưa sản phẩm hiện có vào một thị trường ngách chưa ai phục vụ. Cũng là nước uống đóng chai nhưng Evian, Perrier…khôn ngoan chọn mục tiêu là các khách hàng trí thức, nghệ sĩ, giới thượng lưu…Xe ô tô Porsche tạo danh tiếng với những loại xe thể thao cho giới trẻ giàu có, trong khi Volvo thì nhắm vào giới quản lý tuổi trung niên lấy an toàn làm ưu tiên.

Sau cùng, một chiến thuật marketing đặc biệt có thể tạo ra cảm giác mới lạ cho người tiêu dùng. CEO Sara Blakely đã thành tỷ phú với các trang phục đồ lót (underwear) cho phụ nữ khi táo bạo làm một màn biểu diễn thời trang (không được cấp phép) ngay trong cửa hàng danh tiếng Bloomingdale ở New York, Mỹ.

Thương hiệu Spanx nhờ đó cất cánh cùng với các mẫu tin trên các nền tảng truyền thông. Nhờ những cách marketing độc đáo, Richard Branson và thương hiệu Virgin đạt đến đỉnh cao trong nhiều lĩnh vực, từ hàng không, âm nhạc đến điện thoại, ngân hàng.

Khi bạn cố gắng ngồi đọc chừng 10 cuốn sách bán chạy nhất về nghệ thuật làm marketing, sự sáng tạo của bạn sẽ thăng hoa bất ngờ và nhiều ý tưởng giá trị sẽ liên tục xâm chiếm tư duy của bạn.

Để kinh doanh thành công, bạn cần trang bị những kiến thức căn bản về sự sáng tạo.

Dù doanh nghiệp của bạn đang kinh doanh loại sản phẩm gì, đó là sản phẩm nguyên liệu, bắt chước (sao chép) hay cải tiến, sự sáng tạo và khác biệt vẫn là những yếu tố quyết định sự thành công. Muốn có được yếu tố này, bản thân người lãnh đạo, chủ doanh nghiệp hay marketer cần phải có một niềm đam mê cá nhân về sản phẩm.

Có đam mê và coi công việc như một trò tiêu khiển (hobby), bạn mới đủ kiên nhẫn và ý chí để vượt qua những sự thất vọng hay thất bại luôn hiện diện trong hành trình mỗi ngày.

Như Steve Jobs, người sáng lập của Apple từng nói: “Chúng tôi tin rằng nếu chúng tôi cứ tiếp tục đặt những sản phẩm tốt hơn trước mặt khách hàng, họ sẽ tiếp tục mở ví tiền của họ một cách thoải mái nhất.”

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer

Hà Anh  | MarketingTrips   

Dám khác biệt: Từ các chiến lược Marketing trong đại dương xanh đến đại dương đỏ

Dám khác biệt được xem như là một trong những chìa khóa thành công cho các thương hiệu, đặc biệt trong bối cảnh môi trường xung quanh có quá nhiều sự cạnh tranh từ đối thủ.

Dám khác biệt: Từ các chiến lược Marketing trong đại dương xanh đến đại dương đỏ
Dám khác biệt: Từ các chiến lược Marketing trong đại dương xanh đến đại dương đỏ

Trong kinh doanh, hai tác giả Chan Kim và Renee Mauborgne đã cụ thể hóa sự “dám khác biệt” này bằng một chiến lược kinh doanh hẳn hoi, gọi là “chiến lược đại dương xanh” (Blue Ocean Strategy) trong quyển sách có cùng tên được xuất bản lần đầu vào năm 2004.

Theo đó, các thương hiệu muốn thành công trong một môi trường cạnh tranh khốc liệt thì phải nghĩ ra một hướng đi mới, một cách làm mới nhằm tạo nên sự khác biệt  để không còn phải cạnh tranh trực tiếp với các đối thủ hiện có ngoài thương trường.

Nói cách khác, sự khác biệt trong trường hợp này giúp doanh nghiệp trở thành người tiên phong trong một thị trường hoàn toàn mới do chính mình tạo ra. Quan điểm mới mẻ này đã nhận được sự ủng hộ và yêu thích rất lớn của độc giả kinh doanh khắp nơi trên thế giới, trong đó có tác giả của bài viết này.

Chính cái gọi là “đại dương xanh” đã giúp thương hiệu Phở 24 lên ngôi và phát triển bùng nổ trong giai đoạn 2003-2008, trước khi cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu xảy ra vào năm 2009.

Và dĩ nhiên là trước khi “đại dương xanh” đó đã biến thành đỏ rực như ngày hôm nay. Điều này cho thấy “dám khác biệt” không chưa đủ, mà phải tiếp tục tạo ra sự khác biệt nếu muốn liên lục dẫn đầu thị trường.

Trong marketing, yếu tố “dám khác biệt” cũng vô cùng quan trọng và được nhiều doanh nghiệp sử dụng như một chiến thuật tạo nên sự chú ý mạnh mẽ tức thì của thị trường, khi muốn giới thiệu một sản phẩm mới hay một thông điệp kinh doanh nào đó.

Ví dụ như chiến lược marketing đầy táo bạo, “không giống ai” của chuỗi Domino Pizza cách đây mấy chục năm với thông điệp quảng cáo là bánh được giao tận nơi trong vòng 30 phút, nếu trễ hơn thì không lấy tiền.

Chiêu thức quảng cáo này thành công đến nỗi bây giờ hễ nhắc đến thương hiệu Domino Pizza là người ta phải liên tưởng đến lời hứa giao hàng trong 30 phút năm nào.

Chiến lược này sau đó chỉ bị gỡ xuống do một loạt vụ thưa kiện lùm xùm liên quan đến những tai nạn giao thông xảy ra đối với các shipper do bị áp lực về thời gian giao hàng nên phải chạy xe quá tốc độ.

Một ông lớn khác trong ngành F&B là McDonald’s cũng từng áp dụng chiến lược marketing “phi truyền thống”, “dám khác biệt” khi lần đầu lấn sân sang lĩnh vực kinh doanh cà phê thông qua thương hiệu McCafe.

Làm sao thuyết phục khách hàng rằng một chuỗi nhà hàng quá nổi tiếng với mấy chiếc bánh hamburger lại có thể bán cà phê là một điều không dễ, nhất là thói quen của người tiêu dùng thời đó là ăn hamburger McDonald’s xong qua uống cà phê Starbucks.

Vậy mà McDonald’s đã làm rất tốt thông qua một chiến lược marketing sáng tạo và táo bạo, trước đó chưa ai từng làm. Đó là cho khách hàng uống cà phê miễn phí hoàn toàn trong suốt hai tuần với khẩu hiệu “Free coffee for all”.

Không dừng lại ở đó, logo của McCafe còn được dán, sơn, vẽ khắp nơi, bao gồm cả vỉa hè, trạm xe buýt, cột điện… Kết quả là rất nhiều người khen hay, nhưng cũng không ít người chê, phản ứng. Cái chính là mục tiêu của chương trình đã hoàn thành mỹ mãn, vì McCafe được mọi người chú ý, trải nghiệm và ủng hộ đến ngày hôm nay.

Tuy nhiên, dám làm điều khác biệt với mọi người lúc nào cũng kèm theo không ít áp lực, rủi ro. Cơ hội và rủi ro do đó cũng thường xuất hiện cùng một lúc như trường hợp của Domino Pizza chẳng hạn.

Còn nhớ cách đây nhiều năm, hãng hàng không Vietjet Air khi mới ra đời đã tung ra chiến lược marketing thật táo bạo để gây chú ý và xây dựng hình ảnh trẻ trung, vui nhộn của mình bằng cách cho các cô người mẫu mặc áo tắm bikini tạo dáng trên máy bay, làm dư luận, báo chí, cộng đồng mạng một phen dậy sóng. Đó là marketing phi truyền thống.

Hay cà phê Trung Nguyên thì tung ra chiến lược marketing rầm rộ với thông điệp tuyên chiến trực diện với chuỗi cà phê khổng lồ Starbucks khi thương hiệu này mới bước chân vào Việt Nam.

Đó cũng là marketing gây sốc, phi truyền thống, vì đâu có chuỗi cà phê nào trên thế giới dám tuyên chiến như vậy. Hay dở chỗ nào chưa biết, nhưng phải nói các thương hiệu này đã dám sáng tạo, dũng cảm bước ra khỏi các thông lệ để làm điều khác biệt.

“Dám khác biệt” không chỉ là dám đón nhận áp lực để bước ra khỏi những thông lệ bình thường, mà còn là dám từ chối chạy theo những trào lưu kinh doanh dễ dãi trong ngắn hạn nhưng pha loãng giá trị cốt lõi của doanh nghiệp trong dài hạn. Có được sự bình tâm trước những cơn lốc cơ hội như vậy đòi hỏi một bản lĩnh không bị hòa tan vào đám đông.

Cho nên “dám khác biệt” suy cho cùng là dám đeo đuổi những mục tiêu và giá trị thực tế, những thứ thật sự đem đến giá trị cho xã hội và cộng đồng. Đó mới là thành công.

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer

Hà Anh  | MarketingTrips   

Marketing trên TikTok: TikTok công bố báo cáo dữ liệu lập kế hoạch marketing mới

TikTok vừa công bố báo cáo mới, dữ liệu từ báo cáo đóng vai trò giúp người làm marketing có nhiều cách hơn để xây dựng chiến lược marketing cho quý mới, cuối năm và hơn thế nữa.

Marketing trên TikTok: TikTok công bố báo cáo dữ liệu lập kế hoạch marketing mới
Marketing trên TikTok: TikTok công bố báo cáo dữ liệu lập kế hoạch marketing mới

Nhằm mục tiêu giúp người làm marketing có thêm dữ liệu hỗ trợ cho việc lập kế hoạch marketing (Marketing Plan) cho những tháng cuối năm 2023 và đầu năm 2024, TikTok vừa công bố báo cáo dữ liệu sử dụng trên nền tảng mới.

Cộng đồng TikTok liên tục trải nghiệm trang For You.

Khi nghĩ đến việc xây dựng chiến lược tiếp cận khách hàng mục tiêu, các cơ hội mà người làm marketing có thể tận dụng trong năm 2023 vẫn đang diễn ra trên TikTok.

Cộng đồng người mua sắm và những người trung thành với thương hiệu trên TikTok vẫn luôn tích cực tương tác trên nền tảng.

  • 81% người dùng TikTok dự định dành cùng một khoảng thời gian hoặc nhiều hơn cho TikTok trong Quý 5.
  • 79% người dùng TikTok có khả năng sẽ tiếp tục mua sắm trong Quý 5.
  • 67% người dùng TikTok có khả năng dành cùng khoảng thời gian hoặc nhiều thời gian hơn để tải xuống các ứng dụng trong Quý 5.
  • 96% người dùng TikTok có các mục tiêu cụ thể mà họ tập trung vào trong năm 2024.

Cộng đồng TikTok đang tương tác nhiều hơn trong Quý 5.

Tiếp nối mùa tặng quà lớn nhất trong năm, FYP (Trang For You) là điểm nóng về các nội dung mua sắm, nhận xét và chia sẻ.

Theo TikTok, trong Quý 5:

  • Tổng số lượt xem video tăng 25% so với một tuần thông thường.
  • Số lượt xem tăng 70% cho hashtag #haul.
  • Lượt xem tăng 76% cho hashtag #sale.

Cộng đồng TikTok đang mua sắm nhiều hơn trong Quý 5.

3 lý do hàng đầu khiến người dùng TikTok dự định sẽ tiếp tục mua sắm trong Q5 là:

  • Để “đối xử” tốt hơn với bản thân (51%)
  • Để tận dụng đợt giảm giá sau kỳ nghỉ lễ (50%)
  • Chi tiêu tiền mặt và thẻ quà tặng đã nhận được trong dịp lễ (32%)

Trong Quý 5, phần lớn các giao dịch mua sắm đều hướng tới những mặt hàng thiết yếu như thực phẩm, quần áo và chăm sóc cá nhân.

Người dùng TikTok dự định tiếp tục mua sắm trong Quý 5 sẽ lên kế hoạch mua:

  • 58% chọn thực phẩm
  • 55% chọn quần áo
  • 52% chọn công nghệ hoặc game

Cộng đồng TikTok đang sử dụng thiết bị di động nhiều hơn trong Quý 5.

60% người dùng TikTok dự định mua các sản phẩm trò chơi trong Quý 5 dự định sẽ mua trên thiết bị di động (45%) hoặc mua hàng trong trò chơi – (in-game shopping), 38%.

61% người dùng TikTok dự định dành cùng một lượng thời gian (hoặc nhiều hơn) để chơi trò chơi điện tử trong Quý 5.

Cộng đồng TikTok đang suy ngẫm nhiều hơn về bản thân họ trong Quý 5.

  • Hơn 1 trong 4 người dùng TikTok có mục tiêu cho năm 2024 cho biết sẽ tải xuống các ứng dụng hoặc dịch vụ có thể giúp họ đạt được mục tiêu cá nhân trong năm 2024.
  • 30% người dùng TikTok có mục tiêu cho năm 2024 sẽ tìm đến những nhà sáng tạo TikTok để giúp đỡ họ trong suốt hành trình của mình.
  • 55% muốn xem mẹo về sức khỏe và thể chất từ người sáng tạo.
  • 41% muốn xem người sáng tạo đăng bài có nội dung thể hiện sự quyết tâm trong năm mới.
  • Đối với các nhà quảng cáo, việc hiểu những gì người dùng TikTok đang hướng tới trong năm mới có thể là một lợi thế lớn để thúc đẩy doanh số bán hàng và mức độ tương tác.

Mục tiêu của người dùng TikTok vào năm 2024 là:

  • 46% tập trung nhiều hơn vào bản thân
  • 43% hướng tới lối sống lành mạnh hơn
  • 41% học điều gì đó mới
  • 40% đi du lịch nhiều hơn

Bạn có thể tải xuống báo cáo chi tiết tại đây.

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer

Hà Anh  | MarketingTrips   

Hermes hưởng lợi nhờ những chiếc túi được cho là kênh đầu tư hấp dẫn hơn cả vàng

Trong thời buổi kinh tế khó khăn hiện nay, mua túi Hermes để giữ giá trị tài sản được cho là còn hấp dẫn hơn cả mua vàng hay chứng khoán.

Tập đoàn Kering, chủ sở hữu của thương hiệu Gucci vào tuần trước đã cảnh báo lợi nhuận của họ sẽ giảm trong năm nay và thậm chí chưa thể hồi phục ngay trong năm 2024.

Tương tự, doanh số của LVMH, công ty hàng xa xỉ lớn nhất thế giới cũng chỉ tăng 9% trong quý III, thấp hơn mức 2 con số những năm gần đây, qua đó cho thấy nhu cầu về những chiếc túi Luois Vuitton hay Dior đang giảm tốc.

Trái lại Hermes, dòng túi hạng siêu sang nổi tiếng thế giới lại đang có ngày càng nhiều người mua bất chấp đà đi xuống của thị trường xa xỉ trong bối cảnh nền kinh tế đối mặt nhiều thách thức.

Báo cáo tài chính mới đây cho thấy doanh số của Hermes tại thị trường Châu Âu và Mỹ trong quý III đã tăng trưởng kỷ lục, đối lập với doanh thu ảm đạm của nhiều đối thủ.

“Giới đại gia thực sự vẫn tiếp tục mua sắm bất chấp kinh tế khó khăn. Tất nhiên là họ sẽ đắn đo và suy xét về chất lượng thương hiệu nhiều hơn, nhưng những người giàu thật sự thì chẳng tiêu ít đi đâu”, chuyên gia Enrico Massaro của Barclays nhấn mạnh.

Cũng theo Massaro, dù thương hiệu Hermes không bùng nổ mạnh trong thời kỳ tăng trưởng của hàng xa xỉ như nhiều đối thủ khác nhưng nhờ danh tiếng bền vững và phân khúc thị trường hạng siêu sang mà hãng không bị ảnh hưởng quá nặng như các đối thủ khi thị trường đi xuống.

Cổ phiếu của Hermes đã có màn trình diễn ấn tượng trong bảng xếp hạng Stoxx Europe 10 Index chuyên về hàng xa xỉ.

Mã chứng khoán này đã tăng điểm thời gian gần đây trong khi những đối thủ như Kering (Gucci), Burberry, Ferragamo và LVMH (LV, Dior) đều lao dốc.

Hàng cho người siêu giàu.

Tờ Financial Times(FT) nhận định Hermes vẫn luôn đứng vững trong các đợt khủng hoảng kinh tế.

Ví dụ như trong đại dịch Covid-19, doanh số của Hermes không chịu tổn thương nhiều trong khi hàng loạt thương hiệu lao dốc ở thị trường Trung Quốc vì lệnh giãn cách.

Trước đó vào năm 2009, dư âm của khủng hoảng kinh tế cũng chẳng làm gì được Hermes khi doanh số tăng 4%, trong khi báo cáo của UBS cho thấy doanh số toàn ngành hàng xa xỉ giảm 4%.

Rõ ràng, cho dù giãn cách hay khủng hoảng thì người mua Hermes cũng ở một đẳng cấp khác, thừa tiền và quyền lực để đầu tư cho thương hiệu bền vững này.

Theo FT, một trong những yếu tố quan trọng khiến Hermes khác biệt so với những thương hiệu khác là hãng này không phụ thuộc quá nhiều vào chi tiêu của du khách, hay nói đúng hơn là phân cấp khách hàng chủ yếu là hạng siêu sang hơn là người tiêu dùng bình dân.

Tại Nhật Bản, khoảng 90% doanh số của Hermes đến từ khách hàng địa phương và con số này là 75% tại thành phố New York-Mỹ, chứ không phải là các du khách nước ngoài.

“Hãy cẩn thận khi phụ thuộc doanh số vào những du khách vì họ là đối tượng người mua dễ chịu ảnh hưởng từ nhiều yếu tố”, chuyên gia Zachary Sachs của Invesco cảnh báo.

Tự tạo sự khan hiếm.

Những thương hiệu siêu sang như Hermes cũng quản lý rất chặt các kênh bán lẻ của mình nhằm kiểm soát dòng hàng hóa cũng như giá bán.

Các sản phẩm của hãng hầu như không phân phối qua các nhà bán buôn nào, vốn thường là bên tung ra những đợt giảm giá khuyến mãi mạnh khi doanh số khó khăn.

Tờ FT cho hay việc Hermes kiểm soát chặt nguồn cung và kênh phân phối đã giúp tạo nên tình trạng khan hiếm giả tạo trên thịt trường, thúc đẩy cạnh tranh giữa các người mua và giữ giá cho những sản phẩm cũ.

Giám đốc David Older của Carmignac cho hay Hermes luôn biết giữ nguồn cung sao cho thấp hơn 4-5 lần so với nhu cầu thị trường, qua đó hưởng lợi về chiến lược giá qua sự khan hiếm hơn là chạy theo số lượng.

Chiến lược này của Hermes khiến những chiếc túi cũ của họ thậm chí còn đắt hơn cả lúc mới mua khi giao dịch trên thị trường thứ cấp.

Rất nhiều người giàu không thể mua được túi Hermes qua đường chính ngạch đã tìm đến thị trường thứ cấp hoặc những buổi đấu giá, qua đó càng đẩy giá dòng sản phẩm này đi lên.

Thậm chí những chiếc túi Hermes còn được Credit Suisse đánh giá là một trong những kênh đầu tư ổn định và hiệu quả nhất thời khủng hoảng.

Trong năm 2020 khi đại dịch diễn ra, báo cáo của Deloitte và Credit Suisse cho thấy những chiếc túi Hermes Birkin đạt lợi nhuận trung bình 38%, mức cao nhất trong số những hàng xa xỉ.

Đồng quan điểm, công ty nghiên cứu AMR vào năm 2020 cho biết giá trị của túi Hermes đã tăng 83% trong suốt 10 năm qua.

Tương tự, Knight Frank Investment Index chuyên theo dõi hiệu suất của tài sản đầu tư cũng xác định túi xách là tài sản mang lại mức lợi nhuận cao nhất.

Trong khi tác phẩm nghệ thuật và tem sưu tầm chỉ tăng 5-6% giá trị tính riêng trong năm 2019 thì túi xách cao cấp đã tăng đến 13%.

Một nghiên cứu năm 2017 của Baghunter tiết lộ giá trị của những chiếc túi Hermes Birkin đã tăng 500% trong 35 năm qua, tức là tăng trung bình 14% giá trị mỗi năm.

Xin được nhắc ràng giá bán của chiếc túi Birkin đầu tiên chỉ khoảng 2.000 USD.

Trong khi ngày nay, một chiếc Birkin bằng da tiêu chuẩn có giá ít nhất 10.000 USD, đó là chưa tính những mẫu Birkin độc đáo hơn, chẳng hạn như các mẫu nạm kim cương với bán lẻ với giá từ 75.000 – 300.000 USD tùy thuộc vào tình trạng, màu sắc và kích cỡ.

Hấp dẫn hơn cả đầu tư vàng.

Xét về giá trị trung bình từ những năm 1980, túi Kirbin trở thành khoản đầu tư có lợi suất cao hơn cả danh mục cổ phiếu S&P 500 và vàng, hai tài sản được nhiều chuyên gia ưa thích.

Chính vì thế, không ít người phải tìm đến giải pháp sở hữu Birkin tốn kém nhất: Đấu giá.

Vào năm 2017, Rachel Koffsky đã bán được phiên bản Metallic Bronze Birkin với giá 100.000 USD.

Mẫu Diamond Himalaya với kim cương và vàng 18 cara cũng phá kỷ lục với giá 400.000 USD, và sau đó vào năm 2019, chiếc túi một lần nữa được bán lại cho David Oancea với giá 500.000 USD, mang về khoản lợi nhuận khổng lồ chỉ trong vài năm.

Theo Business of Fashion, khoảng 40% người tiêu dùng Mỹ đã mua hoặc dự định mua một món đồ da hàng hiệu năm 2022, qua đó khiến giá trị của ngành có thể tăng từ 72 tỷ USD lên 100 tỷ USD vào năm 2027.

Riêng vào đầu năm 2023, những chiếc túi Hermes Birkin và Kelly đã tăng đến 10%, qua đó cho thấy kênh đầu tư này vẫn rất “nóng”.

