Anthropic là startup do chính các cựu giám đốc điều hành của OpenAI sáng lập. Startup đã thu hút vốn đầu tư của nhiều hãng công nghệ bao gồm Google, Amazon, Zoom.
Đây là startup AI mới sau OpenAI đang được Google hay Amazon đầu tư vào
Google đã đồng ý đầu tư tới 2 tỷ USD vào Anthropic, công ty khởi nghiệp về trí tuệ nhân tạo được thành lập bởi các cựu giám đốc điều hành OpenAI.
Theo hãng tin CNBC, người phát ngôn của Anthropic cho biết cam kết này bao gồm khoản tiền mặt trả trước 500 triệu USD và thêm 1,5 tỷ USD sẽ được đầu tư theo thời gian. Hiện tại Google chưa đưa ra bình luận gì về thông tin này.
Anthropic là nhà phát triển của Claude 2, một chatbot đối thủ với ChatGPT của OpenAI được các công ty bao gồm Slack, Notion và Quora sử dụng. Công ty được thành lập vào năm 2021 và ngoài Google, còn nhận được tài trợ từ Salesforce và Zoom và được định giá vào đầu năm nay là 4,1 tỷ USD.
Claude 2 có khả năng tóm tắt lên tới khoảng 75.000 từ, có thể bằng độ dài của một cuốn sách. Người dùng có thể nhập các tập dữ liệu lớn và yêu cầu tóm tắt dưới dạng bản ghi nhớ, thư hoặc câu chuyện. Ngược lại, ChatGPT có thể xử lý khoảng 3.000 từ.
Nghiên cứu của Arthur AI, một nền tảng giám sát máy học, cho thấy Claude 2 là chatbot đáng tin cậy nhất về mặt “tự nhận thức”, nghĩa là đánh giá chính xác những gì nó biết và không biết, đồng thời chỉ trả lời những câu hỏi mà nó có dữ liệu đào tạo để hỗ trợ. Arthur AI đã thử nghiệm chatbot từ Meta, Cohere và OpenAI.
Vào tháng 4, Google đã đầu tư 300 triệu USD vào công ty, nắm giữ 10% cổ phần. Cùng tháng đó, Anthropic là một trong bốn công ty được mời tham dự cuộc họp tại Nhà Trắng để thảo luận về việc phát triển AI có trách nhiệm với Phó Chủ tịch Kamala Harris.
Ngoài ra, Alphabet, công ty mẹ của Google, Microsoft và OpenAI là những đại diện đã tham dự cuộc họp này.
Amazon.com cũng cho biết họ sẽ đầu tư tới 4 tỷ USD vào Anthropic để cạnh tranh với các đối thủ đám mây đang phát triển về AI.
Trong báo cáo hàng quý của Amazon gửi Ủy ban Chứng khoán và Giao dịch Hoa Kỳ, nhà bán lẻ trực tuyến nêu chi tiết rằng họ đã đầu tư vào một trái phiếu trị giá 1,25 tỷ USD từ Anthropic có thể chuyển đổi thành vốn chủ sở hữu, trong khi khả năng đầu tư lên tới 2,75 tỷ USD trong trái phiếu thứ hai sẽ hết hạn vào quý đầu tiên của năm 2024.
Ngoài ra còn có các nhà đầu tư chính khác như Salesforce và Zoom.
Anthropic nhanh chóng huy động được 450 triệu USD vào tháng 5. Vào thời điểm đó, startup đánh dấu vòng cấp vốn lớn nhất cho một công ty AI kể từ khi Microsoft đầu tư vào OpenAI vào tháng 1, theo dữ liệu của PitchBook.
THỎA THUẬN MỚI VỚI GOOGLE LÀ VÍ DỤ VỀ SỰ THÈM MUỐN VÔ ĐỘ CỦA BIG TECH VỀ AI TỔNG QUÁT.
Tất nhiên, các thương vụ đầu tư vào Anthropic vẫn thua khá xa so với khoản đầu tư khổng lồ 10 tỷ USD từ Microsoft vào OpenAI hồi tháng 1.
Nhưng số lượng các nhà đầu tư là những công ty công nghệ lớn quan tâm đến Anthropic ngày càng tăng cho thấy các công ty đám mây đang liên tục điều động để đảm bảo mối quan hệ với các công ty khởi nghiệp AI.
Anthropic được thành lập bởi Dario Amodei, cựu phó chủ tịch nghiên cứu của OpenAI và chị gái ông, Daniela Amodei, phó chủ tịch chính sách và an toàn của OpenAI. Một số cựu sinh viên nghiên cứu OpenAI khác cũng thuộc nhóm sáng lập Anthropic.
Anthropic đã đầu tư ít nhất hai tháng để phát triển chatbot mới nhất của mình, với một nhóm từ 30 đến 35 người làm việc trực tiếp trên mô hình AI và tổng cộng 150 người hỗ trợ nó. Cô cho biết thị trường đang phát triển nhanh đến mức có rất nhiều cơ hội cho nhiều người chơi thành công.
Amodei cho biết vào thời điểm đó: “Đây là thời điểm thực sự bất thường từ góc độ kinh doanh bởi vì có rất nhiều nhu cầu về các mô hình ngôn ngữ lớn (ví dụ PaLM 2 hay Llama 2) và thực sự nhiều hơn nhu cầu mà ngành hiện có thể cung cấp”.
Thỏa thuận mới với Google là một ví dụ khác về sự thèm muốn vô độ của các công nghệ lớn khi nói đến AI có khả năng sáng tạo. Microsoft, Google, Amazon, Nvidia, Salesforce và những công ty khác đều đã đầu tư hàng tỷ đô la vào các công ty khởi nghiệp AI – trực tiếp từ công ty hoặc thông qua các chi nhánh quỹ đầu tư tương ứng của họ.
Điều đó khó có thể dừng lại sớm khi cuộc chiến AI tổng quát tiếp tục nóng lên.
Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer
Google vừa thông báo đã chính thức hoàn tất việc chuyển trọng tâm của quá trình thu thập và cập nhật dữ liệu từ máy tính để bàn sang thiết bị di động (mobile-first crawling and indexing).
Google hoàn tất việc chuyển trọng tâm sang thiết bị di động
Cụ thể, sau nhiều năm xây dựng và ấp ủ, Google đã chuyển đổi hoàn toàn sang việc ưu tiên lập chỉ mục trên thiết bị di động. Điều này có nghĩa là Google sẽ ưu tiên cho các phiên bản web trên thiết bị di động khi thu thập dữ liệu trang và lập chỉ mục nội dung.