Tình trạng những chiếc túi mua rồi vẫn có thể bán lại ngay với giá gấp nhiều lần khiến các khách nhà giàu sẵn sàng đấu giá mức cao cho các kiểu dáng hiếm có.

Khó tăng sản lượng?

Bất chấp những tranh cãi, Hermes cho biết họ không tăng sản lượng không phải vì muốn kinh doanh như vậy mà là do tiêu chuẩn chất lượng quá khắt khe.

Những chiếc túi của Hermes đều được khâu bằng tay bởi các nghệ nhân đầy kinh nghiệm ở Pháp.

“Hermès có xưởng thuộc da riêng. Da họ bán và sử dụng có giá cao hơn so với các loại da có thể so sánh trung bình trên thị trường”, chuyên gia Volkan Yilmaz trong ngành đồ da nhận định.

Lao động là một trong những chi phí lớn nhất khi sản xuất hàng hóa cao cấp và chi phí của một thợ thủ công lành nghề ở châu Âu cũng khác nhau.

Ông Yilmaz ước tính, với khoảng 6.000 Euro (6.366 USD) và khoảng 8 chiếc túi mỗi tháng, chi phí lao động cho mỗi chiếc túi Hermès Birkin hoặc Kelly là khoảng 800 Euro (gần 850 USD).

Hiện công ty chỉ đặt mục tiêu mở rộng sản xuất đồ da 6-7% mỗi năm.

Chủ tịch Axel Dumas của Hermes cho hay họ chỉ có thể bổ sung khoảng 250-300 nghệ nhân mỗi xưởng do các tiêu chuẩn khắt khe và quy trình sản xuất thủ công.

Tuy nhiên chuyên gia Zuzanna Pusz của UBS thì nói thẳng Hermes không chịu tăng ca qua đêm hay cố chạy theo sản lượng chỉ là chiêu trò nhằm đảm bảo sự độc đáo trong mô hình kinh doanh hàng xa xỉ này.

Tất nhiên, chiêu trò kinh doanh tạo sự khan hiếm giả này cũng có những rủi ro.

“Tạo sự khan hiếm giả sẽ làm gia tăng giá trị sản phẩm, nhưng cũng sẽ khiến nhiều các đại gia khó chịu, vốn là phân khúc khách hàng cực kỳ khó tính”, giám đốc Michael Kliger của Mytheresa đánh giá.

*Nguồn: FT

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer

Theo Băng Băng | Markettimes

Doanh thu của Apple giảm quý thứ tư liên tiếp (và sẽ tiếp tục giảm trong quý 4 năm 2023)

Ngày 2/11, Apple đã báo cáo quý thứ tư liên tiếp doanh thu giảm do triển vọng kinh tế ảm đạm làm suy yếu nhu cầu tiêu dùng, trong đó châu Á dẫn đầu về doanh số sụt giảm.

Doanh thu của Apple giảm quý thứ tư liên tiếp (và dự báo tiếp tục giảm trong quý 4 năm 2023)
Doanh thu của Apple giảm quý thứ tư liên tiếp (và dự báo tiếp tục giảm trong quý 4 năm 2023)

Tổng doanh thu giảm 0,7% trong năm xuống còn 89,5 tỷ USD trong ba tháng kết thúc vào ngày 30/9. Sân nhà của gã khổng lồ công nghệ ở châu Mỹ là khu vực duy nhất ghi nhận mức tăng trưởng, ở mức 0,8% trong năm lên 40,1 tỷ USD.

Tuy nhiên, châu Á chứng kiến doanh số bán hàng giảm trên toàn khu vực trong thời gian 3 tháng. Nhật Bản chịu sự sụt giảm doanh thu mạnh nhất trong tất cả các khu vực trong quý, giảm 3,4% xuống còn 5,5 tỷ USD.

Trong khi đó, Trung Quốc là động lực tăng trưởng chính của Apple trong những năm gần đây – báo cáo mức giảm 2,5% xuống còn 15,1 tỷ USD.

Tuy nhiên, Apple cho biết họ đã lập kỷ lục doanh số bán iPhone trong quý 9 tại Trung Quốc nhờ nhu cầu mạnh mẽ đối với dòng iPhone 15 mới ra mắt vào mùa thu này.

Giám đốc điều hành Apple Tim Cook đã đến thăm Trung Quốc một lần nữa vào tháng 10 sau chuyến thăm trước đó vào mùa xuân, khi doanh số bán iPhone phải đối mặt với những thách thức ở nước này trong bối cảnh triển vọng kinh tế nhìn chung ảm đạm.

“Về lâu dài, tôi xem Trung Quốc là một thị trường cực kỳ quan trọng và tôi rất lạc quan về điều đó”, CEO Tim Cook cho biết trong cuộc họp báo thu nhập hôm thứ Năm.

Doanh thu ở phần còn lại của khu vực châu Á – Thái Bình Dương giảm 0,7% xuống còn 6,3 tỷ USD. Châu Âu ghi nhận doanh thu giảm 1,5% xuống còn 22,5 tỷ USD. Cổ phiếu Apple đã giảm hơn 3% trong phiên giao dịch kéo dài ngày 2/11.

Nguồn doanh thu chính của công ty, iPhone, báo cáo doanh thu tăng 2,8% so với cùng kỳ năm ngoái lên 43,8 tỷ USD – một kỷ lục mới trong quý tháng 9. Apple cho rằng sự tăng trưởng này là nhờ vào các thị trường mới nổi như Ấn Độ, nơi doanh số bán hàng đạt mức cao nhất mọi thời đại.

“Đó là một thị trường cực kỳ thú vị đối với chúng tôi và là trọng tâm chính của chúng tôi. Chúng tôi có thị phần thấp trong một thị trường rộng lớn, vì vậy có vẻ như còn rất nhiều khoảng trống ở đó”, ông Tim Cook nói.

Apple cho biết, iPhone 15 Pro và iPhone 15 Pro Max hiện đang phải đối mặt với những hạn chế về nguồn cung và họ dự kiến sẽ đạt được sự cân bằng cung cầu vào cuối quý hiện tại.

Tuy nhiên, phân khúc Mac đã ghi nhận mức giảm doanh thu 33,8% trong năm xuống còn 7,6 tỷ USD. Doanh thu của phân khúc iPad giảm 10,2% xuống còn 6,4 tỷ USD.

Ngày 30/10, Apple đã ra mắt máy Mac với chip nội bộ M3 mới, công ty hy vọng sẽ tiếp thêm sinh lực cho doanh số bán hàng của thương hiệu máy tính này.

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer

Hà Anh  | MarketingTrips   

Trung Quốc tìm cách chặn sức ảnh hưởng từ những người có ảnh hưởng

Việc thực hiện yêu cầu “người có ảnh hưởng” (Influencer) sử dụng tên thật trên mạng xã hội nhằm mục đích thúc đẩy các tài khoản “tự truyền thông” có ảnh hưởng phải chịu trách nhiệm tương ứng khi thảo luận về các chủ đề nóng trên mạng xã hội.

Trung Quốc tìm cách chặn sức ảnh hưởng từ những người có ảnh hưởng
Trung Quốc tìm cách chặn sức ảnh hưởng từ những người có ảnh hưởng

Reuters cho hay quy định mới yêu cầu các tài khoản “tự truyền thông” của những người có ảnh hưởng không được để ẩn danh.

Quy định áp dụng cho các mạng xã hội phổ biến nhất của Trung Quốc, bao gồm công cụ tìm kiếm Baidu, Douyin (TikTok của Trung Quốc), ứng dụng nhắn tin WeChat, trang web chia sẻ video Bilibili, ứng dụng thương mại điện tử xã hội Xiaohongshu và nền tảng tiểu blog Weibo.

“Tự truyền thông” được hiểu là việc truyền tải những tin tức, hình ảnh, video, thông tin … chưa được chính phủ phê duyệt.

Phản ứng về quy định mới, một số nền tảng như WeChat và Sina Weibo cho biết trước tiên họ sẽ mời các tài khoản có hơn 1 triệu người theo dõi trở lên công khai thông tin tên thật của mình.

Việc thực hiện yêu cầu “người có ảnh hưởng” (Influencer) sử dụng tên thật trên mạng xã hội nhằm mục đích thúc đẩy các tài khoản “tự truyền thông” có ảnh hưởng phải chịu trách nhiệm tương ứng khi thảo luận về các chủ đề nóng trên mạng xã hội.

Các tài khoản của những người có sức ảnh hưởng có thể ảnh hưởng lớn đến việc định hướng dư luận so với người dùng thông thường. Weibo cho biết các động thái này nhằm mục đích thúc đẩy hơn nữa một hệ sinh thái trực tuyến lành mạnh.

Do đó, bất kỳ người dùng phổ biến nào không tuân thủ chính sách mới này sẽ bị hạn chế lưu lượng truy cập trực tuyến và bị giảm thu nhập mà họ có thể tạo ra trên mỗi nền tảng.

Dẫu vậy, quy định bắt buộc hiển thị thông tin tên thật đã gây lo ngại về doxxing và quyền riêng tư giữa một số người dùng. Doxing là một hình thức đe dọa trực tuyến khi thông tin cá nhân của người dùng được công khai trên mạng xã hội.

Trung Quốc là một trong những quốc gia áp dụng các biện pháp quản lý internet nghiêm ngặt nhất thế giới. Các chuyên gia cho rằng động thái mới nhất nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người dùng trực tuyến Trung Quốc.

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer

Hà Anh  | MarketingTrips   

Google cập nhật thuật toán lõi tháng 11 năm 2023 mới

Google vừa cho ra mắt bản cập nhật thuật toán lõi tháng 11 năm 2023 mới, đây là lần thứ 4 Google cập nhật thuật toán lõi (Google Core Algorithm Update) của hệ thống trong năm 2023.

Google cập nhật thuật toán lõi tháng 11 năm 2023 mới
Google cập nhật thuật toán lõi tháng 11 năm 2023 mới

Theo đó, Google vừa công bố triển khai bản cập nhật thuật toán cốt lõi mới nhất tháng 11 năm 2023, với tên gọi “Bản cập nhật thuật toán lõi tháng 11 năm 2023“.

Đây là lần thứ 4 trong năm nay Google đã cập nhật thuật toán lõi đối với hệ thống xếp hạng tìm kiếm, lần đầu vào tháng 3 và lần thứ 2 vào tháng 8 mới đây.

Cũng giống như các bản cập nhật khác, những thay đổi (nếu có) dự kiến ​​sẽ mất nhiều tuần để hoàn thành, điều này có nghĩa là các ảnh hưởng của thuật toán đến website dù tốt hay xấu cũng sẽ không dừng lại trong vài ngày tới.

Thuật toán là gì?

Thuật toán trong tiếng Anh có nghĩa là Algorithms.

Chủ yếu được sử dụng trong lĩnh vực khoa học máy tính và công nghệ, thuật toán là khái niệm đề cập đến một quá trình được sử dụng để xử lý, tính toán hay giải quyết một vấn đề nào đó.

Các thuật toán hoạt động như một danh sách bao gồm nhiều các hướng dẫn khác nhau dùng để thực thi các hành động cụ thể dựa trên phần cứng hoặc phần mềm.

Khái niệm thuật toán vốn được sử dụng rộng rãi trong các lĩnh vực như công nghệ, lập trình, trong toán học, trong ngành khoa học máy tính hay thậm chí là trong kinh doanh và marketing, tuỳ thuộc vào từng điều kiện cụ thể, các thuật toán được ứng dụng theo những cách khác nhau.

Có gì trong các bản cập nhật thuật toán lõi của Google (Google Core Algorithm Updates).

Về tổng thể, để cải thiện chất lượng tìm kiếm và ngăn chặn việc hệ thống xếp hạng tìm kiếm bị đánh lừa (gian lận), Google sẽ định kỳ tung ra các thuật toán mới gọi là cập nhật thuật toán lõi.

Trong khi các ảnh hưởng của nó đến website có thể tốt hoặc xấu, tác động ít hoặc nhiều, điều quan trọng với các marketer hay SEOer là theo dõi và đo lường kết quả để từ đó có thể đưa ra các hành động xử lý kịp thời.

Những điểm chính quan trọng đáng chú ý có trong thuật toán lõi tháng 11 năm 2023 này của Google.

Theo như thông tin được công bố, dưới đây là một số điểm chính cần nhớ với bản cập nhật thuật toán lõi tháng 11 năm 2023 mới của Google.

Một số thứ mới trong bản cập nhật thuật toán lõi tháng 11.

Google cho biết rằng bản cập nhật lõi mới này liên quan nhiều hơn đến việc cải tiến hệ thống so với các bản cập nhật trước. Google cũng cập nhật phần hỏi đáp về thuật toán tìm kiếm của hệ thống bạn có thể xem tại đây.

Nhiều thay đổi sẽ diễn ra trong vài tuần tới.

Bên cạnh việc bản cập nhật mới sẽ ảnh hưởng đến thứ hạng của các website (tốt hoặc xấu) trong vài tuần tới, Google cho biết đây cũng sẽ là lần cuối cùng nền tảng thông báo về việc cải tiến hệ thống đánh giá và xếp hạng “vì chúng sẽ được diễn ra với tốc độ thường xuyên hơn và nhanh hơn”.

Một số điểm lưu ý chính có trong bản cập nhật.

  • Nói về tốc độ ra mắt các thuật toán lõi, Google cho biết, bản cập nhật mới chứa nhiều yếu tố khác so với các bản cập nhật trước đó nên nó được ưu tiên.
  • Sự khác biệt giữa cập nhật xếp hạng và hệ thống xếp hạng: Google cho biết “Hệ thống xếp hạng là những gì chúng tôi sử dụng để tạo ra kết quả tìm kiếm. Chúng tôi sử dụng nhiều hệ thống xếp hạng khác nhau để thực hiện những việc khác nhau. Cập nhật xếp hạng là khi chúng tôi thực hiện các hành động nhằm cải tiến hệ thống xếp hạng.”
  • Nói về lý do cập nhật của các thuật toán lõi, Google cho biết: “Chúng tôi sử dụng hệ thống tự động để xếp hạng kết quả tìm kiếm và giống như bất kỳ điều gì khác, những hệ thống này vốn không hoàn hảo. Chúng tôi luôn tìm cách để cải thiện chúng với mục tiêu mang lại những kết quả tốt hơn.”

Nâng cao trải nghiệm tìm kiếm là mục tiêu cốt lõi của các bản cập nhật hay thuật toán xếp hạng của Google.

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer

Nam Nguyen | MarketingTrips

Một vài cách đơn giản để bảo vệ thương hiệu từ các quảng cáo trên Google

Brand Safety hay sự an toàn của thương hiệu từ đâu đã trở thành một trong những mối quan tâm hàng đầu của các nhà quảng cáo trên các nền tảng kỹ thuật số khi việc hiển thị quảng cáo trên hoặc bên cạnh các nội dung độc hại cũng có thể làm ảnh hưởng trực đến danh tiếng của thương hiệu.

Một vài cách đơn giản để bảo vệ thương hiệu từ các quảng cáo trên Google
Một vài cách đơn giản để bảo vệ thương hiệu từ các quảng cáo trên Google

Để có thể giúp các thương hiệu duy trì sự an toàn trên các nền tảng của mình, Google mới đây đã giới thiệu một số cập nhật với hệ thống quảng cáo trên YouTube và cả Mạng lưới hiển thị quảng cáo của Google (GDN).

Đại diện của Google về Niềm tin và trách nhiệm với nhà quảng cáo, cũng đã trình bày nhiều tùy chọn khác nhau để bảo vệ thương hiệu, chẳng hạn như tính năng mới cho phép người làm marketing dễ dàng lựa chọn các chủ đề (Theme) mà họ muốn loại trừ trên cả YouTube và GDN.

Dưới đây là tổng hợp một số cách mà nhà quảng cáo Google có thể bảo vệ thương hiệu của mình.

1. Loại trừ các chủ đề nội dung không phù hợp.

Giờ đây, trên phạm vi toàn cầu, nhà quảng cáo có thể dễ dàng lọc ra các chủ đề trên YouTube và GDN không phù hợp với thương hiệu của họ. Các bộ lọc này đóng vai trò hạn chế và loại bỏ việc các quảng cáo của thương hiệu hiển thị trên các chủ đề nội dung không phù hợp.

2. Sử dụng tính năng dự báo tác động trong Google Ads.

Tính năng dự báo tác động hay Estimated Impact là công cụ cho phép nhà quảng cáo đánh giá tác động của các cài đặt hiện có trên chiến dịch đối với không gian quảng cáo (Ad Inventory), số lần hiển thị và cả chi phí quảng cáo. Tính năng này hiện đã khả dụng với tất cả các nhà quảng cáo Google Ads.

Nhà quảng cáo cũng có thể sử dụng công cụ này để phân tích mức độ ảnh hưởng của việc loại trừ một số nội dung nhất định đến phạm vi tiếp cận và hiệu suất của quảng cáo.

3. Tận dụng AI để đảm bảo an toàn cho quảng cáo.

Công nghệ AI của YouTube hiện có thể phát hiện các mẫu giúp nền tảng phát hiện nội dung tương tự đã bị xóa trước đó – thậm chí là trước khi nội dung đó được nhìn thấy.

AI cũng được dùng để tự động xác định và xóa các nội dung vi phạm các quy tắc của YouTube.

4. Điều chỉnh vị trí đặt quảng cáo trên YouTube.

YouTube hiện cung cấp các loại không gian quảng cáo phù hợp cho nhiều lĩnh vực hơn, bao gồm cả YouTube Shorts, cho phép các marketer điều chỉnh chiến dịch của họ cho phù hợp với các danh mục nội dung cụ thể.

Tùy thuộc vào thương hiệu, nhà quảng cáo có thể chọn không gian quảng cáo giới hạn hoặc mở rộng, từ đó giúp thương hiệu linh hoạt trong việc tiếp cận đối tượng mục tiêu của mình.

Bà Danielle Wolinsky, Trưởng nhóm toàn cầu của Google về Niềm tin và Trách nhiệm với Nhà quảng cáo, cho biết trong một tuyên bố:

  • “Trong ngành này, có một điều sẽ không bao giờ thay đổi đó là những người làm marketing cũng như người dùng cần phải tin tưởng vào toàn bộ hệ sinh thái quảng cáo. Đó cũng là cách chúng tôi có thể giữ cho các nền tảng của mình trở nên an toàn.”
  • “Sự phù hợp và an toàn của thương hiệu là ưu tiên hàng đầu của chúng tôi. Chúng tôi luôn tích cực thực thi các chính sách mới dành cho nhà xuất bản của mình và nỗ lực để đảm bảo quảng cáo của thương hiệu trên YouTube không xuất hiện bên cạnh các nội dung độc hại”.
  • Tính minh bạch và khả năng kiểm soát đối với người làm marketing đang được nâng cao hơn bao giờ hết.”

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer

Amazon chính thức ra mắt tuỳ chọn “Mua trước – Trả sau” cho doanh nghiệp

Gã khổng lồ ngành thương mại điện tử Amazon vừa công bố ra mắt tính năng mua trước trả sau (BNPL – Buy now, Pay later) cho các doanh nghiệp nhỏ hiện đang sử dụng các cửa hàng trực tuyến của Amazon.

Amazon chính thức ra mắt tuỳ chọn "mua trước trả sau" cho doanh nghiệp
Amazon chính thức ra mắt tuỳ chọn “mua trước trả sau” cho doanh nghiệp

Theo đó, Amazon đã lần đầu tiên ra mắt tùy chọn “mua trước – trả sau” cho hàng triệu chủ doanh nghiệp nhỏ đang sử dụng cửa hàng trực tuyến của Amazon (Theo CNBC).

Để triển khai tuỳ chọn mới, Amazon cũng công bố mối quan hệ đối tác mới với Affirm, một công ty chuyên về lĩnh vực công nghệ tài chính (Fintech) của Mỹ.

Thông qua tuỳ chọn mới, các khoản vay từ 100 USD đến 20.000 USD, sẽ có sẵn cho tất cả khách hàng đủ điều kiện trước. Dịch vụ này hiện chỉ dành riêng cho các chủ sở hữu duy nhất hoặc các doanh nghiệp nhỏ do một người sở hữu, cũng chính là hình thức sở hữu doanh nghiệp phổ biến nhất tại Mỹ.

Ông Todd Heimes, giám đốc Amazon Business Worldwide, cho biết trong một cuộc phỏng vấn: “Chúng tôi liên tục nghe các doanh nghiệp nhỏ nói rằng họ cần các giải pháp thanh toán để quản lý dòng tiền của mình. Chúng tôi cung cấp khả năng sử dụng thẻ tín dụng và thanh toán bằng hóa đơn; đây là một lựa chọn khác dành cho khách hàng doanh nghiệp nhỏ để thanh toán từng đợt theo thời gian.”

Nếu được chấp thuận, người dùng có thể thanh toán các giao dịch mua hàng trên Amazon theo từng đợt bằng nhau trong khoảng thời gian từ 3 đến 48 tháng. Theo Giám đốc Doanh thu của Affirm Wayne Pommen, khách hàng (doanh nghiệp) sẽ phải trả lãi suất hàng năm từ 10% đến 36%, dựa trên rủi ro nhận thấy của giao dịch.

Nói về mô hình kinh doanh, Affirm sử dụng các mô hình riêng của mình để bảo lãnh cho các khoản vay cho mỗi giao dịch của nền tảng, doanh nghiệp này hiện đang nhắm mục tiêu vào các doanh nghiệp chỉ có một người sở hữu khi nhóm này chiếm hầu hết các doanh nghiệp nhỏ trong nước, với khoảng 28 triệu doanh nghiệp đăng ký ở Mỹ (theo Pommen).

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer

Hà Anh  | MarketingTrips   

Hàng giả và không rõ nguồn gốc được livestream bán tràn lan trên mạng xã hội

Tổng cục Quản lý thị trường cho biết, sau một thời gian dài thẩm tra, xác minh với hàng nghìn giờ theo dõi trên livestream của đối tượng, sáng ngày 2/11, khi nhân viên đang tiến hành livestream bán hàng, Cục Nghiệp vụ Quản lý thị trường, Tổng cục Quản lý thị trường (QLTT) phối hợp với Cục QLTT tỉnh Gia Lai và Đội Cảnh sát kinh tế, Công an thành phố Pleiku bất ngờ ập vào kiểm tra Hộ kinh doanh Trương Ngọc Quyên (Ngọc Quyên Shop), địa chỉ 121/5 Lê Đại Hành, tổ 3, phường Đống Đa, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai.