Kể từ năm 2015, Google chính thức bắt đầu tập trung ưu tiên cho các trải nghiệm của người dùng trên thiết bị di động. Vào thời điểm đó, Google đã cập nhật thuật toán tìm kiếm của nền tảng với mục tiêu ưu tiên cho các trang web “thân thiện với thiết bị di động” (mobile-friendly).
Theo chia sẻ của Google:
“Trong những năm qua, lưu lượng truy cập web (web traffic) trên thiết bị di động tiếp tục gia tăng; ở một số vùng, mọi người hầu như chỉ sử dụng điện thoại để truy cập internet.
Cảm ơn bạn – chủ sở hữu các trang web, người làm SEO, nhà phát triển web, nhà thiết kế và tất cả những người khác đã làm việc trên trang web – đã giúp tạo nên sự thành công lớn cho các website di động.”
Ưu tiên lập chỉ mục cho thiết bị di động giúp mang lại những trải nghiệm người dùng tốt hơn.
Với việc thiết bị di động hiện đã vượt qua máy tính để bàn về mức độ sử dụng Internet trên toàn cầu, việc ưu tiên thu thập và lập chỉ mục cho các phiên bản di động sẽ giúp mang lại những trải nghiệm chính xác nhất cho những gì người dùng nhìn thấy khi tìm kiếm trên điện thoại.
Nhiều website trên toàn cầu đã dần thích nghi bằng cách làm cho các trang dành cho thiết bị di động có đầy đủ tính năng như máy tính để bàn.
Google sẽ xử lý các website chỉ dành riêng cho máy tính để bàn.
Google cho biết một số lượng nhỏ các website hiện vẫn không hoạt động bình thường trên thiết bị di động. Đối với các website này, Google sẽ tiếp tục thu thập dữ liệu cho phiên bản dành riêng cho máy tính để bàn.
Những thay đổi liên quan đến Search Console.
Trong một thay đổi liên quan, Google đang xóa các trình lập chỉ mục (indexing crawler) từ trình thu thập thông tin Google Search Console. Về bản chất, tất cả các dữ liệu này sẽ không còn cần thiết nữa vì tất cả các trang đều được thu thập qua thiết bị di động.
Khi quá trình triển khai hoàn tất, Google đã hoàn toàn coi thiết bị di động là phương tiện chính để người dùng truy cập vào website.
Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer
TikTok vừa thông báo tích hợp mới với Salesforce Marketing Cloud của Salesforce với mục tiêu giúp các nhà quảng cáo dễ dàng di chuyển và lưu trữ dữ liệu.
TikTok thông báo tích hợp với Salesforce Marketing Cloud mới
Thông qua tích hợp mới với Salesforce Marketing Cloud, các nhà quảng cáo của TikTok sẽ dễ dàng di chuyển trực tiếp các khách hàng tiềm năng do chiến dịch Marketing của họ tạo ra sang nền tảng Salesforce, cũng từ đây, việc xử lý dữ liệu và insights trở nên dễ dàng hơn nhiều.
Đối với doanh nghiệp sử dụng CRM hay CDP để quản lý và xử lý dữ liệu, việc tích hợp mới này cũng khiến cho quá trình từ thu thập đến phân tích dữ liệu trở nên nhanh chóng và tiện lợi hơn nhiều.
Theo TikTok:
“Tích hợp mới của TikTok với Salesforce Marketing Cloud được thiết kế thân thiện với người dùng và do đó không yêu cầu các kỹ năng nâng cao về kỹ thuật. Các đội nhóm Marketing sẽ có thể thiết lập nó chỉ trong vài phút, cho phép họ tập trung nhiều hơn vào những gì thực sự quan trọng – đó là thu hút, nuôi dưỡng và chuyển đổi khách hàng tiềm năng.”
Thông tin về khách hàng tiềm năng (Lead) sẽ được chuyển đến TikTok theo thời gian thực. Các nhóm bán hàng và marketing cũng sẽ có thể phản hồi tới khách hàng tiềm năng thông qua Salesforce Marketing Cloud.
Tích hợp mới sẽ có sẵn trên AppExchange của Salesforce, trong khi TikTok khuyên các thương hiệu nên liên hệ với các Đại diện của TikTok hoặc Salesforce để được tư vấn và hướng dẫn cách triển khai.
Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer
Trong bối cảnh khi các công cụ AI như ChatGPT, Bard hay Bing AI đang ngày càng làm giảm lượng tìm kiếm trên các công cụ tìm kiếm như của Google, gã khổng lồ tìm kiếm cũng có nhiều thay đổi trong cách tiếp cận, giảm nhân sự mảng hướng dẫn tìm kiếm (Search guidelines) hay có cách tiếp cận mới trong thuật toán nội dung hữu ích của Google là hai trong số đó.
Thuật toán nội dung hữu ích của Google có thực sự “hữu ích”
Trong bối cảnh khi các công cụ AI như ChatGPT, Bard hay Bing AI đang ngày càng làm giảm lượng tìm kiếm trên các công cụ tìm kiếm như của Google, gã khổng lồ tìm kiếm cũng có nhiều thay đổi trong cách tiếp cận, giảm nhân sự mảng hướng dẫn tìm kiếm (Search guidelines) hay có cách tiếp cận mới trong thuật toán nội dung hữu ích là hai trong số đó.
Thuật toán nội dung hữu ích (Google Helpful Content Algorithm) là gì?
Được ra mắt lần đầu năm 2022, thuật toán nội dung hữu ích của Google (Google HelpfulContent) hay Hệ thống nội dung hữu ích của Google được thiết kế để “thưởng” cho các website có chất lượng nội dung tốt, những nội dung được tạo cho người dùng thay vì cho các công cụ tìm kiếm.
Tuy nhiên, thuật toán này vẫn đối diện với nhiều chỉ trích từ phía chủ sở hữu website, cho rằng Google không thể tìm thấy cái gọi là “hữu ích” từ các nội dung trực tuyến.
“Đây là một trò đùa, các nội dung được nghiên cứu kỹ lưỡng, viết tốt, chứa đầy nội dung và hình ảnh gốc nhưng lại không hề được ưu tiên, Google rõ ràng đang buộc các nhà xuất bản phải tạo ra các nội dung rác từ AI (trí tuệ nhân tạo).”
Chủ các website phàn nàn rằng bản cập nhật thuật toán “nội dung hữu ích” mới đây của Google mặc dù được cho là nhằm cải thiện chất lượng kết quả tìm kiếm, tuy nhiên, sự thật là nó đã và đang diễn ra theo một cách khác.
Trong bản cập nhật thuật toán Google Helpful Content tháng 9 mới đây, Google cho biết hệ thống tìm kiếm của Google sẽ không chỉ tiếp tục ưu tiên cho các nội dung hữu ích, được tạo ra cho con người đọc mà còn nới lỏng các hạn chế với những nội dung do các công cụ AI tạo ra.
Mặc dù cái gọi là “hữu ích” vẫn chưa thực sự thể hiện rõ qua cách Google xếp hạng các nội dung trên trang kết quả tìm kiếm (SERPs), quan điểm mới của Google với các nội dung do AI (trí tuệ nhân tạo) tạo ra cũng dấy lên nhiều lo ngại về quyền tác giả, tính xác thực hay cả chất lượng của nội dung.
Cũng theo chính Google, “nội dung hữu ích” thay vì như trước đây là những nội dung “do con người tạo ra và hữu ích cho mọi người” thì giờ đây nó sẽ là “nội dung hữu ích là những nội dung được viết cho mọi người”.
Cũng theo thông báo này, công cụ tìm kiếm sẽ vẫn thúc đẩy các nội dung (content) do AI tạo ra trong trang kết quả tìm kiếm miễn là nó được coi là “có chất lượng cao”.
Với những gì đang diễn ra, nhiều chủ sở hữu website cho biết các nội dung do AI tạo ra đang có kết quả xếp hạng cao hơn các nội dung do con người viết, trong khi những người khác cho biết các nội dung đang có xếp hạng cao lại không thực sự “hữu ích”.
Hàng hoạt các website và thông tin trên các diễn đàn SEO cũng cho biết nội dung do AI tạo ra cũng đã bắt đầu xuất hiện phía trên các nội dung của họ (vốn do người viết).
Trong khi Google thường xuyên cập nhật cho các thuật toán của mình, và các nhà sáng tạo nội dung hay chủ các website vẫn phải “đau đầu” với nó, một số chủ sở hữu trang web khẳng định họ chưa bao giờ thấy sự thay đổi như thế này trước đây.
Nội dung do AI tạo ra và nhiều mối nguy tiềm ẩn.
Theo chia sẻ từ Google: “Thuật toán nội dung hữu ích được thiết kế để hiển thị nhiều nội dung hữu ích hơn trong kết quả tìm kiếm, được tạo ra để trợ giúp hoặc thông báo cho mọi người, các nội dung được tạo ra chỉ để có được vị trí xếp hạng tốt hơn trên Google tìm kiếm sẽ ít được xuất hiện hơn.”
“Chúng tôi không nhắm mục tiêu nội dung được sản xuất bằng bất kỳ phương pháp cụ thể nào – dù là AI hay cách khác – chúng tôi chỉ quan tâm đến chất lượng của một website nhất định và sự hữu ích của nó đối với người đọc.”
Trong khi mục tiêu chính của Google dường như là hạ thấp thứ hạng các website sử dụng lại nội dung hay sắp xếp lại những thông tin đã có sẵn trên môi trường trực tuyến nhằm mục đích xếp hạng cao hơn trong trang kết quả tìm kiếm.
Vấn đề là các mô hình ngôn ngữ lớn (LLMs) như PaLM 2 hay Llama 2, vốn được đào tạo dựa trên khối lượng lớn nội dung được lấy miễn phí từ Internet. Vì vậy, về bản chất, các mô hình AI này đang khéo léo dùng lại những gì đã được xuất bản trước đó. Đó phải là điều mà Google trừng phạt.
Mặc dù vậy, với những gì mà Google đang làm, nó đang được hiểu theo cách ngược lại, Google vẫn ưu tiên cho các nội dung do AI tạo ra miễn là nó “có chất lượng” theo cách hiểu của các thuật toán của Google.
Theo quan điểm của MarketingTrips, rõ ràng là Google vẫn đang sử dụng “chiến lược nước đôi”, một mặt, Google nói rằng nội dung AI vẫn ổn, nhưng mặt khác, lại ưu tiên các nội dung hữu ích và nội dung gốc đồng thời khuyến cáo các website sử dụng các công cụ AI để viết nội dung SEO.
Phát hiện ra các nội dung AI là không thể.
Với những gì đang diễn ra, một vấn đề đối với cả người dùng và Google là, công cụ tìm kiếm hiện tại không thể nhận ra sự khác biệt giữa nội dung do máy tạo ra và do con người tạo ra.
Trong khi Google như đã thông báo là sẽ giảm thứ hạng và trừng phạt các nội dung thiếu tính hữu ích hay kém chất lượng, công cụ tìm kiếm lại chưa thể đưa ra các giải pháp cụ thể về cách họ phát hiện và phân biệt các nội dung AI.
Mặc dù lợi ích do các công nghệ AI tạo ra là quá rõ ràng, việc ứng dụng nó ra sao vào các bối cảnh cụ thể vẫn còn là một bài toán khó chưa có lời giải đáp.
Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer
Một vụ phá sản của WeWork sẽ là cú đảo ngược gây sửng sốt về vận may của công ty từng được định giá 47 tỷ USD trong một vòng gọi vốn tư nhân vào năm 2019.
Startup từng được định giá đến 47 tỷ USD chuẩn bị nộp đơn xin phá sản
WeWork dự kiến nộp đơn xin bảo hộ phá sản ngay vào tuần tới – tờ Wall Street Journal dẫn nguồn thạo tin cho hay – trong bối cảnh startup “kỳ lân” đình đám một thời chật vật xoay sở với khối nợ khổng lồ và thua lỗ chồng chất.
Tin đồn về việc WeWork phá sản đã xuất hiện một thời gian, sau khi công ty cung cấp không gian làm việc linh hoạt này báo cáo với nhà chức trách về “nỗi hoài nghi to lớn” đối với khả năng duy trì hoạt động trong vòng 1 năm tới.
Sau khi thông tin về việc WeWork có thể sắp chính thức đệ đơn phá sản theo Chương 11 Luật Phá sản Mỹ lên toà án ở New Jersey được Wall Street Journal đăng tải ngày 31/10, giá cổ phiếu công ty này có thời điểm giảm 32% trong phiên giao dịch ngoài giờ. Nếu tính từ đầu năm, giá cổ phiếu WeWork đã “bốc hơi” 96%.
Trước đó cùng ngày, WeWork cho biết đã đạt thoả thuận với các chủ nợ về giãn một số khoản nợ với tổng trị trị giá 6,4 triệu USD, đúng vào lúc sắp hết thời gian ân hạn của các khoản phải trả này.