Cơ sở này đã tiến hành đăng ký thủ tục thành lập hộ kinh doanh lần đầu tại Phòng Tài chính – Kế hoạch, UBND TP Pleiku vào đầu tháng 3 năm 2021 với địa chỉ trụ sở chính tại số 121 Lê Đại Hành, tổ 3, phường Đống Đa, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai với ngành nghề buôn bán hàng may mặc.

Bạt ngàn thương hiệu thế giới giá vài chục ngàn.

Ập vào Hộ kinh doanh Trương Ngọc Quyên đầu giờ sáng ngày 2/11, lực lượng chức năng ghi nhận hàng hóa được chất đống ngổn ngang từ khu vựa phía ngoài cổng đến kho chứa trữ sâu bên hông khu vực nhà ở.

La liệt các sản phẩm như nước hoa Gucci, Tom Ford, YSL, Chanel, Louis Vuitton, Dior, Boss, Sauvage, Lancôme, Kilian….; giầy, dép, túi, ví các thương hiệu Louivuiton, Chanel, adidas, Nike; Mỹ phẩm các nhãn hiệu Vaseline, Bioderma; các loại thực phẩm chức năng giảm cân cấp tốc trong vòng 7 ngày cùng hàng loạt các mặc hàng là đồ gia dụng, tiêu dùng không rõ nguồn gốc xuất xứ.

Tại Hộ kinh doanh Trương Ngọc Quyên không có cửa hàng kinh doanh cố định. Toàn bộ hàng hóa được kinh doanh trên nền tảng thương mại điện tử, cụ thể là livestream bán qua Facebook cá nhân dưới tên “Ngọc Quyên Gia Lai”, tài khoản này có hàng trăm nghìn người theo dõi. Các livestream cũng được phát lại tại các tài khoản khác mang tên “Ngọc Quyên”.

Tại các phiên livestream mà lực lượng Quản lý thị trường theo dõi, rất nhiều các sản phẩm như giày Gucci, giày Adidas, hay Nike được Shop chào bán với giá từ 80.000 đến trên 100.000 đồng/ sản phẩm.

Các loại đồng hồ, kính mắt các nhãn hiệu Versace, Gucci, LV có giá từ 30.000 đồng đến dưới 200.000 đồng/sản phẩm. Các loại mỹ phẩm, hàng tiêu dùng, nước giặt có giá từ 20.000 đến dưới 100.000 đồng/sản phẩm.

Theo nhận định ban đầu của lực lượng chức năng, hành vi vi phạm tại Hộ kinh doanh Trương Ngọc Quyên có dấu hiệu sử dụng ứng dụng bán hàng không thông báo với cơ quan có thẩm quyền; kinh doanh hàng giả mạo nhãn hiệu, hàng không rõ nguồn gốc xuất xứ, hàng nhập lậu.

Theo ước tính, số lượng hàng hóa có dấu hiệu vi phạm lên đến hàng chục ngàn sản phẩm. Tại thời điểm kiểm tra chủ cơ sở kinh doanh chưa xuất trình được các hóa đơn chứng từ hợp pháp đồng thời thừa nhận hàng hóa được nhập chủ yếu trên nền tảng thương mại điện tử từ nhiều địa điểm khác nhau.

Với 7-8h livestream mỗi ngày, hàng trăm đơn hàng là giày, dép, túi xách, nước hoa, mỹ phẩm, thực phẩm chức năng không rõ nguồn gốc, có dấu hiệu giả mạo nhiều nhãn hiệu nổi tiếng, hàng nhập lậu, hàng không rõ nguồn gốc xuất xứ đã được Hộ kinh doanh Trương Ngọc Quyên chốt đơn thành công. Đáng chú ý, rất nhiều các sản phẩm mang thương hiệu thế giới như Chanel, Gucci, Dior, YSL có giá chỉ từ 30.000 đến trên 100.000 đồng/sản phẩm.

Quyết tâm truy quét hàng giả trên không gian mạng.

Trong thời gian qua, việc kinh doanh trên nền tảng thương mại điện tử nở rộa tại Việt Nam, nhất là từ khi đại dịch Covid-19 bùng phát, hình thức này càng được nhân rộng và phát triển gấp bội.

Tại nhiều tỉnh thành, lực lượng QLTT đã truy quét và xử lý triệt để hàng loạt các vụ việc, thu giữ lượng lớn hàng hóa vi phạm. Đã có nhiều vụ việc Quản lý thị trường tiến hành chuyển hồ sơ sang Cơ quan Công an khởi tố, bắt tạm giam đối tượng vi phạm.

Mới đây nhất, Cơ quan cảnh sát điều tra công an tỉnh Thanh Hóa cũng đã tiến hành khởi tố 2 bị can về tội Xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp, quy định tại khoản 2 Điều 226 Bộ luật hình sự. Hai đối tượng là Trương Thị Liên (SN 1971 ở xã Hoạt Giang, huyện Hà Trung) và Nguyễn Thị Thảo (sinh năm 1994 ở phường Quảng Châu, TP. Sầm Sơn, là con dâu của Liên).

Kết quả điều tra ban đầu xác định, Trương Thị Liên cùng con dâu là Nguyễn Thị Thảo đã mua nhiều loại hàng hóa khác nhau giả mạo nhãn hiệu nổi tiếng thế giới nhưng không được các chủ sở hữu hàng hóa bị giả mạo nhãn hiệu ủy quyền hoặc cho phép sử dụng nhãn hiệu trên thị trường Việt Nam.

Tổng số hàng hóa giả mạo nhãn hiệu gồm 54 chủng loại với 13.370 sản phẩm, trụ giá trên 973 triệu đồng. Vụ việc được kiểm tra cuối tháng 4 năm 2022 do Cục Nghiệp vụ Quản lý thị trường phối hợp với Cục QLTT tỉnh Thanh Hóa thực hiện dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Tổng cục QLTT.

Đặc biệt, ngày 29/3/2023, Thủ tướng Chính phủ đã ký ban hành Quyết định số 319/QĐ-TTg phê duyệt Đề án về chống hàng giả và bảo vệ người tiêu dùng trong thương mại điện tử đến năm 2025. Đề án nhằm mục tiêu chung là hoàn thiện chính sách, pháp luật về chống hàng giả và bảo vệ người tiêu dùng Trong hoạt động thương mại điện tử.

Tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức để các cấp, các ngành, người dân doanh nghiệp tự giác, chấp hành tốt chủ trương của đảng, chính sách pháp luật của nhà nước trong công tác chống hàng giả và bảo vệ người tiêu dùng.

Nâng cao hiệu quả bảo vệ người tiêu dùng trong hoạt động thương mại điện tử tạo niềm tin cho người tiêu dùng trong hoạt động giao dịch, mua bán trực tuyến, quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp, người tiêu dùng được bảo đảm.

Bảo đảm hoạt động thương mại điện tử minh bạch, lành mạnh, bảo vệ hiệu quả quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp và người tiêu dùng, thúc đẩy phát triển thương mại điện tử bền vững tại Việt Nam.

Theo Lãnh đạo Tổng cục QLTT, không chỉ tại Gia Lai, trong thời gian tới lực lượng QLTT sẽ tăng cường theo dõi, rà soát để phát hiện, ngăn chặn kịp thời các hành vi bán hàng giả mạo nhãn hiệu đã đăng ký bảo hộ tại Việt Nam, hàng không rõ nguồn gốc xuất xứ, hàng nhập lậu công khai trên các nền tảng thương mại điện tử, góp phần mang lại niềm tin cho người dân và xã hội, kiến tạo môi trường kinh doanh bình đẳng cho các doanh nghiệp trong nước cũng như thu hút sự quan tâm, tin tưởng của các DN nước ngoài khi đầu tư tại thị trường Việt Nam.

Đối với hàng hóa tại Hộ kinh doanh Trương Ngọc Quyên trên địa bàn TP Pleiku, tỉnh Gia Lai, hiện lực lượng QLTT đang tiến hành kiểm đếm, phân loại sản phẩm vi phạm để làm cơ sở xử lý theo quy định.

Theo VTV

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer

Hà Anh  | MarketingTrips   

Top 5 xu hướng của các nền tảng kỹ thuật số năm 2023 từ MIT

MIT vừa công bố báo cáo xu hướng phát triển của các nền tảng kỹ thuật số (Digital Platform) năm 2023 mới.

Top 5 xu hướng nền tảng kỹ thuật số năm 2023 từ MIT
Top 5 xu hướng nền tảng kỹ thuật số năm 2023 từ MIT

Trong bối cảnh hiện tại, nhờ vào sự phát triển vượt bậc của công nghệ, các nền tảng kỹ thuật số đã và đang làm thay đổi vĩnh viễn cách con người giao tiếp, giải trí, mua sắm, cộng tác và hơn thế nữa.

Trong tương lai, các hệ sinh thái đa kết nối (interconnected ecosystems) được kỳ vọng là sẽ tiếp tục để lại nhiều dấu ấn không thể xóa nhòa trong nền kinh tế tuần hoàn (interconnected ecosystems) và hoạt động sản xuất, ngay cả khi các doanh nghiệp hay tổ chức phải vật lộn với những thách thức như làm thế nào để tạo ra giá trị, các quy định và cả việc đối phó với những thông tin sai lệch.

Để có thể hình dung rõ hơn về cách các nền tảng kỹ thuật số và yếu tố công nghệ tác động đến bối cảnh kinh tế và giao tiếp nói chung, dưới đây là 5 xu hướng nền tảng kỹ thuật số năm 2023 từ MIT mà bạn có thể tham khảo.

1. Sự tích hợp ngày càng rộng của trí tuệ nhân tạo.

Vào năm 2023 này và xa hơn thế nữa, trí tuệ nhân tạo (AI) sẽ tiếp tục được mở rộng sang các nền tảng. AI sẽ là nền tảng để nâng cao khả năng mở rộng và tính linh hoạt, nâng cao khả năng ra quyết định, và cả sự cộng tác giữa con người và máy tính.

Một số nền tảng sẽ xây dựng và bán công nghệ AI dưới dạng dịch vụ (AI-TaaS) trong khi những nền tảng khác sẽ áp dụng AI để thúc đẩy hoạt động kinh doanh của riêng họ.

Mặc dù có vô số cơ hội nhưng bên cạnh đó vẫn tồn tại không ít các thách thức nghiêm trọng liên quan đến AI. Từ những thành kiến tiềm ẩn, những thách thức về nguồn lao động, sự phân bổ không đồng đều về lợi ích của AI đến cả nhiều rủi ro về tính bảo mật.

2. Sự phát triển của các nền tảng tuần hoàn.

Các chuyên gia khẳng định rằng các nền tảng sẽ đóng môt vai trò hỗ trợ quan trọng cho nền kinh tế tuần hoàn và các mục tiêu bền vững (sustainability) bằng cách cho phép trao đổi giữa sản phẩm và nguyên liệu cũng như hỗ trợ chuỗi cung ứng tập trung đến việc tái sử dụng, sửa chữa, thiết kế lại và tái chế.

Dưới đây là một số cơ hội của các nền tảng trong nền kinh tế tuần hoàn:

  • Trao đổi sản phẩm và nguyên vật liệu: Các doanh nghiệp trao đổi những vật liệu dư thừa hoặc chất thải có thể được tái sử dụng cho các trường hợp sử dụng khác.
  • Các thị trường hay nền tảng mua bán lại (resale marketplaces) đối với quần áo và các mặt hàng khác.
  • Các nền tảng chia sẻ tài sản như ô tô và không gian bất động sản để giảm công suất nhàn rỗi.
  • Mạng lưới nhà cung cấp tuần hoàn cam kết thực hiện các hoạt động như chương trình thu hồi và giảm chất thải.
  • Các nền tảng vận chuyển bền vững hướng tới mục tiêu giảm lượng khí thải carbon và số quãng đường di chuyển.

3. Có nhiều quy định hơn cho các nền tảng.

Top 5 xu hướng của các nền tảng kỹ thuật số năm 2023 từ MIT
Top 5 xu hướng của các nền tảng kỹ thuật số năm 2023 từ MIT

Việc giám sát các nền tảng kỹ thuật số mà đặc biệt là các nền tảng mạng xã hội sẽ tiếp tục là trọng tâm trong những năm tới.

Trong khi Mục 230 của Đạo luật về giao tiếp tại Mỹ năm 1996 quy định các nền tảng có quyền miễn trừ pháp lý đối với các nội dung do bên thứ ba đăng trên trang web hay ứng dụng của họ, cùng với đó là khả năng xóa hoặc chặn quyền truy cập.

Đạo luật về dịch vụ kỹ thuật số ở Liên minh châu Âu (EU) lại yêu cầu các nền tảng lớn phải tiến hành kiểm tra định kỳ và phải minh bạch, bao gồm cả việc chia sẻ các thuật toán (Algorithms) đề xuất của nền tảng. EU cũng buộc các công ty nền tảng phải chịu trách nhiệm nếu họ vi phạm các điều khoản dịch vụ đã nêu.

4. Sản xuất kết nối.

Mặc dù ngành sản xuất đã tụt hậu so với các ngành công nghiệp khác khi nói đến việc áp dụng công nghệ kỹ thuật số, nhưng điều đó đang bắt đầu thay đổi.

Các dịch vụ dựa trên nền tảng (platform-based) mới đang tận dụng dữ liệu sản xuất để hỗ trợ vận hành nhà máy một cách thông minh hơn và dự báo cung-cầu cũng tốt hơn.

Phân tích dự đoán (Predictive analytics), được tích hợp AI bên cạnh đó lại có thể được sử dụng để dự báo nhu cầu, nhu cầu bổ sung cũng như tính toán các rủi ro nếu có.

5. Sức mạnh ngày càng tăng của những người có ảnh hưởng và nền kinh tế nhà sáng tạo.

Nền kinh tế nhà sáng tạo (Creator Economy) hiện được ước tính trị giá khoảng 100 tỷ USD, chiếm tới 40% tổng ngân sách chi tiêu cho Digital Marketing.

Ngành này đang được thúc đẩy bởi các blogger và người dẫn chương trình video độc lập (MC/Host) đang kiếm tiền từ chính hoạt động của họ, một số khác lại tìm cách hợp tác với các nhãn hàng để tìm kiếm các cơ hội kiếm tiền.

Dù vậy, dưới sự phát triển của AI, khi các công cụ AI cũng có khả năng sáng tạo, thách thức sáng tạo cũng là một vấn đề lớn đối với các nhà sáng tạo (Content Creator) nói chung và người có ảnh hưởng (Influencer) nói riêng.

Các chatbot AI như ChatGPT hay Google Bard sẽ là “đối thủ” của các nhà sáng tạo.

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer

Hà Anh  | MarketingTrips   

SHEIN của Trung Quốc liên tục mua lại các thương hiệu thời trang đình đám

Bỏ ngoài tai những chỉ trích gay gắt là thời trang rẻ tiền, trả lương bèo bọt, SHEIN ‘không nói nhiều’, chỉ ‘lẳng lặng’ đi mua lại những hãng thời trang đình đám bậc nhất của Anh, Mỹ.

SHEIN của Trung Quốc liên tục mua lại các thương hiệu thời trang đình đám
SHEIN của Trung Quốc liên tục mua lại các thương hiệu thời trang đình đám

Vào tháng 8 vừa qua, SHEIN đã mua lại thành công một phần ba cổ phần của Sparc, vốn là tập đoàn điều hành hãng thời trang Forever 21 đình đám có trụ sở tại Mỹ. Qua đó, Sparc cũng nắm giữ cổ phần thiểu số trong SHEIN.

Tại thời điểm đó, hãng thời trang trực tuyến này đang phải đối mặt với những chỉ trích, cáo buộc gay gắt tại Mỹ như: vi phạm luật thuế nhập khẩu Mỹ, là nguyên nhân khiến các bãi chôn lấp quá tải với những món quần áo rẻ tiền, trả lương bèo bọt cho người lao động,…

SHEIN đã phủ nhận các cáo buộc đó. Qua việc biến đối thủ cạnh tranh trong ngành thời trang nhanh thành đối tác, SHEIN đang chuẩn bị bàn đạp để thâm nhập sâu hơn vào thị trường Mỹ cũng như tiến ra thế giới.

Tuy có khách hàng giống nhau nhưng SHEIN và Forever 21 lại phục vụ theo cách khác nhau. SHEIN bán hàng trực tuyến còn Forever 21 chủ yếu phủ sóng ở các trung tâm thương mại. Sau khi hợp tác, hai bên sẽ có những cách tiếp cận khách hàng mới.

Một số mẫu váy, giày của Forever 21 sẽ được bán qua kênh của SHEIN – một nền tảng trực tuyến có tới 150 triệu người dùng. SHEIN cũng sẽ được hiện diện nhiều hơn tại các trung tâm thương mại Mỹ.

Công ty đã chấp nhận chạm tay nhiều hơn vào lĩnh vực bán lẻ truyền thống. Hãng đã có các cửa hàng tạm thời ở các thành phố lớn của Mỹ như Dallas và Los Angeles, thu hút hàng dài những khách hàng háo hức.

Mới đây, vào cuối tháng 10, SHEIN lại tiếp tục công bố việc mua lại hãng thời trang Missguided của Anh từ tay tập đoàn Frasers. Thương vụ này được thực hiện khi SHEIN đang chuẩn bị cho đợt IPO tại Mỹ.

SHEIN sẽ sản xuất sản phẩm của Missguided, bán trên trang web của cả hai công ty với tư cách là một thương hiệu độc lập. Frasers vẫn sẽ giữ lại bất động sản và nhân viên của Missguided.

Missguided vốn bị tập đoàn Frasers mua lại với giá 23,4 triệu USD trước đó một năm.

Thương hiệu này là tên tuổi lớn trong làng thời trang nhanh của nước Anh, từng nổi tiếng với việc bán những bộ bikini giá 1 bảng. Sau đó, họ rơi vào khó khăn tài chính, không thể thanh toán tiền cho các nhà cung và buộc phải “bán mình” cho Frasers.

Việc SHEIN mua lại Missguided sẽ giúp công ty mở rộng thị phần và tăng cường thâm nhập thị trường toàn cầu. Các công ty được mua lại cũng dễ dàng chấp nhận thương vụ bởi chuỗi cung ứng bài bản, ít tốn kém cũng như lượng người dùng khổng lồ, đáng mơ ước mà SHEIN đang nắm giữ trông quá ư hấp dẫn.

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer

Theo Thuỳ An | Markettimes   

Doanh thu của Phúc Long vẫn giảm nhưng đang dần phục hồi

Đóng bớt cửa hàng loạt ki-ốt không hiệu quả trong hệ thống Winmart giúp chuỗi trà và cà phê Phúc Long ghi nhận lợi nhuận cải thiện 33% trong quý III.

Doanh thu của Phúc Long vẫn giảm nhưng đang dần phục hồi
Doanh thu của Phúc Long vẫn giảm nhưng đang dần phục hồi

Theo báo cáo kết quả kinh doanh mới đây của công ty mẹ Tập đoàn Masan (MSN), doanh thu của Phúc Long vẫn giảm hơn 16% về 377 tỷ đồng. Tuy nhiên, cức này tăng nhẹ so với quý II và dần hồi phục so với năm 2022.

Doanh thu giảm nhưng các chỉ tiêu về lợi nhuận cải thiện lớn. Biên lợi nhuận gộp quý III đạt hơn 65%, tăng hơn quý trước đó và cả cùng kỳ năm ngoái.

Nhờ đó, lợi nhuận trước thuế, lãi vay và khấu hao (EBITDA) đạt 78 tỷ đồng, tăng 33% so với cùng kỳ. Đây cũng là quý có EBITDA cao nhất trong năm nay của Phúc Long.

“Yếu tố chính giúp cải thiện khả năng sinh lời trong quý III là cơ cấu hợp lý số lượng điểm bán tại hệ thống Winmart và Winmart+”, đại diện Masan giải thích.

Kết quả trên cho thấy tín hiệu khả quan sau nhiều tháng chuỗi trà và cà phê này tái cấu trúc mô hình ki-ốt. Trước đây, Masan không nêu rõ số liệu kinh doanh của Phúc Long trong báo cáo chung của tập đoàn.

Thương hiệu này chỉ xuất hiện kể từ báo cáo bán niên của MSN cho đến nay, cũng là thời điểm ghi nhận những tín hiệu khả quan đầu tiên sau quá trình tái cấu trúc.

Masan bắt đầu thử nghiệm mô hình ki-ốt từ tháng 5/2021 với kỳ vọng đưa Phúc Long thành công ty trà và cà phê số một Việt Nam bằng việc mở rộng 1.000 cửa hàng tích hợp vào hệ thống Winmart.

Sau một năm, thương hiệu này có hơn 700 ki-ốt. Một số khu vực tại TP HCM ghi nhận đến 3-4 điểm bán Phúc Long cùng nằm trên một đoạn đường dài chưa đến 5 km.

Nhưng từ cuối năm ngoái, MSN đã đóng cửa 150 điểm bán diện tích nhỏ và chỉ tập trung mở mới cửa hàng flagship. Các ki-ốt được giữ lại chủ yếu để nhận khách online từ cửa hàng flagship vào giờ cao điểm. Đến nay, chuỗi trà và cà phê này chỉ còn 92 điểm bán tích hợp, trong khi nâng mô hình flagship lên 147 cửa hàng.

Masan không phản hồi về việc đã hoàn thành giai đoạn tái cấu trúc hay chưa. Đại diện tập đoàn chỉ cho biết vẫn phát kiến tất cả mảng kinh doanh để duy trì độc độ tăng trưởng bền vững và cải thiện khả năng sinh lời cho Phúc Long.

Công ty đặt mục tiêu mở mới 11 cửa hàng trong những tháng cuối năm và cải thiện doanh số trên mỗi điểm bán về mức tương tự quý IV/2022.

Tuy nhiên thực tế trước mắt, động lực tăng trưởng của chuỗi trà và cà phê này vẫn nằm trên vai các cửa hàng flagship.