Ở thời điểm cuối tháng 6, WeWork có 2,9 tỷ USD nợ ròng dài hạn và nợ hơn 13 tỷ USD tiền thuê mặt bằng dài hạn, trong bối cảnh lãi suất tăng cao gây áp lực lớn lên lĩnh vực bất động sản thương mại.
Một vụ phá sản của WeWork sẽ là cú đảo ngược gây sửng sốt về vận may của công ty từng được định giá 47 tỷ USD trong một vòng gọi vốn tư nhân vào năm 2019.
WeWork cũng chính là một “hố đen” đã nhấn chìm nhiều tỷ USD của SoftBank – công ty đầu tư công nghệ của tỷ phú Nhật Bản Masayoshi Son.
Rắc rối đã bủa vây WeWork sau khi kế hoạch phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng (IPO) vào năm 2019 thất bại.
Vụ phát hành đổ bể do nhà đầu tư hoài nghi về mô hình kinh doanh đi thuê văn phòng dài hạn để cho thuê ngắn hạn của WeWork, cũng như những khoản thua lỗ khổng lồ của công ty dưới sự điều hành của nhà sáng lập kiêm CEO khi đó là Adam Neumann.
Tháng 8/2019, WeWork tiết lộ thua lỗ 900 triệu USD trong 6 tháng. Một tháng sau đó, Neumann bị cách chức sau hàng loạt cáo buộc về môi trường làm việc độc hại tại công ty.
SoftBank – cổ đông chính của WeWork – đã rót khoảng 10 tỷ USD để vực dậy startup này, nhưng WeWork vẫn tiếp tục trong tình trạng lỗ chồng lỗ. Năm 2020, SoftBank mạnh tay hạ định giá WeWork còn 2,9 tỷ USD.
Sau nhiều nỗ lực, WeWork cuối cùng cũng trở thành một công ty đại chúng vào năm 2021, với mức định giá khoảng 9 tỷ USD. Cuộc chào sàn của WeWork được tiến hành thông qua sáp nhập với một công ty séc trắng (SPAC) thay vì theo con đường IPO truyền thống.
Tháng 8 vừa qua, WeWork thông báo về “nỗi hoài nghi to lớn” đối với khả năng tiếp tục hoạt động. Một loạt nhà điều hành cấp cao của công ty, gồm CEO Sandeep Mathrani, đã rời đi trong năm nay.
Ngoài sự thất bại của mô hình kinh doanh và văn hoá điều hành doanh nghiệp thời CEO Neumann, WeWork còn là một “nạn nhân” của đại dịch Covid-19, khi giãn cách xã hội dẫn tới xu hướng làm việc từ xa. Tuy nhiên, kể từ khi các biện pháp hạn chế chống Covid được gỡ bỏ tại các quốc gia đến nay, WeWork vẫn chưa khi nào báo lãi.
WeWork bắt đầu đi vào hoạt động vào năm 2010 ở New York, cung cấp không gian làm việc chung cho khách hàng chủ yếu là những người làm việc tự do, các start-up, và doanh nghiệp nhỏ. Sau đó, công ty nhanh chóng mở rộng đối tượng khách hàng ra các công ty lớn hơn.
Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer
Google Ads đang cố tình làm gián đoạn việc nhà quảng cáo muốn tạm dừng chiến dịch quảng cáo bằng các pop-up (nội dung hiển thị bật lên) chen ngang.
Theo đó, Google Ads đã bắt đầu hiển thị các nội dung khảo sát bằng pop-up (các cửa sổ bật lên) cố tình làm gián đoạn việc các nhà quảng cáo muốn tạm dừng chiến dịch quảng cáo của mình.
Cuộc khảo sát bật lên có thể gây khó chịu và bất tiện cho nhiều người làm marketing nói chung đặc biệt là những người bận rộn, những người không có thời gian giải thích thêm cho việc tạm dừng chiến dịch quảng cáo của họ với Google.
Tuy nhiên, với Google thì ngược lại, Google vừa có thêm thông tin để cải thiện sản phẩm quảng cáo của mình, hoặc vừa có thể khiến cho quá trình tạm dừng bị gián đoạn.
Nhiều nhà quảng cáo cũng lo ngại việc liệu pop-up gián đoạn này cũng có thể được áp dụng và phá vỡ nhiều quy tắc cài đặt tự động khác của nhà quảng cáo hay không (ví dụ như việc nhà quảng cáo chọn cách tắt chiến dịch nếu một chiến dịch nào đó vượt quá ngưỡng chi tiêu cho phép hoặc không mang lại chuyển đổi yêu cầu).
Google chưa trả lời cụ thể cho mục đích của khảo sát này.
Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer
Nếu cài trình chặn quảng cáo, người dùng YouTube sẽ vẫn nhận được cảnh báo phải gỡ bỏ mới có thể tiếp tục xem nội dung trên nền tảng.
“Có vẻ bạn đang dùng trình chặn quảng cáo. Tính năng phát video sẽ bị ngừng trừ khi YouTube được thêm vào danh sách cho phép quảng cáo”, thông báo có đoạn.
YouTube cũng gợi ý người dùng có thể mua gói Premium nếu không muốn bị quảng cáo làm phiền, cũng như giúp nhà phát triển có thêm doanh thu.
Ngày 31/10, Giám đốc truyền thông YouTube Christopher Lawton xác nhận nền tảng đang “trấn áp” các trình chặn quảng cáo ở quy mô toàn cầu. “Quảng cáo giúp hỗ trợ người sáng tạo nội dung và cho phép hàng tỷ người truy cập nội dung yêu thích trên YouTube”, ông nói.
Trên các diễn đàn như Reddit, người dùng sử dụng trình chặn cho biết sau khi tắt thông báo, họ vẫn có thể tiếp tục xem nội dung bên trong, nhưng sau đó xuất hiện cảnh báo “việc phát sẽ bị khóa sau khi xem ba video”.
Việc YouTube mạnh tay với trình chặn quảng cáo bắt đầu từ tháng 6, khi nền tảng cho biết đang thực hiện “một thử nghiệm nhỏ” với một nhóm người dùng, còn hiện đã được triển khai toàn cầu.
Tại Việt Nam, gói YouTube Premium có giá 79.000 đồng mỗi tháng cho người dùng cá nhân, 149.000 đồng cho gói gia đình (tối đa 5 thành viên) và 49.000 đồng nếu là sinh viên.
Quảng cáo đầu tiên được YouTube phát bên trong video xuất hiện vào tháng 8/2007 với Fox, The Simpsons Movie, BMW và Hairspray là các đơn vị đầu tiên.
Giám đốc truyền thông của YouTube, nền tảng đã thử nghiệm nhiều định dạng quảng cáo khác nhau suốt hơn 15 năm qua, nhưng loại “phủ hoạt ảnh kiểu TV” được xem nhiều nhất. Quảng cáo này chạy khoảng 10 giây sau khi video phát được 15 giây.
YouTube hiện đã tăng tần suất quảng cáo lên nhiều lần trong một video, gây khó chịu cho người dùng. Do đó, nhiều người tìm đến công cụ chặn quảng cáo thay vì trả tiền cho gói Premium.
Chính sách mới của YouTube có thể thúc đẩy người dùng mua gói Premium, nhưng cũng tạo ra một cuộc chạy đua không hồi kết giữa nền tảng với các công ty phát triển công cụ chặn quảng cáo đằng sau. Trong những tháng tới, chúng ta có thể sẽ thấy trò mèo vờn chuột giữa YouTube và các đơn vị tạo trình chặn quảng cáo.
Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer
Nếu tài sản của tỷ phú 67 tuổi Steve Ballmer vượt qua tài sản của Bill Gates thì đây sẽ là trường hợp thực sự hiếm hoi khi một nhân viên lại giàu hơn cả người sáng lập công ty.
Cựu trợ lý của Bill Gates trở thành người giàu thứ 5 thế giới
Theo đó, Steve Ballmer – trợ lý cũ của Bill Gates, đã lọt vào danh sách 5 người giàu nhất thế giới và thậm chí có thể sớm vượt qua ông chủ cũ của mình tại Microsoft về giá trị tài sản ròng.
Cụ thể, tài sản của Ballmer đã tăng khoảng 29 tỷ USD trong năm nay, lên khoảng 115 tỷ USD. Qua đó, ông giữ vị trí thứ 5 trong danh sách tỷ phú của Bloomberg.
Hiện Ballmer đang bám đuổi sát nút Bill Gates – người ở vị trí thứ 4 với hơn 121 tỷ USD, chỉ nhiều hơn tài sản của Ballmer 6 tỷ USD.
Cũng theo danh sách, Ballmer hiện giàu hơn nhiều tỷ phú đình đám khác như Larry Ellison (114 tỷ USD), Warren Buffett (111 tỷ USD), Larry Page (110 tỷ USD), Mark Zuckerberg (108 tỷ USD) và Sergey Brin (105 tỷ USD).
Ballmer gia nhập Microsoft năm 1980 với vai trò trợ lý chủ tịch. Mặc dù vậy, ông đóng vai trò là giám đốc kinh doanh nhiều hơn trợ lý cá nhân.
Theo Forbes, ban đầu ông thương lượng mức lương cơ bản 50.000 USD cộng với 10% mức tăng trưởng lợi nhuận mà ông tạo ra. Tuy nhiên, khi phần lợi nhuận tăng quá mức, ông đã đồng ý đổi lấy một lượng cổ phần đáng kể tại Microsoft.
Sau đó, cố vấn đáng tin cậy của Bill Gates liên tục thăng tiến để trở thành CEO của Microsoft năm 2000. Dưới sự lãnh đạo của Ballmer, Microsoft đã đạt được nhiều thành công lớn khi thử nghiệm nhiều loại sản phẩm khác nhau. Doanh thu hàng năm của công ty đã tăng từ 25 tỷ USD lên 70 tỷ USD và thu nhập ròng tăng 215%.
Ballmer thôi giữ vị trí này vào năm 2014 với 333 triệu cổ phiếu tương đương với 4% cổ phần của Microsoft. Tháng 8 cùng năm, ông rời khỏi Hội đồng quản trị của công ty. Trong những năm gần đây, sự giàu có của Ballmer đã tăng vọt, một phần là do sự bùng nổ về trí tuệ nhân tạo (AI) trên toàn cầu.
Khoản đầu tư của Microsoft vào ChatGPT của OpenAI đã thúc đẩy giá cổ phiếu Microsoft đồng thời được dự đoán là có thể phá vỡ sự thống trị của Alphabet (công ty mẹ Google) trong lĩnh vực tìm kiếm trên Internet. Những điều trên khiến cổ phiếu Microsoft đã tăng 38% trong 10 tháng qua.
Cần nhấn mạnh rằng Ballmer là tỷ phú khác biệt trong 10 người giàu nhất danh sách của Bloomberg. Elon Musk, Bernard Arnault, Jeff Bezos và những người còn lại có được sự giàu có nhờ cổ phần trong các công ty mà họ thành lập hoặc vẫn đang điều hành, trong khi Ballmer không phải là người sáng lập hay CEO hiện tại của Microsoft.
Nếu tài sản của tỷ phú 67 tuổi này vượt qua tài sản của Bill Gates thì đây sẽ là trường hợp thực sự hiếm hoi khi một nhân viên lại giàu hơn cả người sáng lập công ty.
Ballmer đã cống hiến 34 năm để làm việc tại Microsoft. Ông là nhân viên thứ 30 của công ty. Sau khi về hưu, Ballmer chủ yếu dành thời gian cho niềm đam mê bóng rổ và thực hiện các hoạt động từ thiện cùng vợ. Ông hiện sở hữu đội bóng rổ Los Angeles Clipper, được định giá ở mức hơn 2 tỷ USD.
Năm 2021, tài sản của Ballmer vượt mốc 100 tỷ USD. Tuy không duy trì được quá lâu nhưng điều này vẫn giúp vị tỷ phú công nghệ trở thành người thứ 9 trong lịch sử nước Mỹ đạt được điều này.
Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer
Đại biểu Phạm Trọng Nghĩa đề nghị Quốc hội xem xét giảm giờ làm việc bình thường cho lao động khu vực tư từ 48 giờ xuống 44 giờ, tiến tới còn 40 giờ mỗi tuần.
Đề xuất giảm giờ làm trong doanh nghiệp xuống 44 giờ mỗi tuần
Là người đầu tiên phát biểu tại phiên thảo luận kinh tế – xã hội tại Quốc hội chiều 31/10, ông Phạm Trọng Nghĩa (Giám đốc Trung tâm Thông tin khoa học lập pháp, Viện Nghiên cứu lập pháp), nói sắc lệnh của Chủ tịch Hồ Chí Minh từ năm 1947 quy định “thời hạn làm việc của công nhân, đàn ông hay đàn bà không quá 48 giờ mỗi tuần lễ”. Sắc lệnh này cũng quy định thời gian làm thêm mỗi năm không quá 100 giờ.