Trong 9 tháng, các cửa hàng rộng lớn bên ngoài Winmart đóng góp 876 tỷ đồng, tức hơn ba phần tư tổng doanh thu. Tính riêng tháng 10, Phúc Long khai trương 3 điểm bán mới, toàn bộ đều là cửa hàng flagship tại TP HCM.

Quá trình tái cấu trúc Phúc Long từng được các đơn vị phân tích xem là một điểm có thể ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của mảng hàng tiêu dùng và cả Masan.

Trong báo cáo hồi cuối tháng 9, Chứng khoán BIDV (BSC) cho rằng quá trình này là một trong những nguyên nhân khiến đơn vị này điều chỉnh giảm dự phóng doanh thu thuần và biên lợi nhuận sau thuế năm 2023 của MSN.

Phúc Long không phải là chuỗi đồ uống duy nhất thử nghiệm mô hình ki-ốt. Cũng trong năm 2021, The Coffee House ra mắt mô hình Now, hoạt động theo hệ thống ki-ốt tích hợp vào các siêu thị tiện lợi “cùng nhà” là Kingfoodmart.

Trước đó vào cuối năm 2019, Highlands Coffee cũng chọn cách mở các quầy cà phê bên lề đường để kiếm thêm khách hàng mới. Điểm chung của những trường hợp kể trên là đều thất bại chỉ sau vài tháng hoặc hơn một năm thử nghiệm.

Bình luận với VnExpress, ông Hoàng Tùng – một chuyên gia trong ngành F&B, cho rằng mô hình ki-ốt của các thương hiệu kể trên không thành công vì nhu cầu mua mang đi của người tiêu dùng Việt Nam còn thấp.

Tệp khách hàng chính của họ có thói quen và sở thích uống tại quán. Khi tìm đến dịch vụ đồ uống, nhất là những thương hiệu có giá thành cao, đa số không chỉ thưởng thức sản phẩm mà còn muốn trải nghiệm tổng thể không gian và dịch vụ tại cửa hàng.

Tuy nhiên theo ông, ki-ốt không phải là mô hình kém hiệu quả. Bằng chứng là vẫn có nhiều thương hiệu thành công từ mô hình này như Luckin Coffee – thương hiệu vượt Starbucks thành chuỗi cà phê lớn nhất châu Á với hơn 10.000 điểm bán, hay Cotti Coffee – chuỗi đồ uống hơn 5.000 cửa hàng tại 5 nước và chuẩn bị vào Việt Nam.

“Để thành công, ngay từ đầu doanh nghiệp phải xây dựng ki-ốt là mô hình để triển khai nhân rộng, không phải là một giải pháp nhằm tối ưu thêm cho hoạt động kinh doanh, bên cạnh các cửa hàng thông thường”, chuyên gia này nhấn mạnh.

Thực tế trong thời gian qua, thị trường F&B ghi nhận nhiều thương hiệu nổi lên nhờ mô hình điểm bán hàng thu nhỏ. Nổi bật là chuỗi kem và trà sữa đến từ Trung Quốc Mixue với hơn 1.000 cửa hàng khắp cả nước hay thương hiệu nội địa Hồng trà Ngô Gia cũng có trên 200 ki-ốt ở khu vực phía Nam.

Khảo sát của iPOS – nền tảng cung cấp giải pháp bán hàng, vận hành, nhân sự cho hơn 100.000 thương hiệu nhà hàng và quán cà phê, cho thấy người tiêu dùng vẫn có nhu cầu lớn với ăn uống bên ngoài nhưng cắt giảm số tiền trên mỗi lần sử dụng dịch vụ. Do đó, các hàng quán nhỏ lẻ có giá cả bình dân được hưởng lợi hơn.

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer

Hà Anh  | MarketingTrips   

Theo VnExpress

Nokia kiện Amazon vi phạm bằng sáng chế phát trực tuyến

Các vụ kiện Amazon đã được Nokia nộp tại tòa án Mỹ, Đức, Ấn Độ, Vương quốc Anh và Liên minh châu Âu (EU).

Theo Bloomberg, Nokia đã kiện Amazon tại các tòa án trên khắp ba châu lục, cáo buộc gã khổng lồ thương mại điện tử này sử dụng công nghệ của mình trong các dịch vụ và thiết bị phát trực tuyến mà không được cấp phép.

Arvin Patel, Giám đốc cấp phép của Nokia cho biết trên website của công ty rằng các vụ kiện đã được nộp ở Mỹ, Đức, Ấn Độ, Anh và Tòa án sáng chế thống nhất châu Âu. Ngoài ra, một vụ kiện cũng đã được đệ trình chống lại HP ở Mỹ về các công nghệ liên quan đến video.

Patel cho biết Nokia đã cố gắng thảo luận với Amazon và HP trong nhiều năm, nhưng đôi khi kiện tụng là cách duy nhất để đáp trả những công ty chọn không tuân theo các quy tắc được người khác tuân theo và tôn trọng.

Patel nói các công ty này cung cấp dịch vụ phát video trực tuyến hoặc thiết bị phát trực tuyến được hưởng lợi ích to lớn từ nghiên cứu của Nokia, do đó cần phải được đền bù tương ứng. Cả Amazon và HP đã từ chối bình luận về vấn đề này.

Nokia nói kiện tụng không bao giờ là lựa chọn đầu tiên của hãng, phần lớn các thỏa thuận cấp phép bằng sáng chế đều được thống nhất một cách thân thiện.

Nhưng những năm gần đây, các cơ quan quản lý như Ủy ban châu Âu đã nỗ lực giảm việc đưa ra tòa các tranh chấp về công nghệ như điện thoại di động, cho rằng việc này kéo dài có thể cản trở sự đổi mới. Vào tháng 6 qua, Nokia công bố thỏa thuận cấp phép với Apple Inc. nhưng không tiết lộ các điều khoản.

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer

Hà Anh  | MarketingTrips   

Người Việt ngày càng chuộng mua điện thoại qua sàn thương mại điện tử

Doanh thu ngành hàng điện thoại di động trên các sàn thương mại điện tử tiếp tục ghi nhận mức tăng trưởng đầy tích cực, dẫn đầu là Samsung.

Người Việt ngày càng chuộng mua điện thoại qua sàn thương mại điện tử
Người Việt ngày càng chuộng mua điện thoại qua sàn thương mại điện tử

Dữ liệu mới nhất từ Công ty phân tích dữ liệu thương mại điện tử YouNet ECI cho biết, trong tháng 9, người Việt đã chi tổng cộng khoảng 1,15 nghìn tỷ đồng để mua sắm điện thoại di động trên sàn thương mại điện tử, thiết lập kỷ lục doanh thu tháng.

Từ đầu năm 2023 đến nay, trung bình, người tiêu dùng Việt Nam chi gần 660 tỷ đồng mỗi tháng cho việc mua sắm các sản phẩm điện thoại di động trên sàn thương mại điện tử.

So với tháng 8, doanh thu ngành hàng điện thoại di động tháng trước tăng gần 1/4. Đặc biệt, tăng trưởng doanh thu xuất hiện trải khắp ở hầu hết nhãn hàng lớn.

Trong đó, Samsung đạt hơn 340 tỷ đồng doanh thu vào tháng trước, tăng tới 1/5 so với tháng 8 và đứng đầu về thị phần ngành hàng.

Tương tự, các nhãn hàng khác như Xiaomi, Redmi, OPPO, Realme, POCO hay Vivo cũng đồng loạt tăng doanh thu trên thương mại điện tử (GMV) ở mức hai chữ số.

Với Apple, dù mới đây tung ra mẫu iPhone mới là iPhone 15, nhãn hàng này lại ghi nhận chỉ số giảm. Nguyên nhân là do tổng giá trị của các dòng sản phẩm đời cũ như iPhone 14 Pro Max, iPhone 14 Pro giảm gần 1/4.

Trong khi đó, iPhone 15 đến tuần cuối tháng trước mới bắt đầu được mở bán trên các sàn Shopee, Lazada, Tiki và mới thu về hơn 8 tỷ đồng từ các sàn.

Kết quả là iPhone hiện đang xếp thứ hai sau Samsung về thị phần thương mại điện tử trong tháng trước.

Không chỉ ngành điện thoại di động, ngành hàng tivi cũng có một tháng rực rỡ trên các sàn thương mại điện tử, YouNet ECI cho biết. Tổng doanh thu của mặt hàng này đã đạt hơn 68 tỷ đồng, tăng đến 50% so với tháng 8.

Ông Nguyễn Phương Lâm, người đứng đầu bộ phận Nghiên cứu thị trường của YouNet ECI, nhận định, kết quả mới nhất cho thấy người tiêu dùng Việt Nam có sự tin tưởng ngày càng lớn đối với thương mại điện tử và đã sẵn sàng mua sắm các mặt hàng giá trị cao thông qua kênh này.

Đi cùng với đó, yêu cầu của người tiêu dùng đối với chất lượng dịch vụ bán hàng và hậu mãi cũng sẽ tăng lên.

Vì vậy, doanh nghiệp cần quan tâm giám sát phản hồi khách hàng, cải thiện trải nghiệm khách hàng khi kinh doanh trên nền tảng thương mại điện tử, ông Lâm khuyến nghị.

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer

Hà Anh  | MarketingTrips   

Theo The Leader

Định giá startup công nghệ Đông Nam Á dự kiến đạt 1.000 tỷ USD năm 2025

Các startup công nghệ tại Đông Nam Á được thúc đẩy bởi dân số trẻ, tỷ lệ sử dụng internet liên tục tăng và tầng lớp trung lưu ngày càng phát triển.

Định giá startup công nghệ Đông Nam Á dự kiến đạt 1.000 tỷ USD năm 2025
Định giá startup công nghệ Đông Nam Á dự kiến đạt 1.000 tỷ USD năm 2025

Trong thập kỷ qua, các công ty khởi nghiệp công nghệ ở Đông Nam Á đã có mức tăng trưởng chưa từng có, trở thành tâm điểm trong hệ sinh thái khởi nghiệp toàn cầu.

Bất chấp những thách thức như sự khác biệt về văn hóa và khoảng cách về cơ sở hạ tầng, công ty đầu tư mạo hiểm (VC) Jungle Ventures dự đoán giá trị của các doanh nghiệp này sẽ tăng vọt từ 340 tỷ USD hiện tại lên mức ấn tượng 1 nghìn tỷ USD vào năm 2025.

Dân số trẻ, mức độ sử dụng internet ngày càng tăng và tầng lớp trung lưu liên tục phát triển là những yếu tố góp phần thúc đẩy sự phát triển của các công ty khởi nghiệp công nghệ Đông Nam Á.

Người dân luôn mong muốn được thử nghiệm các công nghệ mới. Hơn nữa, các công ty mới nổi đang ngày càng thu hút nhân tài nước ngoài và đầu tư vốn mạo hiểm để cung cấp các giải pháp thiết yếu cho khu vực.

Sự tăng trưởng bùng nổ của họ có thể đến từ một số lĩnh vực quan trọng, chẳng hạn như: Thương mại điện tử, công nghệ tài chính (fintech) và công nghệ y tế.

Mỗi ngành đều đang trải qua quá trình đổi mới mạnh mẽ và thích ứng với thị trường, trong đó chính quyền các khu vực cũng đang thúc đẩy số hóa và áp dụng công nghệ.

ĐỘNG LỰC THÚC ĐẨY KHỞI NGHIỆP TẠI ĐÔNG NAM Á

Một trong những động lực đằng sau sự gia tăng số lượng các công ty khởi nghiệp (startup) là nhân khẩu học trẻ trung. Đông Nam Á có một phần đáng kể dân số dưới 30 tuổi, họ am hiểu công nghệ và có tài năng kinh doanh.

Lợi thế về nhân khẩu học mang đến dòng ý tưởng đổi mới ổn định, những quan điểm mới mẻ và sự sẵn sàng chấp nhận rủi ro. Ngoài ra, các doanh nhân trẻ có xu hướng khám phá các cơ hội kinh doanh mới, góp phần tạo nên bối cảnh khởi nghiệp sôi động trong khu vực.

Hơn nữa, khả năng tiếp cận vốn rất quan trọng cho sự tăng trưởng và bền vững của doanh nghiệp. Trong những năm gần đây, Đông Nam Á đã chứng kiến ​​dòng vốn đầu tư mạo hiểm và vốn cổ phần tư nhân đổ vào đáng kể.

Các nhà đầu tư nước ngoài, bị thu hút bởi tiềm năng của khu vực, đã đổ hàng tỷ USD vào các công ty khởi nghiệp thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau. Nguồn tài trợ sẵn có đã giúp các doanh nghiệp nhỏ và vừa (SME) mở rộng quy mô hoạt động, mở rộng phạm vi tiếp cận và phát triển các công nghệ tiên tiến.

Đại dịch đã đóng một vai trò then chốt trong việc thúc đẩy nền kinh tế internet của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), trong đó việc áp dụng kỹ thuật số đang trở thành xu hướng chủ đạo.

Nền kinh tế kỹ thuật số (Digital Economy) của ASEAN dự kiến ​ đạt 330 tỷ USD vào năm 2025, nhờ hơn 10 triệu người bán hàng trực tuyến và lĩnh vực thương mại điện tử đang phát triển dự kiến ​​đạt doanh thu 150 tỷ USD vào năm 2025.

Trong thời kỳ đại dịch, thương mại điện tử (eCommerce) và thương mại xã hội (Social Commerce) bùng nổ đã định hình lại hoạt động mua sắm trực tuyến, cho phép người dùng mua sản phẩm trực tiếp từ các nền tảng mạng xã hội.

Các siêu ứng dụng địa phương như Grab và Gojek cung cấp các dịch vụ đa chức năng, từ gọi xe đến mua sắm trực tuyến, khiến chúng trở thành một phần không thể thiếu trong trải nghiệm của người dùng.

Ngoài ra, sự hỗ trợ và sáng kiến ​​của các cơ quan chính phủ cũng đã thúc đẩy môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp đang phát triển ở ASEAN. Các cơ quan quản lý khu vực đã công nhận tầm quan trọng của các công ty khởi nghiệp trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và tạo việc làm.

Ví dụ, Malaysia đã công bố Kế hoạch chi tiết về nền kinh tế kỹ thuật số, vạch ra tầm nhìn rõ ràng cho quá trình chuyển đổi kỹ thuật số của mình.

Sáng kiến ​​này bao gồm các biện pháp nhằm thúc đẩy tinh thần kinh doanh trực tuyến, chẳng hạn như ưu đãi về thuế, cơ hội tài trợ và phát triển kỹ năng công nghệ trong lực lượng lao động.

SỰ GÓP MẶT CỦA SINGAPORE TRONG NHIỀU LĨNH VỰC

Mặc dù có quy mô nhỏ hơn so với các nước láng giềng, Singapore vẫn nổi bật như một trung tâm thu hút các doanh nghiệp và nhà đầu tư mạo hiểm.

Singapore là nơi có gần 4.800 công ty khởi nghiệp công nghệ, cùng với 252 vườn ươm và máy gia tốc, được hỗ trợ bởi 529 nhà đầu tư.

Những gã khổng lồ công nghệ toàn cầu như Grab và Sea Group đã chọn Singapore làm trụ sở, với thêm 80 trong số 100 công ty công nghệ hàng đầu hoạt động từ quốc đảo này.

Sức hấp dẫn của khu vực còn mở rộng đến các công ty khởi nghiệp Ấn Độ, nhiều công ty trong số đó chọn đặt trụ sở chính tại Singapore do môi trường thân thiện với doanh nghiệp và vị trí chiến lược trong các thị trường phát triển mạnh của khu vực.

Mối quan hệ giữa Singapore và Ấn Độ rất sâu sắc, thể hiện rõ ở mối quan hệ văn hóa và thương mại phong phú của họ. Quốc gia này đã củng cố vị thế là một trong những đối tác thương mại lớn của Ấn Độ trong ASEAN, chiếm hơn 1/4 tổng kim ngạch thương mại của Ấn Độ trong giai đoạn 2021-2022.

Nó đã đóng góp đáng kể 136,7 tỷ USD cho Đầu tư trực tiếp nước ngoài của Ấn Độ trong hai thập kỷ qua, chiếm 23% tổng dòng vốn FDI.

Tuy nhiên, điều đáng chú ý là việc đầu tư vào các công ty khởi nghiệp công nghệ ở Đông Nam Á cũng đã phải đối mặt với những trở ngại.

Theo DealStreetAsia, nguồn vốn đầu tư mạo hiểm sụt giảm mạnh 58,6% trong quý 2 năm 2023. Các công ty khởi nghiệp huy động được 2,13 tỷ USD, thấp hơn so với con số 5,13 tỷ USD được ghi nhận trong cùng quý năm 2022.

Lạm phát leo thang làm tăng thêm những thách thức, khiến lãi suất cao hơn. Các nhà kinh tế cũng bày tỏ lo ngại về mức tăng trưởng thấp hơn dự kiến ​​ở các nền kinh tế Đông Nam Á, nhấn mạnh sự cần thiết phải quan sát thận trọng và lập kế hoạch chiến lược.

Sự tăng trưởng vượt trội và tiềm năng của các doanh nghiệp mới nhấn mạnh vai trò then chốt của họ trong bối cảnh công nghệ năng động của khu vực.

Các công ty khởi nghiệp công nghệ ở Đông Nam Á không chỉ phát triển mạnh mẽ, họ đang định hình lại bối cảnh kinh doanh, tạo ra các giải pháp sáng tạo và thu hút đầu tư đáng kể. Như vậy, tương lai có nhiều hứa hẹn đối với những công ty khởi nghiệp này và hành trình của họ là minh chứng cho cam kết đổi mới của khu vực.

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer

Hà Anh  | MarketingTrips

Theo VnEconomy

Cotti Coffee – chuỗi cà phê của cựu sáng lập Luckin Coffee sắp vào Việt Nam

Cotti Coffee áp dụng các chiến lược tương tự như Luckin Coffee trước kia để nhanh chóng mở rộng mạng lưới cửa hàng.

Cotti Coffee - chuỗi cà phê của cựu sáng lập Luckin Coffee sắp vào Việt Nam
Cotti Coffee – chuỗi cà phê của cựu sáng lập Luckin Coffee sắp vào Việt Nam

Theo KrAsia, chuỗi cà phê Cotti Coffee đến từ Trung Quốc đã khai trương cửa hàng đầu tiên tại Kuningan City Mall ở Jakarta (Indonesia), sau khi mở cửa hàng tại Seoul (Hàn Quốc) một tuần trước đó. Thương hiệu này cũng đang có kế hoạch mở rộng sang các thị trường Đông Nam Á, bao gồm Việt Nam.

Cotti Coffee mới chỉ thành lập vào tháng 10/2022, bởi 2 người sáng lập thương hiệu Luckin Coffee là ông Charles Lu và bà Jenny Qian. Sau khi thừa nhận gian lận tài chính vào tháng 4/2020, nhà sáng lập Charles Lu đã từ chức tại ban điều hành Luckin.

Sau đó, ông thành lập một thương hiệu thực phẩm đóng gói sẵn và một chuỗi mì với 6.000 cửa hàng, trước khi tái lập chỗ đứng của mình trong ngành cà phê bằng cách thành lập Cotti Coffee.

Cotti Coffee áp dụng các chiến lược tương tự như Luckin Coffee trước kia để nhanh chóng mở rộng mạng lưới cửa hàng. Thương hiệu này đưa ra các chương trình khuyến mãi sâu, với giá đồ uống trung bình khoảng 1,38 USD (khoảng 33.000 đồng) mỗi ly, rồi tiếp tục giảm thêm còn 1,22 USD (khoảng 29.000 đồng).

Khách hàng mới cũng được mua ly cà phê đầu tiên từ Cotti Coffee với mức “rẻ như cho” – khoảng 0,14 USD (3.500 đồng). Chiến lược giá này cũng được áp dụng tại các thị trường quốc tế mà Cotti đặt chân tới như Singapore, Hàn Quốc.

Đáng chú ý, Cotti Coffee còn trở thành nhà tài trợ cho Đội tuyển bóng đá Quốc gia Argentina.

Chỉ sau chưa đầy 1 năm, Cotti Coffee đã có mặt trên 300 thành phố ở 5 quốc gia với hơn 5.000 cửa hàng và trở thành thương hiệu cà phê lớn thứ 5 thế giới.

Nếu tiến vào thị trường Việt Nam, Cotti Coffee cũng sẽ phải giải được bài toán văn hóa cà phê mạnh, cà phê vỉa hè tại đây. Theo báo cáo thị trường kinh doanh ẩm thực tính đến hết năm 2022, Việt Nam có gần 338.600 nhà hàng, cà phê.

TP.HCM là tỉnh thành sở hữu nhiều hàng quán nhất, chiếm 39,78% số lượng trên toàn quốc, gấp gần 3 lần so với Hà Nội – tỉnh thành đứng ở vị trí thứ hai.

Thị trường Việt Nam cũng đã đón chào nhiều thương hiệu F&B nước ngoài như Starbucks, Amazon Coffee, Arabica,…. Trong đó, Starbucks mới đây đã chạm mốc 100 cửa hàng sau 10 năm.

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer

Theo Hoàng Thuỳ | Markettimes

Nhiều smartphone Trung Quốc xem ứng dụng Google là ‘mã độc’

Nhiều điện thoại của các hãng sản xuất Trung Quốc đã phát đi cảnh báo và gỡ ứng dụng Google do xác định đây là “mã độc”.

Vài ngày gần đây, người dùng smartphone mang thương hiệu Trung Quốc như Huawei, Honor, Vivo phản ánh tình trạng nhận cảnh báo “mối đe dọa bảo mật” trên điện thoại vì cài đặt ứng dụng Google.

Trong một bài chia sẻ trên trang hỗ trợ của Google, một người đang sử dụng chiếc Huawei P10 cho biết thiết bị đã “phát hiện ứng dụng Google là mã độc có tên TrojanSMS-PA”.

Người này sau đó gỡ chương trình, cài lại nhưng không xử lý được tình trạng trên. P10 vẫn là thế hệ smartphone của Huawei được sử dụng đầy đủ dịch vụ của Google trên nền tảng Android trước khi có các lệnh cấm thương mại của Mỹ từ cuối năm 2019, khiến dòng máy kể từ Mate 30 trở về sau bị loại bỏ gói dịch vụ Google.