Sau gần 80 năm độc lập và qua gần 40 năm đổi mới, điều kiện kinh tế – xã hội, thế và lực Việt Nam được nâng lên tầm cao mới, nhưng thời giờ làm việc của người lao động khu vực tư không giảm, giờ làm thêm tăng lên gấp ba.
Vì vậy, ông Nghĩa đề nghị Chính phủ xem xét trình Quốc hội giảm giờ làm việc bình thường với lao động khu vực tư như khu vực công, đã được thực hiện từ năm 1999 (40 giờ/tuần).
“Đây là xu hướng tiến bộ của đa số các quốc gia trên thế giới”, ông Nghĩa nhấn mạnh.
Đại biểu Huỳnh Thanh Phương (Bí thư Huyện ủy Gò Dầu, tỉnh Tây Ninh) đánh giá năng suất lao động của Việt Nam thấp so với các nước trong khu vực và thế giới. Điều này khiến nền kinh tế đối mặt thách thức lớn để bắt kịp khu vực và thế giới.
“Cải thiện năng suất lao động là con đường ngắn nhất đưa nền kinh tế phát triển nhanh, bền vững”, ông Phương nói, đề nghị Chính phủ đánh giá toàn diện tình hình năng suất lao động và đề ra giải pháp.
Theo Bộ Luật Lao động được Quốc hội thông qua năm 2019, có hiệu lực từ năm 2021, giờ làm việc bình thường của người lao động không quá 8 giờ mỗi ngày và 48 giờ mỗi tuần.
Doanh nghiệp có quyền quy định thời giờ làm việc theo ngày hoặc tuần nhưng phải thông báo cho người lao động biết; nếu quy định giờ làm việc theo tuần thì không quá 10 giờ một ngày và 48 giờ một tuần.
Nhà nước khuyến khích doanh nghiệp thực hiện tuần làm việc 40 giờ đối với người lao động. Giờ làm thêm khống chế 40 giờ mỗi tháng, không quá 200 giờ mỗi năm. Doanh nghiệp khi tổ chức làm thêm giờ phải được người lao động đồng ý, đảm bảo số giờ làm thêm không quá 50% giờ làm việc bình thường trong ngày. ‘
Nếu áp dụng giờ làm việc bình thường theo tuần thì tổng thời gian làm việc lẫn làm thêm không quá 12 tiếng mỗi ngày và không quá 40 giờ mỗi tháng.
Luật mở rộng khung giờ làm thêm tối đa 300 giờ mỗi năm cho một số ngành nghề, như: Sản xuất gia công xuất khẩu hàng dệt may, da giày, chế biến nông lâm, thủy sản, sản xuất và cung cấp điện, viễn thông, lọc dầu, cấp thoát nước, diêm nghiệp, điện, điện tử.
Báo cáo Điều tra lao động việc làm năm 2020 của Tổng cục Thống kê chỉ ra gần 41% lao động trên toàn quốc làm việc từ 40 đến 48 giờ mỗi tuần; 30,8% làm việc trên 48 giờ mỗi tuần. Tỷ trọng lao động làm việc trên 48 giờ một tuần của nam cao hơn nữ (33,9% và 27,4%). Cả nước có 7,5% lao động làm việc trên 60 giờ mỗi tuần, cao nhất ở vùng Đồng bằng sông Hồng (9,3%).
Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer
Elon Musk từng chi 44 tỷ USD để mua lại Twitter, nay là X, nhưng hiện ông định giá mạng xã hội khoảng 19 tỷ USD.
Elon Musk tự định giá mạng xã hội X là 19 tỷ USD (so với 44 tỷ USD lúc mua lại)
Theo Fortune, trong thông báo nội bộ ngày 30/10, Musk cho biết công ty dự định trao cổ phần và cổ phiếu hạn chế cho các nhân viên có đóng góp lớn với mức 45 USD mỗi cổ phiếu.
Dựa trên kế hoạch vốn cổ phần, X được định giá khoảng 19 tỷ, thấp hơn 25 tỷ USD so với số tiền Elon Musk đã bỏ ra để mua mạng xã hội cách đây tròn một năm.
Tháng 4 năm ngoái, Musk tuyên bố mua Twitter với giá 54,2 USD mỗi cổ phiếu. Sau khi “lật kèo” không thành, ngày 28/10/2022, ông chính thức tiếp quản mạng xã hội, sau đó đổi tên thành X vào tháng 7.
Để có 44 tỷ USD, Musk huy động từ nhiều công ty lớn và hiện gánh khoản nợ 13 tỷ USD. Các ngân hàng hỗ trợ tài chính cho thương vụ có Morgan Stanley, Bank of America, Barclays, MUFG, BNP Paribas, Mizuho và Société Générale. Tất cả đều đang “mắc kẹt” với khoản nợ và phải chịu lỗ trên giấy tờ khi giá trị của X giảm mạnh.
Một số doanh nghiệp khác, như Fidelity – một trong những cổ đông góp tiền mua Twitter, cho biết hồi tháng 5 rằng họ định giá cổ phần của mình hiện chỉ bằng 1/3 so với khi thương vụ hoàn tất. Hồi tháng 7, Musk cũng dự đoán X có thể chỉ đạt doanh thu khoảng ba tỷ USD năm nay, trong khi năm 2022 là 4,4 tỷ USD.
Kể từ khi tiếp quản X, Musk liên tục tìm cách tạo doanh thu và tiết kiệm chi phí cho nền tảng, từ việc sa thải phần lớn nhân viên cho đến thu phí người dùng. Sau khi tung ra gói Blue giá 8 USD, gần đây ông tiếp tục thử nghiệm thu phí định danh một USD ở một số thị trường.
Cuối tuần trước, nền tảng ra thêm hai gói Basic và Premium+. Gói Basic giá ba USD mỗi tháng, cho phép đăng nội dung dài và chỉnh sửa nội dung, nhưng không có tích xanh và phải “sống chung” với quảng cáo.
Gói Premium+ giá 16 USD không có quảng cáo và có một số đặc quyền khác, nhưng được đánh giá là không khác biệt quá nhiều so với gói 8 USD.
Trong khi Musk loay hoay với X, các nhà quảng cáo hàng đầu – nguồn thu chính của nền tảng – lần lượt rời đi. Theo Rolling Stone, hầu hết không muốn thương hiệu của họ xuất hiện bên cạnh nội dung tiêu cực, tin giả hoặc bài viết mang tính công kích, xúc phạm.
Dữ liệu từ công ty tư vấn tiếp thị Ebiquity ngày 23/10 cho thấy chỉ có hai trong số 70 thương hiệu hàng đầu hiện làm việc với Ebiquity vẫn mua quảng cáo trên X vào tháng 10, giảm so với 31 thương hiệu vào tháng 9/2022.
Trong cuộc họp với các chủ ngân hàng vào tháng 10, bà Linda Yaccarino, CEO X, cho biết doanh thu công ty tăng “ở mức một chữ số phần trăm” trong quý III/2023 so với quý trước.
Bà kỳ vọng X, mạng xã hội có 245 triệu người dùng hoạt động hàng ngày, sẽ có lãi vào đầu năm 2024.
Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer
Bloomberg nhận định Nhật Bản đang mắc căn bệnh “chất lượng cao”, tự mãn với hào quang quá khứ và chưa biết hợp tác với doanh nghiệp nước ngoài, để cho các nền kinh tế khác dần vượt mặt ở hàng loạt lĩnh vực công nghệ.
Thời hoàng kim của Nhật Bản liệu có đã trôi qua trong cuộc đua công nghệ mới
Mới đây, báo cáo của Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) cho thấy nền kinh tế Đức được dự đoán sẽ vượt qua Nhật Bản để xếp thứ 3 thế giới trong năm 2023 nhờ đồng Yên mất giá đã thu hút sự quan tâm của giới truyền thông.
Trong khi nhiều người đổ lỗi cho việc đồng Yên mất giá xuống thấp nhất 33 năm so với đồng USD thì câu chuyện nền kinh tế lớn thứ 3 thế giới còn phức tạp hơn nhiều với tư tưởng “Nhật Bản là trung tâm” (Japan Centricism) cùng một giấc mơ vượt qua Mỹ chẳng bao giờ thành hiện thực.
Giấc mơ mãi là giấc mơ.
Vào năm 1964 khi Nhật Bản đăng cai kỳ Thế vận hội Olympic đầu tiên của mình, quốc gia này đã làm cả thế giới trầm trồ với những công nghệ tiên tiến, từ những đoàn tàu cao tốc chạy 210 km/h (Shinkansen) đến những băng nhạc cassette của Sony.
Có thể nói thập niên 1960-1970 là thời kỳ vàng son của công nghệ Nhật Bản khi các doanh nghiệp nước này luôn đi đầu trong nhiều công nghệ mới, thậm chí nhiều người còn mơ đến viễn cảnh quốc gia này vượt cả nền kinh tế số 1 thế giới lúc đó là Mỹ.
Thế nhưng giấc mơ đó chẳng bao giờ xảy ra.
Lần cuối cùng Nhật Bản thu hút được sự chú ý của truyền thông quốc tế là vào năm 2021 khi tổ chức kỳ Thế vận hội 2020 (phải lùi 1 năm vì đại dịch Covid-19).
Trớ trêu thay trong bối cảnh dịch bệnh, chẳng có ai quan tâm đến những thành quả công nghệ của họ. Giới truyền thông quốc tế chỉ để ý đến số ca nhiễm mới và những chiếc giường bằng giấy trong làng thể thao liệu có đủ “chắc”.
Theo hãng tin Bloomberg, ngay cả khi không có dịch bệnh thì thời hoàng kim của Nhật Bản cũng đã qua.
Những niềm tự hào của nền kinh tế này như tivi màu, băng cassette hay máy tính cá nhân giờ đã bị thay thế bởi smartphone, xe điện, chip bán dẫn…đều là các sản phẩm mà Nhật Bản không dẫn đầu.
Thậm chí là người láng giềng Hàn Quốc hiện nay cũng vượt Nhật Bản về mảng smartphone và chip nhớ điện tử, còn Trung Quốc thì cho nền kinh tế này “hít khói” ở mảng xe điện và sản xuất smartphone.
Ngay cả ở mảng tàu cao tốc từng là niềm tự hào của Nhật Bản thì hiện nay đang bị Trung Quốc dần vượt mặt.
Câu chuyện ở đây không đơn giản chỉ là niềm tự hào dân tộc bị tổn thương mà nó còn liên quan đến cả một nền kinh tế đang cố gắng níu kéo thời hoàng kim của mình bằng kỳ Olympic 2020.
Trong khi Mỹ và Trung Quốc tranh cãi nhau về bằng sáng chế, ganh đua nhau về kỹ thuật tiên tiến nhất cũng như đặt ra các tiêu chuẩn cho công nghệ mới thì Nhật Bản, từng là niềm tự hào của Châu Á nay lại bị “ra rìa”.
Tất nhiên, chính quyền Tokyo nhận ra điều đó khi có kế hoạch thúc đẩy phát triển ngành công nghiệp sản xuất chip điện tử như một dự án quốc gia, song hành với chiến lược đảm bảo an ninh lương thực cũng như nhiên liệu.
Vậy nhưng theo hãng tin Bloomberg, kế hoạch này muốn thành công cần đòi hỏi sự thay đổi gốc rễ tại Nhật Bản.
Cụ thể, chính phủ cần dỡ bỏ những vùng bảo hộ, giảm bớt thủ tục hành chính, tuyển dụng thêm tài năng từ nước ngoài và đặc biệt là loại bỏ tư tưởng “Nhật Bản là trung tâm” (Japan Centricism) đã ăn sâu vào tiềm thức các doanh nghiệp.
Chuyên gia Kazumi Nishikawa của Bộ Công thương Nhật Bản cho biết việc thần thánh hóa công nghệ Nhật là điều “ngu ngốc” khi thời kỳ đỉnh cao của họ đã qua. Đây là thời điểm cần tiếp thu cái mới, cần sự cầu thị và học hỏi chứ không phải đắm mình trong hào quang quá khứ.
“Tư tưởng sản phẩm phải tự nghiên cứu và sản xuất tại Nhật Bản không còn hiệu quả nữa”, ông Nishikawa thừa nhận.
Hiện nền kinh tế thứ 3 thế giới đang đổ hàng trăm tỷ Yên vào mảng chip điện tử nhưng thế vẫn chưa là gì so với số tiền Mỹ chi vào mảng này.
Theo các thống kê, nền kinh tế số 1 thế giới đã chi tới 52 tỷ USD, tương đương 5,7 nghìn tỷ Yên để phát triển mảng chip nhằm cạnh tranh với Trung Quốc.
Trong khi đó, quốc gia hàng xóm của Nhật Bản là Hàn Quốc cũng chi nhiều tiền chẳng kém. Những tập đoàn như Samsung hay SK đã cam kết để thêm 450 tỷ USD cho mảng này trong 10 năm tới.