Hàng nghìn người khác cũng cho biết gặp tình trạng tương tự, trong đó phần lớn sử dụng điện thoại của Huawei và Honor, một số ít hơn đang sử dụng máy do Vivo sản xuất.

TrojanSMS-PA được cảnh báo là có thể âm thầm gửi tin nhắn SMS, đánh cắp thông tin cá nhân, thực hiện thanh toán trái phép. Tuy nhiên, chuyên gia bảo mật cho rằng đây là các “báo động giả”.

Đại diện Google khẳng định thông báo trên không xuất phát từ hệ thống Play Protect của hãng bởi các ứng dụng “chính chủ” từ đơn vị khi đưa lên gian phần mềm Play Store cũng phải trải qua các bước xét duyệt, quét an ninh tương tự những chương trình từ nhà phát triển khác, có chung yêu cầu phải đảm bảo tiêu chuẩn bảo mật.

Hãng cho rằng có thể người dùng đã sử dụng thiết bị không được chứng nhận Play Protect nên phải tải và cài đặt ứng dụng từ nguồn không đảm bảo.

Tuy nhiên các máy Huawei hiện cảnh báo mã độc do người dùng phản ánh đều là thiết bị ra đời trước khi có lệnh cấm của Mỹ, bên cạnh đó còn có smartphone thương hiệu khác như Honor, Vivo nên chuyên gia cho rằng phỏng đoán của Google là chưa chính xác.

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer

Hà Anh  | MarketingTrips

Nghiên cứu mới của Google: Giải mã cách người tiêu dùng ra quyết định mua hàng

Thông các nghiên cứu khác nhau, Google mới đây đã giới thiệu báo cáo về cách người tiêu dùng ra quyết định mua hàng, các yếu tố ảnh hưởng đến họ trong quá trình này và cách người làm marketing có thể tận dụng để xây dựng chiến lược.

Nghiên cứu mới của Google: Giải mã cách người tiêu dùng ra quyết định mua hàng
Nghiên cứu mới của Google: Giải mã cách người tiêu dùng ra quyết định mua hàng

Về tổng thể, sự phát triển bùng nổ của Internet đã làm thay đổi nhanh hơn bao giờ hết cách người tiêu dùng suy nghĩ và đưa ra quyết định.

Trong thế giới kỹ thuật số, nhu cầu mua sắm của mọi người liên tục thay đổi khi họ không ngừng theo đuổi các lựa chọn mới, các nhu cầu mới cũng như chịu sự tác động rất lớn từ các chiến dịch truyền thông của thương hiệu.

Trên thực tế, khoảng 1/3 người tiêu dùng trên toàn cầu hiện đang dành nhiều thời gian hơn để ra quyết định, đồng thời họ cũng xem xét đến nhiều thương hiệu, cửa hàng và nhà bán lẻ hơn.

Để có thể làm sáng tỏ hơn điều này, hiểu cách người tiêu dùng ra quyết định mua hàng ở trong suốt hành trình khám phá mua hàng (Customer Journey), Google và The Behavioral Architects đã không ngừng thực hiện nhiều nghiên cứu khác nhau.

Mục tiêu cuối cùng của nghiên cứu vẫn là giúp người làm marketing có nhiều cách hơn để tiếp cận khách hàng của họ một cách hiệu quả.

Làm thế nào các Marketer có thể tác động hay tạo ra sức ảnh hưởng đến cách khách hàng ra quyết định mua hàng.

Thông qua các nghiên cứu, dưới đây là 3 cách mà marketer có thể bắt đầu thử nghiệm để tìm ra giải pháp phù hợp.

  • Tìm kiếm (Search): Nhiều người đang chuyển sang Google Tìm kiếm trong suốt hành trình khám phá mua hàng của họ. Tuy nhiên, việc cạnh tranh với những tên tuổi lớn trên thị trường vốn có ngân sách lớn có thể là một thách thức. Các nghiên cứu của Google cho thấy rằng các ứng dụng thông minh của yếu tố khoa học hành vi (behavioural science) có thể giúp các thương hiệu có nhiều lợi thế hơn, thậm chí là tỷ lê nhấp chuột vào quảng cáo cũng cao hơn. Việc hiểu được các ý định tìm kiếm của khách hàng (Search Intent) cũng đóng một vai trò rất quan trọng.
  • Nội dung (Content): Về tổng thể, website của thương hiệu là tài sản có giá trị trong quá trình ra quyết định của người tiêu dùng. Nếu người mua hàng không cảm thấy tin tưởng về việc mua hàng, họ sẽ không nhấp vào ‘mua’. Thương hiệu có thể sử dụng các nguyên tắc cơ bản của khoa học hành vi để vừa xây dựng niềm tin của khách hàng vừa tăng doanh số bán hàng.
  • Các lợi thế bán hàng (USP) và Điểm bán hàng (Points of Sale) Theo nghiên cứu, người mua sắm sẵn sàng thay đổi lựa chọn theo nhà bán lẻ ưa thích của họ thay vì chỉ là lựa chọn theo các thương hiệu sản phẩm mà họ ưa thích (Brand), đặc biệt khi giá cả là một yếu tố quan trọng.

Bạn có thể tải xuống báo cáo “Nghiên cứu mới của Google: Giải mã cách người tiêu dùng ra quyết định mua hàng” tại đây.

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer

Hà Anh  | MarketingTrips   

Đây là startup AI mới sau OpenAI đang được Google hay Amazon đầu tư vào

Anthropic là startup do chính các cựu giám đốc điều hành của OpenAI sáng lập. Startup đã thu hút vốn đầu tư của nhiều hãng công nghệ bao gồm Google, Amazon, Zoom.

Đây là startup AI mới sau OpenAI đang được Google hay Amazon đầu tư vào
Đây là startup AI mới sau OpenAI đang được Google hay Amazon đầu tư vào

Google đã đồng ý đầu tư tới 2 tỷ USD vào Anthropic, công ty khởi nghiệp về trí tuệ nhân tạo được thành lập bởi các cựu giám đốc điều hành OpenAI.

Theo hãng tin CNBC, người phát ngôn của Anthropic cho biết cam kết này bao gồm khoản tiền mặt trả trước 500 triệu USD và thêm 1,5 tỷ USD sẽ được đầu tư theo thời gian. Hiện tại Google chưa đưa ra bình luận gì về thông tin này.

Anthropic là nhà phát triển của Claude 2, một chatbot đối thủ với ChatGPT của OpenAI được các công ty bao gồm Slack, Notion và Quora sử dụng. Công ty được thành lập vào năm 2021 và ngoài Google, còn nhận được tài trợ từ Salesforce và Zoom và được định giá vào đầu năm nay là 4,1 tỷ USD.

Claude 2 có khả năng tóm tắt lên tới khoảng 75.000 từ, có thể bằng độ dài của một cuốn sách. Người dùng có thể nhập các tập dữ liệu lớn và yêu cầu tóm tắt dưới dạng bản ghi nhớ, thư hoặc câu chuyện. Ngược lại, ChatGPT có thể xử lý khoảng 3.000 từ.

Nghiên cứu của Arthur AI, một nền tảng giám sát máy học, cho thấy Claude 2 là chatbot đáng tin cậy nhất về mặt “tự nhận thức”, nghĩa là đánh giá chính xác những gì nó biết và không biết, đồng thời chỉ trả lời những câu hỏi mà nó có dữ liệu đào tạo để hỗ trợ. Arthur AI đã thử nghiệm chatbot từ Meta, Cohere và OpenAI.

Vào tháng 4, Google đã đầu tư 300 triệu USD vào công ty, nắm giữ 10% cổ phần. Cùng tháng đó, Anthropic là một trong bốn công ty được mời tham dự cuộc họp tại Nhà Trắng để thảo luận về việc phát triển AI có trách nhiệm với Phó Chủ tịch Kamala Harris.

Ngoài ra, Alphabet, công ty mẹ của Google, Microsoft  và OpenAI là những đại diện đã tham dự cuộc họp này.

Amazon.com cũng cho biết họ sẽ đầu tư tới 4 tỷ USD vào Anthropic để cạnh tranh với các đối thủ đám mây đang phát triển về AI.

Trong báo cáo hàng quý của Amazon gửi Ủy ban Chứng khoán và Giao dịch Hoa Kỳ, nhà bán lẻ trực tuyến nêu chi tiết rằng họ đã đầu tư vào một trái phiếu trị giá 1,25 tỷ USD từ Anthropic có thể chuyển đổi thành vốn chủ sở hữu, trong khi khả năng đầu tư lên tới 2,75 tỷ USD trong trái phiếu thứ hai sẽ hết hạn vào quý đầu tiên của năm 2024.

Ngoài ra còn có các nhà đầu tư chính khác như Salesforce và Zoom.

Anthropic nhanh chóng huy động được 450 triệu USD vào tháng 5. Vào thời điểm đó, startup đánh dấu vòng cấp vốn lớn nhất cho một công ty AI kể từ khi Microsoft đầu tư vào OpenAI vào tháng 1, theo dữ liệu của PitchBook.

THỎA THUẬN MỚI VỚI GOOGLE LÀ VÍ DỤ VỀ SỰ THÈM MUỐN VÔ ĐỘ CỦA BIG TECH VỀ  AI TỔNG QUÁT.

Tất nhiên, các thương vụ đầu tư vào Anthropic vẫn thua khá xa so với khoản đầu tư khổng lồ 10 tỷ USD từ Microsoft vào OpenAI hồi tháng 1.

Nhưng số lượng các nhà đầu tư là những công ty công nghệ lớn quan tâm đến Anthropic ngày càng tăng cho thấy các công ty đám mây đang liên tục điều động để đảm bảo mối quan hệ với các công ty khởi nghiệp AI.

Anthropic được thành lập bởi Dario Amodei, cựu phó chủ tịch nghiên cứu của OpenAI và chị gái ông, Daniela Amodei, phó chủ tịch chính sách và an toàn của OpenAI. Một số cựu sinh viên nghiên cứu OpenAI khác cũng thuộc nhóm sáng lập Anthropic.

Anthropic đã đầu tư ít nhất hai tháng để phát triển chatbot mới nhất của mình, với một nhóm từ 30 đến 35 người làm việc trực tiếp trên mô hình AI và tổng cộng 150 người hỗ trợ nó. Cô cho biết thị trường đang phát triển nhanh đến mức có rất nhiều cơ hội cho nhiều người chơi thành công.

Amodei cho biết vào thời điểm đó: “Đây là thời điểm thực sự bất thường từ góc độ kinh doanh bởi vì có rất nhiều nhu cầu về các mô hình ngôn ngữ lớn (ví dụ PaLM 2 hay Llama 2) và thực sự nhiều hơn nhu cầu mà ngành hiện có thể cung cấp”.

Thỏa thuận mới với Google là một ví dụ khác về sự thèm muốn vô độ của các công nghệ lớn khi nói đến AI có khả năng sáng tạo. Microsoft, Google, Amazon, Nvidia, Salesforce và những công ty khác đều đã đầu tư hàng tỷ đô la vào các công ty khởi nghiệp AI – trực tiếp từ công ty hoặc thông qua các chi nhánh quỹ đầu tư tương ứng của họ.

Điều đó khó có thể dừng lại sớm khi cuộc chiến AI tổng quát tiếp tục nóng lên.

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer

Nam Nguyen | MarketingTrips

Google hoàn tất việc chuyển trọng tâm sang thiết bị di động

Google vừa thông báo đã chính thức hoàn tất việc chuyển trọng tâm của quá trình thu thập và cập nhật dữ liệu từ máy tính để bàn sang thiết bị di động (mobile-first crawling and indexing).

Google hoàn tất việc chuyển trọng tâm sang thiết bị di động
Google hoàn tất việc chuyển trọng tâm sang thiết bị di động

Cụ thể, sau nhiều năm xây dựng và ấp ủ, Google đã chuyển đổi hoàn toàn sang việc ưu tiên lập chỉ mục trên thiết bị di động. Điều này có nghĩa là Google sẽ ưu tiên cho các phiên bản web trên thiết bị di động khi thu thập dữ liệu trang và lập chỉ mục nội dung.

Kể từ năm 2015, Google chính thức bắt đầu tập trung ưu tiên cho các trải nghiệm của người dùng trên thiết bị di động. Vào thời điểm đó, Google đã cập nhật thuật toán tìm kiếm của nền tảng với mục tiêu ưu tiên cho các trang web “thân thiện với thiết bị di động” (mobile-friendly).

Theo chia sẻ của Google:

“Trong những năm qua, lưu lượng truy cập web (web traffic) trên thiết bị di động tiếp tục gia tăng; ở một số vùng, mọi người hầu như chỉ sử dụng điện thoại để truy cập internet.

Cảm ơn bạn – chủ sở hữu các trang web, người làm SEO, nhà phát triển web, nhà thiết kế và tất cả những người khác đã làm việc trên trang web – đã giúp tạo nên sự thành công lớn cho các website di động.”

Ưu tiên lập chỉ mục cho thiết bị di động giúp mang lại những trải nghiệm người dùng tốt hơn.

Với việc thiết bị di động hiện đã vượt qua máy tính để bàn về mức độ sử dụng Internet trên toàn cầu, việc ưu tiên thu thập và lập chỉ mục cho các phiên bản di động sẽ giúp mang lại những trải nghiệm chính xác nhất cho những gì người dùng nhìn thấy khi tìm kiếm trên điện thoại.

Nhiều website trên toàn cầu đã dần thích nghi bằng cách làm cho các trang dành cho thiết bị di động có đầy đủ tính năng như máy tính để bàn.

Google sẽ xử lý các website chỉ dành riêng cho máy tính để bàn.

Google cho biết một số lượng nhỏ các website hiện vẫn không hoạt động bình thường trên thiết bị di động. Đối với các website này, Google sẽ tiếp tục thu thập dữ liệu cho phiên bản dành riêng cho máy tính để bàn.

Những thay đổi liên quan đến Search Console.

Trong một thay đổi liên quan, Google đang xóa các trình lập chỉ mục (indexing crawler) từ trình thu thập thông tin Google Search Console. Về bản chất, tất cả các dữ liệu này sẽ không còn cần thiết nữa vì tất cả các trang đều được thu thập qua thiết bị di động.

Khi quá trình triển khai hoàn tất, Google đã hoàn toàn coi thiết bị di động là phương tiện chính để người dùng truy cập vào website.

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer

Nam Nguyen | MarketingTrips

TikTok thông báo tích hợp với Salesforce Marketing Cloud mới

TikTok vừa thông báo tích hợp mới với Salesforce Marketing Cloud của Salesforce với mục tiêu giúp các nhà quảng cáo dễ dàng di chuyển và lưu trữ dữ liệu.

TikTok thông báo tích hợp với Salesforce Marketing Cloud mới
TikTok thông báo tích hợp với Salesforce Marketing Cloud mới

Thông qua tích hợp mới với Salesforce Marketing Cloud, các nhà quảng cáo của TikTok sẽ dễ dàng di chuyển trực tiếp các khách hàng tiềm năng do chiến dịch Marketing của họ tạo ra sang nền tảng Salesforce, cũng từ đây, việc xử lý dữ liệu và insights trở nên dễ dàng hơn nhiều.

Đối với doanh nghiệp sử dụng CRM hay CDP để quản lý và xử lý dữ liệu, việc tích hợp mới này cũng khiến cho quá trình từ thu thập đến phân tích dữ liệu trở nên nhanh chóng và tiện lợi hơn nhiều.

Theo TikTok:

“Tích hợp mới của TikTok với Salesforce Marketing Cloud được thiết kế thân thiện với người dùng và do đó không yêu cầu các kỹ năng nâng cao về kỹ thuật. Các đội nhóm Marketing sẽ có thể thiết lập nó chỉ trong vài phút, cho phép họ tập trung nhiều hơn vào những gì thực sự quan trọng – đó là thu hút, nuôi dưỡng và chuyển đổi khách hàng tiềm năng.”

Thông tin về khách hàng tiềm năng (Lead) sẽ được chuyển đến TikTok theo thời gian thực. Các nhóm bán hàng và marketing cũng sẽ có thể phản hồi tới khách hàng tiềm năng thông qua Salesforce Marketing Cloud.

Tích hợp mới sẽ có sẵn trên AppExchange của Salesforce, trong khi TikTok khuyên các thương hiệu nên liên hệ với các Đại diện của TikTok hoặc Salesforce để được tư vấn và hướng dẫn cách triển khai.

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer

Hà Anh  | MarketingTrips   

Thuật toán nội dung hữu ích của Google có thực sự “hữu ích”

Trong bối cảnh khi các công cụ AI như ChatGPT, Bard hay Bing AI đang ngày càng làm giảm lượng tìm kiếm trên các công cụ tìm kiếm như của Google, gã khổng lồ tìm kiếm cũng có nhiều thay đổi trong cách tiếp cận, giảm nhân sự mảng hướng dẫn tìm kiếm (Search guidelines) hay có cách tiếp cận mới trong thuật toán nội dung hữu ích của Google là hai trong số đó.

Thuật toán nội dung hữu ích của Google
Thuật toán nội dung hữu ích của Google có thực sự “hữu ích”

Trong bối cảnh khi các công cụ AI như ChatGPT, Bard hay Bing AI đang ngày càng làm giảm lượng tìm kiếm trên các công cụ tìm kiếm như của Google, gã khổng lồ tìm kiếm cũng có nhiều thay đổi trong cách tiếp cận, giảm nhân sự mảng hướng dẫn tìm kiếm (Search guidelines) hay có cách tiếp cận mới trong thuật toán nội dung hữu ích là hai trong số đó.

Thuật toán nội dung hữu ích (Google Helpful Content Algorithm) là gì?

Được ra mắt lần đầu năm 2022, thuật toán nội dung hữu ích của Google (Google Helpful Content) hay Hệ thống nội dung hữu ích của Google được thiết kế để “thưởng” cho các website có chất lượng nội dung tốt, những nội dung được tạo cho người dùng thay vì cho các công cụ tìm kiếm.

Tuy nhiên, thuật toán này vẫn đối diện với nhiều chỉ trích từ phía chủ sở hữu website, cho rằng Google không thể tìm thấy cái gọi là “hữu ích” từ các nội dung trực tuyến.

“Đây là một trò đùa, các nội dung được nghiên cứu kỹ lưỡng, viết tốt, chứa đầy nội dung và hình ảnh gốc nhưng lại không hề được ưu tiên, Google rõ ràng đang buộc các nhà xuất bản phải tạo ra các nội dung rác từ AI (trí tuệ nhân tạo).”

Chủ các website phàn nàn rằng bản cập nhật thuật toán “nội dung hữu ích” mới đây của Google mặc dù được cho là nhằm cải thiện chất lượng kết quả tìm kiếm, tuy nhiên, sự thật là nó đã và đang diễn ra theo một cách khác.

Trong bản cập nhật thuật toán Google Helpful Content tháng 9 mới đây, Google cho biết hệ thống tìm kiếm của Google sẽ không chỉ tiếp tục ưu tiên cho các nội dung hữu ích, được tạo ra cho con người đọc mà còn nới lỏng các hạn chế với những nội dung do các công cụ AI tạo ra.

Mặc dù cái gọi là “hữu ích” vẫn chưa thực sự thể hiện rõ qua cách Google xếp hạng các nội dung trên trang kết quả tìm kiếm (SERPs), quan điểm mới của Google với các nội dung do AI (trí tuệ nhân tạo) tạo ra cũng dấy lên nhiều lo ngại về quyền tác giả, tính xác thực hay cả chất lượng của nội dung.

Cũng theo chính Google, “nội dung hữu ích” thay vì như trước đây là những nội dung “do con người tạo ra và hữu ích cho mọi người” thì giờ đây nó sẽ là “nội dung hữu ích là những nội dung được viết cho mọi người”.

Cũng theo thông báo này, công cụ tìm kiếm sẽ vẫn thúc đẩy các nội dung (content) do AI tạo ra trong trang kết quả tìm kiếm miễn là nó được coi là “có chất lượng cao”.

Với những gì đang diễn ra, nhiều chủ sở hữu website cho biết các nội dung do AI tạo ra đang có kết quả xếp hạng cao hơn các nội dung do con người viết, trong khi những người khác cho biết các nội dung đang có xếp hạng cao lại không thực sự “hữu ích”.

Hàng hoạt các website và thông tin trên các diễn đàn SEO cũng cho biết nội dung do AI tạo ra cũng đã bắt đầu xuất hiện phía trên các nội dung của họ (vốn do người viết).

Trong khi Google thường xuyên cập nhật cho các thuật toán của mình, và các nhà sáng tạo nội dung hay chủ các website vẫn phải “đau đầu” với nó, một số chủ sở hữu trang web khẳng định họ chưa bao giờ thấy sự thay đổi như thế này trước đây.

Nội dung do AI tạo ra và nhiều mối nguy tiềm ẩn.

Theo chia sẻ từ Google: “Thuật toán nội dung hữu ích được thiết kế để hiển thị nhiều nội dung hữu ích hơn trong kết quả tìm kiếm, được tạo ra để trợ giúp hoặc thông báo cho mọi người, các nội dung được tạo ra chỉ để có được vị trí xếp hạng tốt hơn trên Google tìm kiếm sẽ ít được xuất hiện hơn.”

“Chúng tôi không nhắm mục tiêu nội dung được sản xuất bằng bất kỳ phương pháp cụ thể nào – dù là AI hay cách khác – chúng tôi chỉ quan tâm đến chất lượng của một website nhất định và sự hữu ích của nó đối với người đọc.”

Trong khi mục tiêu chính của Google dường như là hạ thấp thứ hạng các website sử dụng lại nội dung hay sắp xếp lại những thông tin đã có sẵn trên môi trường trực tuyến nhằm mục đích xếp hạng cao hơn trong trang kết quả tìm kiếm.

Vấn đề là các mô hình ngôn ngữ lớn (LLMs) như PaLM 2 hay Llama 2, vốn được đào tạo dựa trên khối lượng lớn nội dung được lấy miễn phí từ Internet. Vì vậy, về bản chất, các mô hình AI này đang khéo léo dùng lại những gì đã được xuất bản trước đó. Đó phải là điều mà Google trừng phạt.

Mặc dù vậy, với những gì mà Google đang làm, nó đang được hiểu theo cách ngược lại, Google vẫn ưu tiên cho các nội dung do AI tạo ra miễn là nó “có chất lượng” theo cách hiểu của các thuật toán của Google.

Theo quan điểm của MarketingTrips, rõ ràng là Google vẫn đang sử dụng “chiến lược nước đôi”, một mặt, Google nói rằng nội dung AI vẫn ổn, nhưng mặt khác, lại ưu tiên các nội dung hữu ích và nội dung gốc đồng thời khuyến cáo các website sử dụng các công cụ AI để viết nội dung SEO.

Phát hiện ra các nội dung AI là không thể.

Với những gì đang diễn ra, một vấn đề đối với cả người dùng và Google là, công cụ tìm kiếm hiện tại không thể nhận ra sự khác biệt giữa nội dung do máy tạo ra và do con người tạo ra.

Trong khi Google như đã thông báo là sẽ giảm thứ hạng và trừng phạt các nội dung thiếu tính hữu ích hay kém chất lượng, công cụ tìm kiếm lại chưa thể đưa ra các giải pháp cụ thể về cách họ phát hiện và phân biệt các nội dung AI.

Mặc dù lợi ích do các công nghệ AI tạo ra là quá rõ ràng, việc ứng dụng nó ra sao vào các bối cảnh cụ thể vẫn còn là một bài toán khó chưa có lời giải đáp.

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer

Nam Nguyen | MarketingTrips

Startup từng được định giá đến 47 tỷ USD chuẩn bị nộp đơn xin phá sản

Một vụ phá sản của WeWork sẽ là cú đảo ngược gây sửng sốt về vận may của công ty từng được định giá 47 tỷ USD trong một vòng gọi vốn tư nhân vào năm 2019.

Startup từng được định giá đến 47 tỷ USD chuẩn bị nộp đơn xin phá sản
Startup từng được định giá đến 47 tỷ USD chuẩn bị nộp đơn xin phá sản

WeWork dự kiến nộp đơn xin bảo hộ phá sản ngay vào tuần tới – tờ Wall Street Journal dẫn nguồn thạo tin cho hay – trong bối cảnh startup “kỳ lân” đình đám một thời chật vật xoay sở với khối nợ khổng lồ và thua lỗ chồng chất.

Tin đồn về việc WeWork phá sản đã xuất hiện một thời gian, sau khi công ty cung cấp không gian làm việc linh hoạt này báo cáo với nhà chức trách về “nỗi hoài nghi to lớn” đối với khả năng duy trì hoạt động trong vòng 1 năm tới.

Sau khi thông tin về việc WeWork có thể sắp chính thức đệ đơn phá sản theo Chương 11 Luật Phá sản Mỹ lên toà án ở New Jersey được Wall Street Journal đăng tải ngày 31/10, giá cổ phiếu công ty này có thời điểm giảm 32% trong phiên giao dịch ngoài giờ. Nếu tính từ đầu năm, giá cổ phiếu WeWork đã “bốc hơi” 96%.

Trước đó cùng ngày, WeWork cho biết đã đạt thoả thuận với các chủ nợ về giãn một số khoản nợ với tổng trị trị giá 6,4 triệu USD, đúng vào lúc sắp hết thời gian ân hạn của các khoản phải trả này.

Ở thời điểm cuối tháng 6, WeWork có 2,9 tỷ USD nợ ròng dài hạn và nợ hơn 13 tỷ USD tiền thuê mặt bằng dài hạn, trong bối cảnh lãi suất tăng cao gây áp lực lớn lên lĩnh vực bất động sản thương mại.

Một vụ phá sản của WeWork sẽ là cú đảo ngược gây sửng sốt về vận may của công ty từng được định giá 47 tỷ USD trong một vòng gọi vốn tư nhân vào năm 2019.

WeWork cũng chính là một “hố đen” đã nhấn chìm nhiều tỷ USD của SoftBank – công ty đầu tư công nghệ của tỷ phú Nhật Bản Masayoshi Son.

Rắc rối đã bủa vây WeWork sau khi kế hoạch phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng (IPO) vào năm 2019 thất bại.

Vụ phát hành đổ bể do nhà đầu tư hoài nghi về mô hình kinh doanh đi thuê văn phòng dài hạn để cho thuê ngắn hạn của WeWork, cũng như những khoản thua lỗ khổng lồ của công ty dưới sự điều hành của nhà sáng lập kiêm CEO khi đó là Adam Neumann.

Tháng 8/2019, WeWork tiết lộ thua lỗ 900 triệu USD trong 6 tháng. Một tháng sau đó, Neumann bị cách chức sau hàng loạt cáo buộc về môi trường làm việc độc hại tại công ty.

SoftBank – cổ đông chính của WeWork – đã rót khoảng 10 tỷ USD để vực dậy startup này, nhưng WeWork vẫn tiếp tục trong tình trạng lỗ chồng lỗ. Năm 2020, SoftBank mạnh tay hạ định giá WeWork còn 2,9 tỷ USD.

Sau nhiều nỗ lực, WeWork cuối cùng cũng trở thành một công ty đại chúng vào năm 2021, với mức định giá khoảng 9 tỷ USD. Cuộc chào sàn của WeWork được tiến hành thông qua sáp nhập với một công ty séc trắng (SPAC) thay vì theo con đường IPO truyền thống.

Tháng 8 vừa qua, WeWork thông báo về “nỗi hoài nghi to lớn” đối với khả năng tiếp tục hoạt động. Một loạt nhà điều hành cấp cao của công ty, gồm CEO Sandeep Mathrani, đã rời đi trong năm nay.

Ngoài sự thất bại của mô hình kinh doanh và văn hoá điều hành doanh nghiệp thời CEO Neumann, WeWork còn là một “nạn nhân” của đại dịch Covid-19, khi giãn cách xã hội dẫn tới xu hướng làm việc từ xa. Tuy nhiên, kể từ khi các biện pháp hạn chế chống Covid được gỡ bỏ tại các quốc gia đến nay, WeWork vẫn chưa khi nào báo lãi.

WeWork bắt đầu đi vào hoạt động vào năm 2010 ở New York, cung cấp không gian làm việc chung cho khách hàng chủ yếu là những người làm việc tự do, các start-up, và doanh nghiệp nhỏ. Sau đó, công ty nhanh chóng mở rộng đối tượng khách hàng ra các công ty lớn hơn.

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer

Hà Anh  | MarketingTrips   

Google Ads cố tình hiển thị pop-up khảo sát khi nhà quảng cáo muốn tạm dừng chiến dịch

Google Ads đang cố tình làm gián đoạn việc nhà quảng cáo muốn tạm dừng chiến dịch quảng cáo bằng các pop-up (nội dung hiển thị bật lên) chen ngang.

Theo đó, Google Ads đã bắt đầu hiển thị các nội dung khảo sát bằng pop-up (các cửa sổ bật lên) cố tình làm gián đoạn việc các nhà quảng cáo muốn tạm dừng chiến dịch quảng cáo của mình.

Cuộc khảo sát bật lên có thể gây khó chịu và bất tiện cho nhiều người làm marketing nói chung đặc biệt là những người bận rộn, những người không có thời gian giải thích thêm cho việc tạm dừng chiến dịch quảng cáo của họ với Google.

Tuy nhiên, với Google thì ngược lại, Google vừa có thêm thông tin để cải thiện sản phẩm quảng cáo của mình, hoặc vừa có thể khiến cho quá trình tạm dừng bị gián đoạn.

Nhiều nhà quảng cáo cũng lo ngại việc liệu pop-up gián đoạn này cũng có thể được áp dụng và phá vỡ nhiều quy tắc cài đặt tự động khác của nhà quảng cáo hay không (ví dụ như việc nhà quảng cáo chọn cách tắt chiến dịch nếu một chiến dịch nào đó vượt quá ngưỡng chi tiêu cho phép hoặc không mang lại chuyển đổi yêu cầu).

Google chưa trả lời cụ thể cho mục đích của khảo sát này.

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer

 

Nam Nguyen | MarketingTrips

Người dùng YouTube hiện không thể chặn quảng cáo

Nếu cài trình chặn quảng cáo, người dùng YouTube sẽ vẫn nhận được cảnh báo phải gỡ bỏ mới có thể tiếp tục xem nội dung trên nền tảng.

“Có vẻ bạn đang dùng trình chặn quảng cáo. Tính năng phát video sẽ bị ngừng trừ khi YouTube được thêm vào danh sách cho phép quảng cáo”, thông báo có đoạn.

YouTube cũng gợi ý người dùng có thể mua gói Premium nếu không muốn bị quảng cáo làm phiền, cũng như giúp nhà phát triển có thêm doanh thu.

Ngày 31/10, Giám đốc truyền thông YouTube Christopher Lawton xác nhận nền tảng đang “trấn áp” các trình chặn quảng cáo ở quy mô toàn cầu. “Quảng cáo giúp hỗ trợ người sáng tạo nội dung và cho phép hàng tỷ người truy cập nội dung yêu thích trên YouTube”, ông nói.

Trên các diễn đàn như Reddit, người dùng sử dụng trình chặn cho biết sau khi tắt thông báo, họ vẫn có thể tiếp tục xem nội dung bên trong, nhưng sau đó xuất hiện cảnh báo “việc phát sẽ bị khóa sau khi xem ba video”.

Việc YouTube mạnh tay với trình chặn quảng cáo bắt đầu từ tháng 6, khi nền tảng cho biết đang thực hiện “một thử nghiệm nhỏ” với một nhóm người dùng, còn hiện đã được triển khai toàn cầu.

Tại Việt Nam, gói YouTube Premium có giá 79.000 đồng mỗi tháng cho người dùng cá nhân, 149.000 đồng cho gói gia đình (tối đa 5 thành viên) và 49.000 đồng nếu là sinh viên.

Quảng cáo đầu tiên được YouTube phát bên trong video xuất hiện vào tháng 8/2007 với Fox, The Simpsons Movie, BMW và Hairspray là các đơn vị đầu tiên.

Giám đốc truyền thông của YouTube, nền tảng đã thử nghiệm nhiều định dạng quảng cáo khác nhau suốt hơn 15 năm qua, nhưng loại “phủ hoạt ảnh kiểu TV” được xem nhiều nhất. Quảng cáo này chạy khoảng 10 giây sau khi video phát được 15 giây.

YouTube hiện đã tăng tần suất quảng cáo lên nhiều lần trong một video, gây khó chịu cho người dùng. Do đó, nhiều người tìm đến công cụ chặn quảng cáo thay vì trả tiền cho gói Premium.

Chính sách mới của YouTube có thể thúc đẩy người dùng mua gói Premium, nhưng cũng tạo ra một cuộc chạy đua không hồi kết giữa nền tảng với các công ty phát triển công cụ chặn quảng cáo đằng sau. Trong những tháng tới, chúng ta có thể sẽ thấy trò mèo vờn chuột giữa YouTube và các đơn vị tạo trình chặn quảng cáo.

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer

Nam Nguyen | MarketingTrips

Cựu trợ lý của Bill Gates trở thành người giàu thứ 5 thế giới

Nếu tài sản của tỷ phú 67 tuổi Steve Ballmer vượt qua tài sản của Bill Gates thì đây sẽ là trường hợp thực sự hiếm hoi khi một nhân viên lại giàu hơn cả người sáng lập công ty.

Cựu trợ lý của Bill Gates trở thành người giàu thứ 5 thế giới
Cựu trợ lý của Bill Gates trở thành người giàu thứ 5 thế giới

Theo đó, Steve Ballmer – trợ lý cũ của Bill Gates, đã lọt vào danh sách 5 người giàu nhất thế giới và thậm chí có thể sớm vượt qua ông chủ cũ của mình tại Microsoft về giá trị tài sản ròng.

Cụ thể, tài sản của Ballmer đã tăng khoảng 29 tỷ USD trong năm nay, lên khoảng 115 tỷ USD. Qua đó, ông giữ vị trí thứ 5 trong danh sách tỷ phú của Bloomberg.

Hiện Ballmer đang bám đuổi sát nút Bill Gates – người ở vị trí thứ 4 với hơn 121 tỷ USD, chỉ nhiều hơn tài sản của Ballmer 6 tỷ USD.

Cũng theo danh sách, Ballmer hiện giàu hơn nhiều tỷ phú đình đám khác như Larry Ellison (114 tỷ USD), Warren Buffett (111 tỷ USD), Larry Page (110 tỷ USD), Mark Zuckerberg (108 tỷ USD) và Sergey Brin (105 tỷ USD).

Ballmer gia nhập Microsoft năm 1980 với vai trò trợ lý chủ tịch. Mặc dù vậy, ông đóng vai trò là giám đốc kinh doanh nhiều hơn trợ lý cá nhân.

Theo Forbes, ban đầu ông thương lượng mức lương cơ bản 50.000 USD cộng với 10% mức tăng trưởng lợi nhuận mà ông tạo ra. Tuy nhiên, khi phần lợi nhuận tăng quá mức, ông đã đồng ý đổi lấy một lượng cổ phần đáng kể tại Microsoft.

Sau đó, cố vấn đáng tin cậy của Bill Gates liên tục thăng tiến để trở thành CEO của Microsoft năm 2000. Dưới sự lãnh đạo của Ballmer, Microsoft đã đạt được nhiều thành công lớn khi thử nghiệm nhiều loại sản phẩm khác nhau. Doanh thu hàng năm của công ty đã tăng từ 25 tỷ USD lên 70 tỷ USD và thu nhập ròng tăng 215%.

Ballmer thôi giữ vị trí này vào năm 2014 với 333 triệu cổ phiếu tương đương với 4% cổ phần của Microsoft. Tháng 8 cùng năm, ông rời khỏi Hội đồng quản trị của công ty. Trong những năm gần đây, sự giàu có của Ballmer đã tăng vọt, một phần là do sự bùng nổ về trí tuệ nhân tạo (AI) trên toàn cầu.

Khoản đầu tư của Microsoft vào ChatGPT của OpenAI đã thúc đẩy giá cổ phiếu Microsoft đồng thời được dự đoán là có thể phá vỡ sự thống trị của Alphabet (công ty mẹ Google) trong lĩnh vực tìm kiếm trên Internet. Những điều trên khiến cổ phiếu Microsoft đã tăng 38% trong 10 tháng qua.

Cần nhấn mạnh rằng Ballmer là tỷ phú khác biệt trong 10 người giàu nhất danh sách của Bloomberg. Elon Musk, Bernard Arnault, Jeff Bezos và những người còn lại có được sự giàu có nhờ cổ phần trong các công ty mà họ thành lập hoặc vẫn đang điều hành, trong khi Ballmer không phải là người sáng lập hay CEO hiện tại của Microsoft.

Nếu tài sản của tỷ phú 67 tuổi này vượt qua tài sản của Bill Gates thì đây sẽ là trường hợp thực sự hiếm hoi khi một nhân viên lại giàu hơn cả người sáng lập công ty.

Ballmer đã cống hiến 34 năm để làm việc tại Microsoft. Ông là nhân viên thứ 30 của công ty. Sau khi về hưu, Ballmer chủ yếu dành thời gian cho niềm đam mê bóng rổ và thực hiện các hoạt động từ thiện cùng vợ. Ông hiện sở hữu đội bóng rổ Los Angeles Clipper, được định giá ở mức hơn 2 tỷ USD.

Năm 2021, tài sản của Ballmer vượt mốc 100 tỷ USD. Tuy không duy trì được quá lâu nhưng điều này vẫn giúp vị tỷ phú công nghệ trở thành người thứ 9 trong lịch sử nước Mỹ đạt được điều này.

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer

Hà Anh  | MarketingTrips   

Đề xuất giảm giờ làm trong doanh nghiệp xuống 44 giờ mỗi tuần

Đại biểu Phạm Trọng Nghĩa đề nghị Quốc hội xem xét giảm giờ làm việc bình thường cho lao động khu vực tư từ 48 giờ xuống 44 giờ, tiến tới còn 40 giờ mỗi tuần.

Đề xuất giảm giờ làm trong doanh nghiệp xuống 44 giờ mỗi tuần
Đề xuất giảm giờ làm trong doanh nghiệp xuống 44 giờ mỗi tuần

Là người đầu tiên phát biểu tại phiên thảo luận kinh tế – xã hội tại Quốc hội chiều 31/10, ông Phạm Trọng Nghĩa (Giám đốc Trung tâm Thông tin khoa học lập pháp, Viện Nghiên cứu lập pháp), nói sắc lệnh của Chủ tịch Hồ Chí Minh từ năm 1947 quy định “thời hạn làm việc của công nhân, đàn ông hay đàn bà không quá 48 giờ mỗi tuần lễ”. Sắc lệnh này cũng quy định thời gian làm thêm mỗi năm không quá 100 giờ.

Sau gần 80 năm độc lập và qua gần 40 năm đổi mới, điều kiện kinh tế – xã hội, thế và lực Việt Nam được nâng lên tầm cao mới, nhưng thời giờ làm việc của người lao động khu vực tư không giảm, giờ làm thêm tăng lên gấp ba.

Vì vậy, ông Nghĩa đề nghị Chính phủ xem xét trình Quốc hội giảm giờ làm việc bình thường với lao động khu vực tư như khu vực công, đã được thực hiện từ năm 1999 (40 giờ/tuần).

“Đây là xu hướng tiến bộ của đa số các quốc gia trên thế giới”, ông Nghĩa nhấn mạnh.

Đại biểu Huỳnh Thanh Phương (Bí thư Huyện ủy Gò Dầu, tỉnh Tây Ninh) đánh giá năng suất lao động của Việt Nam thấp so với các nước trong khu vực và thế giới. Điều này khiến nền kinh tế đối mặt thách thức lớn để bắt kịp khu vực và thế giới.

“Cải thiện năng suất lao động là con đường ngắn nhất đưa nền kinh tế phát triển nhanh, bền vững”, ông Phương nói, đề nghị Chính phủ đánh giá toàn diện tình hình năng suất lao động và đề ra giải pháp.

Theo Bộ Luật Lao động được Quốc hội thông qua năm 2019, có hiệu lực từ năm 2021, giờ làm việc bình thường của người lao động không quá 8 giờ mỗi ngày và 48 giờ mỗi tuần.

Doanh nghiệp có quyền quy định thời giờ làm việc theo ngày hoặc tuần nhưng phải thông báo cho người lao động biết; nếu quy định giờ làm việc theo tuần thì không quá 10 giờ một ngày và 48 giờ một tuần.

Nhà nước khuyến khích doanh nghiệp thực hiện tuần làm việc 40 giờ đối với người lao động. Giờ làm thêm khống chế 40 giờ mỗi tháng, không quá 200 giờ mỗi năm. Doanh nghiệp khi tổ chức làm thêm giờ phải được người lao động đồng ý, đảm bảo số giờ làm thêm không quá 50% giờ làm việc bình thường trong ngày. ‘

Nếu áp dụng giờ làm việc bình thường theo tuần thì tổng thời gian làm việc lẫn làm thêm không quá 12 tiếng mỗi ngày và không quá 40 giờ mỗi tháng.

Luật mở rộng khung giờ làm thêm tối đa 300 giờ mỗi năm cho một số ngành nghề, như: Sản xuất gia công xuất khẩu hàng dệt may, da giày, chế biến nông lâm, thủy sản, sản xuất và cung cấp điện, viễn thông, lọc dầu, cấp thoát nước, diêm nghiệp, điện, điện tử.

Báo cáo Điều tra lao động việc làm năm 2020 của Tổng cục Thống kê chỉ ra gần 41% lao động trên toàn quốc làm việc từ 40 đến 48 giờ mỗi tuần; 30,8% làm việc trên 48 giờ mỗi tuần. Tỷ trọng lao động làm việc trên 48 giờ một tuần của nam cao hơn nữ (33,9% và 27,4%). Cả nước có 7,5% lao động làm việc trên 60 giờ mỗi tuần, cao nhất ở vùng Đồng bằng sông Hồng (9,3%).

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer

Hà Anh  | MarketingTrips   

Theo VnExpress

Elon Musk tự định giá mạng xã hội X là 19 tỷ USD (so với 44 tỷ USD lúc mua lại)

Elon Musk từng chi 44 tỷ USD để mua lại Twitter, nay là X, nhưng hiện ông định giá mạng xã hội khoảng 19 tỷ USD.

Elon Musk tự định giá mạng xã hội X là 19 tỷ USD (so với 44 tỷ USD lúc mua lại)
Elon Musk tự định giá mạng xã hội X là 19 tỷ USD (so với 44 tỷ USD lúc mua lại)

Theo Fortune, trong thông báo nội bộ ngày 30/10, Musk cho biết công ty dự định trao cổ phần và cổ phiếu hạn chế cho các nhân viên có đóng góp lớn với mức 45 USD mỗi cổ phiếu.

Dựa trên kế hoạch vốn cổ phần, X được định giá khoảng 19 tỷ, thấp hơn 25 tỷ USD so với số tiền Elon Musk đã bỏ ra để mua mạng xã hội cách đây tròn một năm.

Tháng 4 năm ngoái, Musk tuyên bố mua Twitter với giá 54,2 USD mỗi cổ phiếu. Sau khi “lật kèo” không thành, ngày 28/10/2022, ông chính thức tiếp quản mạng xã hội, sau đó đổi tên thành X vào tháng 7.

Để có 44 tỷ USD, Musk huy động từ nhiều công ty lớn và hiện gánh khoản nợ 13 tỷ USD. Các ngân hàng hỗ trợ tài chính cho thương vụ có Morgan Stanley, Bank of America, Barclays, MUFG, BNP Paribas, Mizuho và Société Générale. Tất cả đều đang “mắc kẹt” với khoản nợ và phải chịu lỗ trên giấy tờ khi giá trị của X giảm mạnh.

Một số doanh nghiệp khác, như Fidelity – một trong những cổ đông góp tiền mua Twitter, cho biết hồi tháng 5 rằng họ định giá cổ phần của mình hiện chỉ bằng 1/3 so với khi thương vụ hoàn tất. Hồi tháng 7, Musk cũng dự đoán X có thể chỉ đạt doanh thu khoảng ba tỷ USD năm nay, trong khi năm 2022 là 4,4 tỷ USD.

Kể từ khi tiếp quản X, Musk liên tục tìm cách tạo doanh thu và tiết kiệm chi phí cho nền tảng, từ việc sa thải phần lớn nhân viên cho đến thu phí người dùng. Sau khi tung ra gói Blue giá 8 USD, gần đây ông tiếp tục thử nghiệm thu phí định danh một USD ở một số thị trường.

Cuối tuần trước, nền tảng ra thêm hai gói Basic và Premium+. Gói Basic giá ba USD mỗi tháng, cho phép đăng nội dung dài và chỉnh sửa nội dung, nhưng không có tích xanh và phải “sống chung” với quảng cáo.

Gói Premium+ giá 16 USD không có quảng cáo và có một số đặc quyền khác, nhưng được đánh giá là không khác biệt quá nhiều so với gói 8 USD.

Trong khi Musk loay hoay với X, các nhà quảng cáo hàng đầu – nguồn thu chính của nền tảng – lần lượt rời đi. Theo Rolling Stone, hầu hết không muốn thương hiệu của họ xuất hiện bên cạnh nội dung tiêu cực, tin giả hoặc bài viết mang tính công kích, xúc phạm.

Dữ liệu từ công ty tư vấn tiếp thị Ebiquity ngày 23/10 cho thấy chỉ có hai trong số 70 thương hiệu hàng đầu hiện làm việc với Ebiquity vẫn mua quảng cáo trên X vào tháng 10, giảm so với 31 thương hiệu vào tháng 9/2022.

Trong cuộc họp với các chủ ngân hàng vào tháng 10, bà Linda Yaccarino, CEO X, cho biết doanh thu công ty tăng “ở mức một chữ số phần trăm” trong quý III/2023 so với quý trước.

Bà kỳ vọng X, mạng xã hội có 245 triệu người dùng hoạt động hàng ngày, sẽ có lãi vào đầu năm 2024.

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer

Hà Anh  | MarketingTrips   

Thời hoàng kim của Nhật Bản liệu có đã trôi qua trong cuộc đua công nghệ mới

Bloomberg nhận định Nhật Bản đang mắc căn bệnh “chất lượng cao”, tự mãn với hào quang quá khứ và chưa biết hợp tác với doanh nghiệp nước ngoài, để cho các nền kinh tế khác dần vượt mặt ở hàng loạt lĩnh vực công nghệ.

Thời hoàng kim của Nhật Bản liệu có đã trôi qua trong cuộc đua công nghệ mới
Thời hoàng kim của Nhật Bản liệu có đã trôi qua trong cuộc đua công nghệ mới

Mới đây, báo cáo của Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) cho thấy nền kinh tế Đức được dự đoán sẽ vượt qua Nhật Bản để xếp thứ 3 thế giới trong năm 2023 nhờ đồng Yên mất giá đã thu hút sự quan tâm của giới truyền thông.

Trong khi nhiều người đổ lỗi cho việc đồng Yên mất giá xuống thấp nhất 33 năm so với đồng USD thì câu chuyện nền kinh tế lớn thứ 3 thế giới còn phức tạp hơn nhiều với tư tưởng “Nhật Bản là trung tâm” (Japan Centricism) cùng một giấc mơ vượt qua Mỹ chẳng bao giờ thành hiện thực.

Giấc mơ mãi là giấc mơ.

Vào năm 1964 khi Nhật Bản đăng cai kỳ Thế vận hội Olympic đầu tiên của mình, quốc gia này đã làm cả thế giới trầm trồ với những công nghệ tiên tiến, từ những đoàn tàu cao tốc chạy 210 km/h (Shinkansen) đến những băng nhạc cassette của Sony.

Có thể nói thập niên 1960-1970 là thời kỳ vàng son của công nghệ Nhật Bản khi các doanh nghiệp nước này luôn đi đầu trong nhiều công nghệ mới, thậm chí nhiều người còn mơ đến viễn cảnh quốc gia này vượt cả nền kinh tế số 1 thế giới lúc đó là Mỹ.

Thế nhưng giấc mơ đó chẳng bao giờ xảy ra.

Lần cuối cùng Nhật Bản thu hút được sự chú ý của truyền thông quốc tế là vào năm 2021 khi tổ chức kỳ Thế vận hội 2020 (phải lùi 1 năm vì đại dịch Covid-19).

Trớ trêu thay trong bối cảnh dịch bệnh, chẳng có ai quan tâm đến những thành quả công nghệ của họ. Giới truyền thông quốc tế chỉ để ý đến số ca nhiễm mới và những chiếc giường bằng giấy trong làng thể thao liệu có đủ “chắc”.

Theo hãng tin Bloomberg, ngay cả khi không có dịch bệnh thì thời hoàng kim của Nhật Bản cũng đã qua.

Những niềm tự hào của nền kinh tế này như tivi màu, băng cassette hay máy tính cá nhân giờ đã bị thay thế bởi smartphone, xe điện, chip bán dẫn…đều là các sản phẩm mà Nhật Bản không dẫn đầu.

Thậm chí là người láng giềng Hàn Quốc hiện nay cũng vượt Nhật Bản về mảng smartphone và chip nhớ điện tử, còn Trung Quốc thì cho nền kinh tế này “hít khói” ở mảng xe điện và sản xuất smartphone.

Ngay cả ở mảng tàu cao tốc từng là niềm tự hào của Nhật Bản thì hiện nay đang bị Trung Quốc dần vượt mặt.

Câu chuyện ở đây không đơn giản chỉ là niềm tự hào dân tộc bị tổn thương mà nó còn liên quan đến cả một nền kinh tế đang cố gắng níu kéo thời hoàng kim của mình bằng kỳ Olympic 2020.

Trong khi Mỹ và Trung Quốc tranh cãi nhau về bằng sáng chế, ganh đua nhau về kỹ thuật tiên tiến nhất cũng như đặt ra các tiêu chuẩn cho công nghệ mới thì Nhật Bản, từng là niềm tự hào của Châu Á nay lại bị “ra rìa”.

Tất nhiên, chính quyền Tokyo nhận ra điều đó khi có kế hoạch thúc đẩy phát triển ngành công nghiệp sản xuất chip điện tử như một dự án quốc gia, song hành với chiến lược đảm bảo an ninh lương thực cũng như nhiên liệu.

Vậy nhưng theo hãng tin Bloomberg, kế hoạch này muốn thành công cần đòi hỏi sự thay đổi gốc rễ tại Nhật Bản.

Cụ thể, chính phủ cần dỡ bỏ những vùng bảo hộ, giảm bớt thủ tục hành chính, tuyển dụng thêm tài năng từ nước ngoài và đặc biệt là loại bỏ tư tưởng “Nhật Bản là trung tâm” (Japan Centricism) đã ăn sâu vào tiềm thức các doanh nghiệp.

Chuyên gia Kazumi Nishikawa của Bộ Công thương Nhật Bản cho biết việc thần thánh hóa công nghệ Nhật là điều “ngu ngốc” khi thời kỳ đỉnh cao của họ đã qua. Đây là thời điểm cần tiếp thu cái mới, cần sự cầu thị và học hỏi chứ không phải đắm mình trong hào quang quá khứ.

“Tư tưởng sản phẩm phải tự nghiên cứu và sản xuất tại Nhật Bản không còn hiệu quả nữa”, ông Nishikawa thừa nhận.

Hiện nền kinh tế thứ 3 thế giới đang đổ hàng trăm tỷ Yên vào mảng chip điện tử nhưng thế vẫn chưa là gì so với số tiền Mỹ chi vào mảng này.

Theo các thống kê, nền kinh tế số 1 thế giới đã chi tới 52 tỷ USD, tương đương 5,7 nghìn tỷ Yên để phát triển mảng chip nhằm cạnh tranh với Trung Quốc.

Trong khi đó, quốc gia hàng xóm của Nhật Bản là Hàn Quốc cũng chi nhiều tiền chẳng kém. Những tập đoàn như Samsung hay SK đã cam kết để thêm 450 tỷ USD cho mảng này trong 10 năm tới.

Thậm chí doanh nghiệp TSMC của Đài Loan cũng cho biết sẽ chi tới 100 tỷ USD cho mảng mà họ đang dẫn đầu trong 3 năm tới.

“Nếu không chịu đầu tư cho tương lai, Nhật Bản sẽ luôn phải phụ thuộc vào nước khác trong kỷ nguyên công nghệ số”, Giám đốc Yuko Harayama của Viện nghiên cứu Riken nhấn mạnh.

Căn bệnh “chất lượng cao”.

Hiện nay Nhật bản vẫn dẫn đầu thế giới trong một số công nghệ như robot hay siêu máy tính. Những kỹ sư Nhật Bản thậm chí mới đây đã phá vỡ kỷ lục thế giới về tốc độ đường truyền Internet.

Trong bản đánh giá chuỗi cung ứng của Nhà Trắng-Mỹ được công bố vào năm 2021, Nhật Bản được nhắc đến 85 lần, nhiều hơn so với Hàn Quốc và Đài Loan nhưng tương đương với Châu Âu.

Chủ tịch danh dự Tetsuro Higashi của công ty bán dẫn Tokyo Electron cho biết việc định hình điểm yếu của công nghệ Nhật Bản không đồng nghĩa với việc phải xây dựng lại cả một ngành từ con số 0.

Trên thực tế, ngành chất bán dẫn của Nhật cũng đã có nền tảng với bộ nhớ của Kioxia hay cảm ứng ảnh của Sony cùng vô số các nhà sản xuất, lắp ráp chip khác.

Thế nhưng điều khó khăn ở đây là Nhật Bản chưa kết nối được những doanh nghiệp này thành một hệ thống cũng như tạo nên sản phẩm cốt lõi của mình.

Hệ quả là theo báo cáo của IC InSights, thị phần chip điện tử của Nhật Bản đã giảm từ 50% năm 1990 xuống chỉ còn 6% hiện nay.

Một báo cáo khác của tổ chức Stiftung Neue Verantwortung tại Đức cho thấy đóng góp của ngành chip Nhật Bản cho thế giới đã suy giảm trong 25 năm qua và để Trung Quốc vượt qua.

Một báo cáo của chuyên gia tư vấn Takami Yunogami được trình bày trước Hạ viện Nhật Bản cho thấy nước này từng sản xuất bộ nhớ cho những chiếc máy tính lớn (mainframe computer), nơi khách hàng đòi hỏi chất lượng cực cao và bảo hành tới 25 năm.

Thế nhưng khi mảng máy tính cá nhân trỗi dậy thì ngành công nghiệp Nhật lại không bắt kịp, để rồi bị Samsung vượt qua với những bộ nhớ giá rẻ chỉ bảo hành có 3 năm.

Tương tự với mảng xe điện, những thương hiệu hàng đầu như Toyota đang chú trọng quá nhiều đến vấn đề chất lượng, lo ngại đủ các yếu tố để rồi chậm chân trước Trung Quốc.

Rõ ràng trong kỷ nguyên công nghệ thay đổi từng ngày, Nhật Bản đang mắc căn bệnh “chất lượng cao” trong khi khách hàng thay mới sản phẩm liên tục và ưa chuộng giá rẻ.

Từ ông hoàng đến kẻ phụ trợ.

Một yếu điểm nữa khiến công nghệ Nhật Bản gặp cản trở là chính phủ quá coi trọng những tập đoàn trong nước mà bỏ quên khả năng hợp tác phát triển với nước ngoài.

Trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, việc hợp tác và làm việc chung với người nước ngoài là một yếu tố hỗ trợ tích cực cho mảng công nghệ.

Tinh thần lao động của người Nhật là đáng kính nể nhưng nếu không thể hòa nhập được với thế giới, tiềm năng công nghệ của họ sẽ bị giới hạn.

Một ví dụ điển hình là năm 1999, Nhật Bản xúc tiến vụ sáp nhập, mua lại của Hitachi với bộ phận sản xuất bộ nhớ của NEC dưới cái tên mới: Elpida.

Thế nhưng kế hoạch vun trồng cho tập đoàn Hitachi thất bại hoàn toàn vào năm 2012 khi Elpida phá sản cùng khoản nợ 5,5 tỷ USD, để rồi bị công ty Mỹ Micron Technology mua lại.

“Tất cả những gì chúng tôi cố thử đều không thành công, từ các dự án quốc gia cho đến liên doanh đều thất bại. Mảng chip điện tử hiện đã nằm ngoài tầm khôi phục để vươn lên top thế giới rồi”, chuyên gia Yunogami thừa nhận.

Dẫu vậy, báo cáo của Yunogami cũng cho thấy Nhật Bản vẫn còn cơ hội sản xuất thiết bị phụ trợ và nguyên liệu thô cho ngành chip nếu không thể cạnh tranh trực tiếp.

Thật trớ trêu nhưng ông hoàng công nghệ một thời nay lại chỉ còn cơ hội nếu sản xuất phụ trợ cho những người chơi khác như Mỹ, Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan.

Hậu quả của tự mãn.

Cách đây 40 năm, Mỹ và Nhật Bản từng nổ ra xung đột thương mại khi nền kinh tế xứ sở mặt trời mọc bùng nổ. Tại thời điểm đó, Mỹ đã áp đặt các quy định về tỷ lệ sử dụng chip điện tử nội địa lên các mặt hàng hoặc sẽ phải chịu mức thuế thương mại đặc biệt.

“Mỹ từng coi sự trỗi dậy của Nhật Bản là mối đe dọa và cần phải kiểm soát”, Cựu bộ trưởng ngoại giao về chính sách kinh tế tài khóa Nhật Bản, ông Akira Amari cho biết.

Thế nhưng thay vì đấu tranh hoặc tìm đường phát triển mới, các công ty Nhật lại chấp nhận chỉ tập trung vào thị trường trong nước. Một phần nguyên nhân cũng là do việc tự mãn với thành quả công nghệ phát triển được, qua đó từ bỏ thị trường nước ngoài béo bở khi bị Mỹ áp thuế.

Ví dụ điển hình của câu chuyện này là Docomo, công ty Nhật Bản tiên phong trong công nghệ kết nối điện thoại với Internet nhưng giờ đây thế giới lại chỉ nhớ đến Apple và Samsung.

“Nhật Bản rất giỏi trong việc sáng chế, đi từ 0 đến 1, nhưng lại chẳng thành công lắm cho việc phát triển đi lên 10. Nhật Bản có thể thắng trong công nghệ nhưng lại thua trong kinh doanh”, ông Amari ngậm ngùi.

*Nguồn: Bloomberg

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer

Theo Băng Băng | Markettimes

Instagram Reminder Ads ra mắt tính năng quảng cáo mới

Instagram vừa thông báo cập nhật một số tính năng quảng cáo mới cho Instagram Reminder Ads nhằm mục tiêu đơn giản hoá quá trình tạo quảng cáo và thúc đẩy hiệu suất.

Instagram Reminder Ads ra mắt tính năng quảng cáo mới
Instagram Reminder Ads ra mắt tính năng quảng cáo mới

Instagram Reminder Ads hay Quảng cáo nhắc nhở trên Instagram đang triển khai các tính năng quảng cáo mới giúp nhà quảng cáo tiếp cận nhiều đối tượng hơn:

  • Khả năng hiển thị trên Instagram Stories: Quảng cáo nhắc nhở hiện có thể được hiển thị trong Instagram Stories, cho phép các doanh nghiệp tăng cường khả năng hiển thị và nâng cao hiệu quả quảng cáo.
  • Thiết lập từ Trình quản lý quảng cáo (Ads Manager): Giờ đây, nhà quảng cáo có thể tạo quảng cáo nhắc nhở trực tiếp trong Trình quản lý quảng cáo, thay vì như trước đây là chỉ được quảng cáo từ các bài đăng tự nhiên có sẵn.

Về tổng thể, việc mở rộng phạm vi tiếp cận tới nhiều khách hàng tiềm năng hơn có thể giúp thương hiệu nâng cao nhận diện thương hiệu (Brand Awareness), dẫn đến nhiều chuyển đổi hơn và lợi tức đầu tư (ROI) cao tốt.

Instagram Reminder Ads hay Quảng cáo nhắc nhở trên Instagram là gì?

Instagram Reminder Ads là một sản phẩm quảng cáo của Instagram Ads được Instagram ra mắt vào đầu năm 2023.

Instagram Reminder Ads được thiết kế đặc biệt để cho phép các nhà quảng cáo xây dựng độ nhận biết thương hiệu, tăng khả năng tham dự và sự quan tâm đến các lần ra mắt, sự kiện hay các khoảnh khắc đặc biệt của thương hiệu.

Instagram Reminder Ads hay Quảng cáo nhắc nhở trên Instagram cung cấp cho người dùng tùy chọn đăng ký nhận thông báo về các sự kiện mà họ quan tâm.

Theo chia sẻ từ chính mạng xã hội Instagram:

  • “Mọi người đến Instagram để khám phá các thương hiệu, sản phẩm mới hoặc sự kiện sắp diễn ra.”
  • “[Vì vậy, chúng tôi đã giới thiệu Quảng cáo nhắc nhở] với mục tiêu cung cấp cho doanh nghiệp nhiều cách hơn để được mọi người khám phá và hình thành nên các kết nối có ý nghĩa.”

Bạn có thể xem chi tiết về tính năng quảng cáo mới tại đây.

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer

Nam Nguyen | MarketingTrips

HyperOS: Xiaomi tự làm hệ điều hành di động riêng

HyperOS là nỗ lực của Xiaomi nhằm tạo ra hệ thống duy nhất hoạt động trên cả smartphone lẫn thiết bị IoT, tương tự HarmonyOS của Huawei.

HyperOS: Xiaomi tự làm hệ điều hành di động
HyperOS: Xiaomi tự làm hệ điều hành di động

Xiaomi mô tả HyperOS, được công bố cuối tuần qua, là sự kết hợp giữa “hệ thống Android tùy biến ở mức cao” kết hợp nền tảng IoT Vela độc quyền được giới thiệu cách đây ba năm.

Mục tiêu của nền tảng mới là hỗ trợ một loạt thiết bị thông minh từ smartphone, máy tính bảng, smartband, smartwatch cho đến loa, thiết bị gia dụng cũng như các sản phẩm có gắn cảm biến và kết nối Internet khác.

Cũng theo Xiaomi, HyperOS là hệ điều hành “lấy con người làm trung tâm” với nỗ lực “đưa danh mục sản phẩm rộng lớn và đang mở rộng về dưới mái nhà chung là một hệ điều hành duy nhất, giúp quản lý tập trung và dễ dàng hơn”.

Công ty cho biết HyperOS sẽ được cài đặt đầu tiên trên dòng điện thoại Xiaomi 14 mới ra mắt tại Trung Quốc, cũng như smartwatch và TV.

Trước Xiaomi, Huawei đã phát triển hệ điều hành nội địa để tránh phụ thuộc vào Android của Google. Công ty giới thiệu HarmonyOS vào tháng 8/2019, 3 tháng sau khi bị Mỹ đưa vào Danh sách thực thể. Nền tảng được phát triển dựa trên mã nguồn mở, không tích hợp các dịch vụ của Google.

Huawei đang chuẩn bị cho một nước đi táo bạo hơn với HarmonyOS Next, dự kiến ra mắt năm tới. Đây được đánh giá là nỗ lực lớn nhất của hãng trong việc cắt đứt hoàn toàn với hệ sinh thái của Google bằng cách loại bỏ hỗ trợ các ứng dụng Android.

Hiện Huawei vẫn cho phép ứng dụng Android chạy trên thiết bị HarmonyOS – cách để “xoa dịu cú sốc” và níu chân người dùng sau khi bị Mỹ cấm vận. Trong lúc đó, hãng âm thầm chuẩn bị cho chặng đường mới.

“HarmonyOS trải qua bốn năm khó khăn. Nhìn lại, quả thực là thuyền nhẹ vượt qua muôn trùng núi non”, Richard Yu Chengdong, đứng đầu mảng kinh doanh tiêu dùng của Huawei, dẫn một câu thơ nổi tiếng của nhà thơ Lý Bạch trong sự kiện hồi tháng 9.

Theo công bố của Huawei, hiện có 700 triệu thiết bị chạy HarmonyOS với hơn 2,2 triệu nhà phát triển tạo ứng dụng cho nền tảng. Trong khi đó, theo dữ liệu từ StatCounter, Android chiếm 70% thị phần hệ điều hành di động toàn cầu tháng 9, còn HarmonyOS có thị phần không đáng kể.

Ngoài Huawei và Xiaomi, các nhà sản xuất smartphone Trung Quốc vẫn tiếp tục xây dựng nền tảng tùy chỉnh dựa trên Android. Chẳng hạn, Oppo có ColorOS, Vivo có OriginOS. Smartphone Xiaomi hiện cũng chạy MIUI dựa trên Android nguồn mở.

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer

Nam Nguyen | MarketingTrips

[Framework] Mô hình chiến lược Marketing Mix cho ngành FMCG

Cùng khám phá cách xây dựng mô hình chiến lược Marketing Mix (Tiếp thị hỗn hợp) cho các thương hiệu trong ngành hàng FMCG (hàng tiêu dùng nhanh).

Marketing Mix cho FMCG
Mô hình chiến lược Marketing Mix cho ngành FMCG

Để thâm nhập và cạnh tranh ở bất kỳ thị trường nào, điều căn bản là người làm marketing phải am hiểu toàn bộ chuỗi giá trị của thị trường đó dưới góc nhìn của khách hàng, bạn có thể tìm hiểu bằng cách trả lời câu hỏi:

“Ở thị trường này, khách hàng quan tâm đến điều gì trong quá trình mua hàng?”. Từ nền tảng này, marketer mới có thể thiết kế các loại hình giá trị của thương hiệu cho khách hàng (có trong Marketing Mix), thứ tác động trực tiếp đến tâm lý và hành vi khách hàng.

Mô hình chiến lược Marketing Mix hay nói cụ thể hơn là chuỗi giá trị của ngành hàng tiêu dùng nhanh (FMCG) xoay quanh 9 yếu tố quan trọng, và đây cũng là cơ sở để các thương hiệu xây dựng chi tiết chiến lược Marketing Mix.

1. Định vị thương hiệu – Brand Positioning.

Định vị thương hiệu là giai đoạn mà người làm marketing gieo vào tâm trí khách hàng về giải pháp thương hiệu cho các nhu cầu quan trọng của họ (ví dụ, Heineken là bia sang, dành tiếp khách quý, tặng đối tác quan trọng, đãi đám cưới sang, thưởng thức vào dịp đặc biệt như xem giải bóng đá Ngoại Hạng Anh, nghe nhạc trong bar).

2 và 3. Chiến lược giá và danh mục sản phẩm – Portfolio & Pricing.

Đa dạng mẫu mã sản phẩm để khách hàng thoải mái chọn lựa trong bối cảnh gắn liền với chiến lược giá thành tương ứng với giá trị cảm nhận (ví dụ, Colgate ngừa sâu răng giá rẻ dành cho gia đình, Colgate Optic White làm trắng răng thẩm mỹ được định giá cao hơn).

4. Sản Phẩm – Product.

Sản phẩm đóng vai trò vô cùng quan trọng quyết định sự thành công của marketing. Sản phẩm phải đạt chất lượng phù hợp với nhu cầu tiêu dùng và trải nghiệm.

5. Bao Bì – Packaging.

Là khi marketer thuyết phục khách hàng tin vào chất lượng sản phẩm ở giai đoạn mua hàng trên quầy kệ. Ngoài ra, bao bì còn giúp tạo ra các trải nghiệm thuận tiện (chai nước giặt Ariel có nắp để đong), hoặc thú vị trong suốt quá trình sử dụng (kiểu dáng, hoa văn của chai rượu Chivas đầy nghệ thuật tạo cảm hứng khi rót để thưởng thức).

6. Cải Tiến và Đổi Mới – Innovation & Renovation.

Thương hiệu cần tạo ra nhiều sản phẩm mới để thỏa mãn đa dạng nhu cầu khách hàng, đồng thời làm mới mẻ, kích thích sự hứng thú của khách hàng cho những dòng sản phẩm hiện tại.

7. Thiết kế kênh Phân Phối (Online và Offline) – Distribution.

Xây dựng hệ thống để hàng hóa đi từ nhà máy đến cửa hàng bán lẻ, nhằm đảm bảo đủ chủng loại hàng hóa ở những cửa hàng bán lẻ mà các tập Shopper (người mua sắm) hay lui tới trải nghiệm mua sắm.

8. Các Hoạt Động Bán Lẻ – Channel Activities.

Nằm trong phạm vi Marketing Mix, các hoạt động bán lẻ thường được tổ chức định kỳ như khuyến mại, trưng bày, hoạt náo, livestream, quảng cáo, game… để tác động đến tâm lý và kích thích mua hàng ở cửa hàng bán lẻ Online và Offline.

9. Truyền Thông – Communications.

Truyền thông là quá trình giúp khách hàng mục tiêu hiểu được thông điệp sản phẩm phù hợp với nhu cầu của họ ra sao, khơi gợi nhu cầu mua sắm ngẫu hứng, đồng thời truyền cảm hứng về các giá trị nhân văn, tốt đẹp do thương hiệu tạo ra và có tác động tích cực đến các khía cạnh xã hội.

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer

Hà Anh  | MarketingTrips   

GDP là gì? Cách tính và ý nghĩa của chỉ số GDP trong Kinh tế

Trong phạm vi bài viết này, hãy cùng MarketingTrips tìm hiểu tất cả các thông tin nền tảng quan trọng cần biết về thuật ngữ GDP (GDP là từ viết tắt của Gross Domestic Product) như: GDP là gì, thấu hiểu chỉ số GDP trong bối cảnh kinh tế, công thức tính GDP, phân biệt GDP với GNP và GNI, phân loại GDP, cách sử dụng dữ liệu GDP (Tổng sản phẩm quốc dân) để đo lường sức khoẻ của một quốc gia, và nhiều nội dung liên quan khác.

GDP là gì
GDP là gì? Khái niệm và công thức tính GDP (Gross Domestic Product).

Dù bạn có phải là một người làm việc trong chính phủ, các tổ chức nhà nước, tại doanh nghiệp hay thậm chí là làm việc trong lĩnh vực kinh tế hay không, việc có được các kiến thức nền tảng về kinh tế vĩ mô là vô cùng cần thiết. Khi các chỉ số như GDP (Gross Domestic Product) có thể giúp bạn tính toán và xác định về sức khoẻ hay độ lớn của một quốc gia, có được những sự hiểu biết về thuật ngữ này là vô cùng hữu ích.

GDP là gì?

GDP là từ viết tắt từ chữ tiếng Anh Gross Domestic Product trong tiếng Việt có nghĩa là tổng sản phẩm quốc dân hoặc tổng sản phẩm nội địa.

GDP là tổng giá trị tiền tệ hoặc thị trường của tất cả các sản phẩm là dịch vụ và hàng hoá thành phẩm được sản xuất trong biên giới của một quốc gia trong một khoảng thời gian cụ thể.

GDP là một thước đo tổng thể về dung lượng sản xuất trong nước, nó có chức năng như là một điểm đánh giá toàn diện về sức khỏe kinh tế hay vị thế kinh tế của một quốc gia nhất định.

Mặc dù chỉ số GDP thường được tính theo năm nhưng đôi khi nó cũng được tính theo quý tuỳ vào từng quốc gia ở từng thời điểm khác nhau.

Ví dụ, ở Việt Nam, GDP thường được tính theo năm tuy nhiên vẫn có thể chia nhỏ theo quý để phục vụ cho một mục đích đặc biệt nào đó.

Thấu hiểu khái niệm GDP (Gross Domestic Product).

  • GDP là giá trị tính bằng đơn vị tiền tệ của tất cả các sản phẩm là hàng hóa thành phẩm và dịch vụ được sản xuất trong một quốc gia trong một khoảng thời gian cụ thể.
  • GDP cung cấp một bức tranh tổng thể về tiềm lực kinh tế của một quốc gia hay nói cách khác là mức độ giàu có ở cấp độ quốc gia nói chung.
  • GDP có thể được tính theo ba cách, sử dụng theo mức chi tiêu, sản xuất hoặc thu nhập. GDP có thể được đối sánh theo lạm phát và dân số để có được những góc nhìn khách quan và chính xác hơn.
  • Trong khi GDP thực (Real GDP) có tính đến ảnh hưởng của lạm phát (Inflation), GDP danh nghĩa (nominal GDP) thì không.
  • Mặc dù cũng có những điểm hạn chế nhất định, chỉ số GDP vẫn là công cụ quan trọng để các chính phủ hay người làm chính sách dựa vào để đưa ra phương án hành động. Nhà đầu tư và doanh nghiệp cũng sử dụng chỉ số GDP để ra quyết định chiến lược.

Một số lưu ý quan trọng cần hiểu về chỉ số GDP.

Việc tính toán chỉ số hay dữ liệu GDP của một quốc gia bao gồm tất cả các chỉ số tiêu dùng cá nhân và công cộng, chi tiêu của chính phủ, đầu tư, các chi phí xây dựng và cán cân thương mại nước ngoài.

Trong khi dữ liệu xuất khẩu (sang các quốc gia khác) được cộng vào giá trị của GDP, dữ liệu nhập khẩu thì được trừ đi vì nó không được sản xuất trên lãnh thổ của chính quốc gia đang tính toán.

Trong tất cả các thành phần tạo nên chỉ số GDP của một quốc gia, cán cân thương mại nước ngoài hay còn được gọi là cán cân ngoại thương (FBT) là đặc biệt quan trọng.

Về tổng thể, GDP của một quốc gia có xu hướng tăng khi tổng giá trị hàng hóa và dịch vụ mà các nhà sản xuất trong nước bán ra nước ngoài vượt quá tổng giá trị hàng hóa và dịch vụ của nước ngoài mà người tiêu dùng (doanh nghiệp) trong nước mua hay nhập vào.

Khi tình huống này xảy ra, một quốc gia được cho là có thặng dư thương mại hay còn được gọi với một cái tên khác đó là xuất siêu (xuất khẩu cao hơn nhập khẩu).

Trong tình huống ngược lại – tức là nếu số tiền mà người tiêu dùng trong nước chi cho hàng hóa nước ngoài lớn hơn tổng số tiền mà nhà sản xuất trong nước có thể bán cho người tiêu dùng nước ngoài – thì đó được gọi là thâm hụt thương mại. Trong tình huống này, GDP của một quốc gia có xu hướng giảm.

Một quốc gia “khoẻ mạnh” là quốc gia xuất siêu và có thặng dư thương mại cao.

GDP có thể được tính toán trên cơ sở danh nghĩa hoặc thực tế, tính toán dựa trên thực tế tức là có tính đến yếu tố lạm phát.

Về bản chất, vì có thể phản ánh được những gì thực tế đang diễn ra, GDP tính theo cơ sở thực tế là một phương pháp chính xác.

Giả sử một quốc gia có GDP danh nghĩa là 100 tỷ USD vào năm 2012. Đến năm 2022, GDP danh nghĩa của quốc gia đó đã tăng lên thành 150 tỷ USD. Chỉ số giá cả cũng tăng 100% trong cùng thời gian.

Trong ví dụ này, nếu bạn chỉ nhìn vào GDP danh nghĩa (nominal GDP,) thì nền kinh tế của quốc gia này dường như đang rất khoẻ.

Tuy nhiên, vì GDP thực tế (tính theo tỷ giá USD năm 2012) sẽ chỉ là 75 tỷ USD, nó lại không được “khoẻ” như bạn nghĩ.

Các loại chỉ số GDP phổ biến trên thế giới (và tại Việt Nam).

Trên thực tế, chỉ số GDP được tính toán theo rất nhiều cách khác nhau tuỳ theo từng cách phân loại khác nhau. Mỗi cách tính GDP đều mang những ý nghĩa thú vị khác nhau.

Đươi đây là các loại chỉ số GDP phổ biến nhất.

GDP danh nghĩa.

GDP danh nghĩa là chỉ số GDP được sử dụng để đánh giá về tình hình sản xuất kinh tế trong một nền kinh tế bao gồm các mức giá hiện hành. Nói cách khác, GDP danh nghĩa không loại bỏ yếu tố lạm phát hoặc sự biến động về giá tiêu dùng (CPI), những yếu tố có thể làm thay đổi chỉ số GDP nói chung.

Tất cả các sản phẩm là hàng hóa và dịch vụ được tính trong GDP danh nghĩa đều được định giá theo giá mà những hàng hóa và dịch vụ đó thực sự được bán trong năm đó.

GDP danh nghĩa thường được sử dụng khi so sánh các quý sản lượng khác nhau trong cùng một năm. Khi so sánh GDP từ hai năm trở lên, GDP thực tế lại được sử dụng thay thế.

GDP thực tế.

Ngược lại với GDP danh nghĩa, GDP thực tế (Real GDP) là thước đo được điều chỉnh theo chỉ số lạm phát, phản ánh chính xác số lượng hàng hóa và dịch vụ được sản xuất bởi một nền kinh tế trong một năm nhất định, với giá cả không đổi từ năm này sang năm khác để tách biệt tác động của lạm phát hoặc giảm phát (Deflation).

Giá cả tăng có xu hướng làm tăng GDP của một quốc gia, nhưng điều này không nhất thiết phản ánh bất kỳ thay đổi nào về số lượng hoặc chất lượng hàng hóa và dịch vụ được sản xuất bởi quốc gia đó. Do đó, nếu chỉ nhìn vào GDP danh nghĩa của một nền kinh tế, bạn có thể khó biết được liệu con số này tăng lên do sự mở rộng sản xuất thực tế hay đơn giản là do giá cả tăng cao.

GDP thực tế được tính bằng cách sử dụng chỉ số giảm phát giá GDP (GDP Price Deflator), là mức chênh lệch giá giữa năm hiện tại và năm cơ sở được tính toán.

Ví dụ: nếu giá tăng 5% kể từ năm cơ sở thì hệ số giảm phát sẽ là 1,05. GDP danh nghĩa thì được chia cho chỉ số giảm phát này. GDP danh nghĩa thường cao hơn GDP thực tế vì lạm phát thường là số dương.

GDP thực tế cũng tính đến những thay đổi trong yếu tố giá trị thị trường (market value) và do đó nó có thể làm thu hẹp sự khác biệt giữa các số liệu sản lượng từ năm này sang năm khác. Nếu có sự chênh lệch lớn giữa GDP thực tế và GDP danh nghĩa của một quốc gia thì đây có thể là dấu hiệu của lạm phát hoặc giảm phát trong thời kỳ tính toán.

GDP bình quân đầu người (GDP Per Capita).

GDP bình quân đầu người hay còn được gọi là thu nhập bình quân đầu người là thước đo GDP tính bình quân trên từng đầu người trong tổng lượng dân số của một quốc gia. GDP bình quân đầu người có thể biểu thị năng suất trung bình hoặc mức sống trung bình của người dân trên một quốc gia nhất định.

GDP bình quân đầu người có thể được biểu thị theo danh nghĩa hoặc thực tế (đã điều chỉnh theo lạm phát) hoặc ngang giá sức mua (PPP).

Theo cách giải thích cơ bản, GDP bình quân đầu người cho thấy giá trị sản xuất kinh tế có thể được phân bổ cho mỗi cá nhân là bao nhiêu.

Vì GDP bình quân đầu người được tính từ GDP tổng của một quốc gia và dân số của quốc gia đó, điều quan trọng là phải hiểu mỗi yếu tố đóng góp như thế nào vào kết quả chung và nó giúp phản ánh điều gì về sức khoẻ của nền kinh tế.

Ví dụ: nếu GDP bình quân đầu người của một quốc gia đang tăng lên với mức dân số ổn định, thì đó có thể là kết quả của những tiến bộ công nghệ đang tạo ra nhiều sản phẩm hơn với cùng mức dân số tương ứng.

Một số quốc gia có thể có GDP bình quân đầu người cao nhưng dân số thấp, điều này thường có nghĩa là họ đã xây dựng được một nền kinh tế tự chủ (tự cung tự cấp) dựa trên nguồn lực đặc biệt dồi dào.

Công thức tính chỉ số GDP.

Như đã phân tích ở trên, GDP có thể được xác định thông qua ba phương pháp chính là tính theo mức chi tiêu, theo sản xuất (đầu ra) và theo thu nhập. Cả ba phương pháp đều cùng mang lại một chỉ số cuối cùng giống nhau.

Theo đó công thức được sử dụng để tính toán chỉ số GDP là:

GDP (Gross Domestic Product) = C + G + I + NX

Trong đó, C là mức tiêu dùng, G là mức chi tiêu của chính phủ, I là mức đầu tư, và cuối cùng NX là chỉ số xuất khẩu ròng.

Phân biệt chỉ số GDP với GNP và GNI.

Mặc dù GDP là thước đo được sử dụng rộng rãi để đánh giá mức độ quy mô hay sức khoẻ kinh tế của một quốc gia, vẫn có nhiều cách khác để đo lường tốc độ tăng trưởng kinh tế của một quốc gia.

Trong khi GDP (Tổng sản phẩm quốc dân) đo lường hoạt động kinh tế trong phạm vi biên giới vật lý của một quốc gia (cho dù nhà sản xuất là người bản địa ở quốc gia đó hay các tổ chức thuộc sở hữu nước ngoài), thì GNP (Tổng sản phẩm quốc nội) là thước đo tổng sản lượng hàng hoá và dịch vụ được tạo ra chỉ bởi các cá nhân và tổ chức trong nước, bao gồm cả những tổ chức (và cá nhân) có trụ sở ở nước ngoài nhưng thuộc quốc gia đang tính toán.

GNP không bao gồm sản lượng được sản xuất bởi các cá nhân hoặc tổ chức nước ngoài, dù các hàng hoá và dịch vụ được tạo ra trên chính lãnh thổ của quốc gia đang tính toán.

GNI (Tổng thu nhập quốc nội) là một thước đo khác của tăng trưởng kinh tế. Nó là tổng của tất cả các khoản thu nhập mà toàn bộ công dân của một quốc gia kiếm được (bất kể hoạt động kiếm tiền được diễn ra trong nước hay nước ngoài).

Mối quan hệ giữa GNP và GNI tương tự như mối quan hệ giữa phương pháp sản xuất (sản lượng) và phương pháp thu nhập được sử dụng để tính GDP.

GNP sử dụng phương pháp sản xuất, trong khi GNI sử dụng phương pháp thu nhập. Với GNI, thu nhập của một quốc gia được tính bằng thu nhập trong nước cộng với thuế kinh doanh gián tiếp và khấu hao.

Con số thu nhập ròng từ yếu tố nước ngoài được tính bằng cách trừ tất cả các khoản thanh toán cho các công ty và cá nhân nước ngoài khỏi tất cả các khoản thanh toán cho các doanh nghiệp trong nước.

Trong nền kinh tế ngày càng toàn cầu hóa, GNI được coi là thước đo tốt hơn cho sức khỏe tổng thể của nền kinh tế so với GDP. Bởi vì một số quốc gia có phần lớn thu nhập được các tổ chức và cá nhân nước ngoài rút ra nước ngoài nên con số GDP của họ cao hơn nhiều so với con số thể hiện qua GNI.

Ví dụ, vào năm 2019, Luxembourg có sự chênh lệch đáng kể giữa GDP và GNI, chủ yếu là do các khoản thanh toán lớn được thực hiện cho phần còn lại của thế giới thông qua các tập đoàn nước ngoài kinh doanh tại Luxembourg.

GDP của Mỹ hiện là khoảng 26,80 nghìn tỷ USD tính đến quý 2 năm 2023 trong khi GNI của nước này là khoảng 25,84 nghìn tỷ USD vào cuối năm 2022.

Cách sử dụng dữ liệu GDP.

Hầu hết các quốc gia đều công bố dữ liệu GDP hàng tháng và hàng quý. Tại Việt Nam, Tổng cục Thống kê là cơ quan chịu trách nhiệm soạn thảo và công bố chỉ số này.

Chỉ tiêu GDP của Việt Nam hàng quý, năm được biên soạn theo 2 phương pháp, từ góc độ sản xuất gọi là phương pháp sản xuất và từ góc độ sử dụng gọi là phương pháp sử dụng. Hai phương pháp này dựa vào hoạt động sản xuất và hành vi tiêu dùng của các chủ thể của toàn bộ nền kinh tế. Đây là cách làm khoa học, vừa đảm bảo xem xét được đầy đủ hoạt động sản xuất và hành vi tiêu dùng cũng như vừa có thể so sánh, đối chiếu để đánh giá tính chính xác của từng phương pháp, bổ trợ thông tin để kiểm tra chéo về chuỗi các hoạt động sản xuất – tiêu dùng các sản phẩm hàng hóa và dịch vụ được sản xuất ra trong nền kinh tế trong một khoảng thời gian nhất định.

Theo phương pháp sản xuất, kết quả sản xuất của các ngành kinh tế của cả nước tạo ra trong quý được tiếp cận từ các đơn vị sản xuất gồm: Doanh nghiệp, tập đoàn, tổng công ty, hộ sản xuất nông, lâm thủy sản, cơ sở kinh doanh cá thể phi nông lâm thủy sản, các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị – xã hội, các đơn vị sự nghiệp… qua các chỉ tiêu về doanh thu, chi phí, sản lượng, diện tích… từ các nguồn gồm: Điều tra thống kê, chế độ báo cáo thống kê quốc gia, hồ sơ hành chính…

Theo phương pháp sử dụng, GDP được tính toán dựa vào tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ; số liệu về thu, chi ngân sách Nhà nước (từ Bộ tài chính); trị giá xuất, nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ (số liệu từ Tổng cục Hải quan); kết quả hoạt động xây dựng, nhập khẩu máy móc thiết bị và từ kết quả nhiều cuộc điều tra khác…

GDP thực tế là chỉ số nói lên nhiều nhất về sức khỏe của nền kinh tế. Nó được theo dõi và thảo luận rộng rãi bởi các nhà kinh tế, nhà phân tích, nhà đầu tư, nhà hoạch định chính sách hay cả từ các lãnh đạo doanh nghiệp.

Kết luận.

Trên đây là tất cả các giải đáp về những kiến thức liên quan cho câu hỏi GDP là gì cũng như cách tính toán và sử dụng dữ liệu GDP để đánh giá sức khoẻ của một quốc gia. Hy vọng với các thông tin có được giờ đây bạn đã có thể bắt đầu tìm hiểu các kiến thức nền tảng khác về kinh tế vĩ mô, kinh tế vi mô và hơn thế nữa một cách dễ dàng hơn.

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer

Nam Nguyen | MarketingTrips

Facebook và Instagram bắt đầu cung cấp gói trả phí tại châu Âu

Sau một khoảng thời gian nghiên cứu và cân nhắc, Facebook và Instagram hiện đã chính thức cung cấp gói đăng ký có trả phí (paid subscriptions) tại châu Âu.

Facebook và Instagram bắt đầu cung cấp gói trả phí tại châu Âu
Facebook và Instagram bắt đầu cung cấp gói trả phí tại châu Âu

Meta vừa thông báo rằng InstagramFacebook sẽ bắt đầu cung cấp các gói đăng ký có trả phí cho người dùng tại châu Âu.

Những người đăng ký sẽ không bị sử dụng thông tin cá nhân để nhắm mục tiêu quảng cáo (ad targeting), trong khi những người dùng sử dụng miễn phí vẫn sẽ bị hệ thống quảng cáo của Meta khai thác dữ liệu.

Người dùng có thể sẽ phải trả từ 10 USD đến 14 USD mỗi tháng, tùy thuộc vào việc họ muốn đăng ký qua web hay ứng dụng điện thoại thông minh (app).

Động thái này diễn ra trong bối cảnh khi Meta phải đối mặt với phản ứng dữ dội từ các cơ quan quản lý, nhà lập pháp và tòa án của khối gồm 27 quốc gia về cách Meta xử lý dữ liệu của người dùng để phục vụ các quảng cáo được cá nhân hóa.

Chính sách bảo mật của EU đã khiến các công ty công ty hay nền tảng mạng xã hội ngày càng gặp khó khăn trong việc thu thập thông tin cá nhân của người dùng.

Meta cũng cho biết nền tảng sẽ tạm dừng tất cả các quảng cáo hiển thị cho trẻ vị thành niên ở EU, EEA và Thụy Sĩ bắt đầu ngay từ ngày 6 tháng 11.

Việc tạm dừng quảng cáo diễn ra trong bối cảnh các chính sách pháp lý chưa rõ ràng trong việc cho phép các nền tảng sử dụng dữ liệu trẻ vị thành niên để khai thác quảng cáo.

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer

Hà Anh  | MarketingTrips