Thậm chí doanh nghiệp TSMC của Đài Loan cũng cho biết sẽ chi tới 100 tỷ USD cho mảng mà họ đang dẫn đầu trong 3 năm tới.
“Nếu không chịu đầu tư cho tương lai, Nhật Bản sẽ luôn phải phụ thuộc vào nước khác trong kỷ nguyên công nghệ số”, Giám đốc Yuko Harayama của Viện nghiên cứu Riken nhấn mạnh.
Căn bệnh “chất lượng cao”.
Hiện nay Nhật bản vẫn dẫn đầu thế giới trong một số công nghệ như robot hay siêu máy tính. Những kỹ sư Nhật Bản thậm chí mới đây đã phá vỡ kỷ lục thế giới về tốc độ đường truyền Internet.
Trong bản đánh giá chuỗi cung ứng của Nhà Trắng-Mỹ được công bố vào năm 2021, Nhật Bản được nhắc đến 85 lần, nhiều hơn so với Hàn Quốc và Đài Loan nhưng tương đương với Châu Âu.
Chủ tịch danh dự Tetsuro Higashi của công ty bán dẫn Tokyo Electron cho biết việc định hình điểm yếu của công nghệ Nhật Bản không đồng nghĩa với việc phải xây dựng lại cả một ngành từ con số 0.
Trên thực tế, ngành chất bán dẫn của Nhật cũng đã có nền tảng với bộ nhớ của Kioxia hay cảm ứng ảnh của Sony cùng vô số các nhà sản xuất, lắp ráp chip khác.
Thế nhưng điều khó khăn ở đây là Nhật Bản chưa kết nối được những doanh nghiệp này thành một hệ thống cũng như tạo nên sản phẩm cốt lõi của mình.
Hệ quả là theo báo cáo của IC InSights, thị phần chip điện tử của Nhật Bản đã giảm từ 50% năm 1990 xuống chỉ còn 6% hiện nay.
Một báo cáo khác của tổ chức Stiftung Neue Verantwortung tại Đức cho thấy đóng góp của ngành chip Nhật Bản cho thế giới đã suy giảm trong 25 năm qua và để Trung Quốc vượt qua.
Một báo cáo của chuyên gia tư vấn Takami Yunogami được trình bày trước Hạ viện Nhật Bản cho thấy nước này từng sản xuất bộ nhớ cho những chiếc máy tính lớn (mainframe computer), nơi khách hàng đòi hỏi chất lượng cực cao và bảo hành tới 25 năm.
Thế nhưng khi mảng máy tính cá nhân trỗi dậy thì ngành công nghiệp Nhật lại không bắt kịp, để rồi bị Samsung vượt qua với những bộ nhớ giá rẻ chỉ bảo hành có 3 năm.
Tương tự với mảng xe điện, những thương hiệu hàng đầu như Toyota đang chú trọng quá nhiều đến vấn đề chất lượng, lo ngại đủ các yếu tố để rồi chậm chân trước Trung Quốc.
Rõ ràng trong kỷ nguyên công nghệ thay đổi từng ngày, Nhật Bản đang mắc căn bệnh “chất lượng cao” trong khi khách hàng thay mới sản phẩm liên tục và ưa chuộng giá rẻ.
Từ ông hoàng đến kẻ phụ trợ.
Một yếu điểm nữa khiến công nghệ Nhật Bản gặp cản trở là chính phủ quá coi trọng những tập đoàn trong nước mà bỏ quên khả năng hợp tác phát triển với nước ngoài.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, việc hợp tác và làm việc chung với người nước ngoài là một yếu tố hỗ trợ tích cực cho mảng công nghệ.
Tinh thần lao động của người Nhật là đáng kính nể nhưng nếu không thể hòa nhập được với thế giới, tiềm năng công nghệ của họ sẽ bị giới hạn.
Một ví dụ điển hình là năm 1999, Nhật Bản xúc tiến vụ sáp nhập, mua lại của Hitachi với bộ phận sản xuất bộ nhớ của NEC dưới cái tên mới: Elpida.
Thế nhưng kế hoạch vun trồng cho tập đoàn Hitachi thất bại hoàn toàn vào năm 2012 khi Elpida phá sản cùng khoản nợ 5,5 tỷ USD, để rồi bị công ty Mỹ Micron Technology mua lại.
“Tất cả những gì chúng tôi cố thử đều không thành công, từ các dự án quốc gia cho đến liên doanh đều thất bại. Mảng chip điện tử hiện đã nằm ngoài tầm khôi phục để vươn lên top thế giới rồi”, chuyên gia Yunogami thừa nhận.
Dẫu vậy, báo cáo của Yunogami cũng cho thấy Nhật Bản vẫn còn cơ hội sản xuất thiết bị phụ trợ và nguyên liệu thô cho ngành chip nếu không thể cạnh tranh trực tiếp.
Thật trớ trêu nhưng ông hoàng công nghệ một thời nay lại chỉ còn cơ hội nếu sản xuất phụ trợ cho những người chơi khác như Mỹ, Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan.
Hậu quả của tự mãn.
Cách đây 40 năm, Mỹ và Nhật Bản từng nổ ra xung đột thương mại khi nền kinh tế xứ sở mặt trời mọc bùng nổ. Tại thời điểm đó, Mỹ đã áp đặt các quy định về tỷ lệ sử dụng chip điện tử nội địa lên các mặt hàng hoặc sẽ phải chịu mức thuế thương mại đặc biệt.
“Mỹ từng coi sự trỗi dậy của Nhật Bản là mối đe dọa và cần phải kiểm soát”, Cựu bộ trưởng ngoại giao về chính sách kinh tế tài khóa Nhật Bản, ông Akira Amari cho biết.
Thế nhưng thay vì đấu tranh hoặc tìm đường phát triển mới, các công ty Nhật lại chấp nhận chỉ tập trung vào thị trường trong nước. Một phần nguyên nhân cũng là do việc tự mãn với thành quả công nghệ phát triển được, qua đó từ bỏ thị trường nước ngoài béo bở khi bị Mỹ áp thuế.
Ví dụ điển hình của câu chuyện này là Docomo, công ty Nhật Bản tiên phong trong công nghệ kết nối điện thoại với Internet nhưng giờ đây thế giới lại chỉ nhớ đến Apple và Samsung.
“Nhật Bản rất giỏi trong việc sáng chế, đi từ 0 đến 1, nhưng lại chẳng thành công lắm cho việc phát triển đi lên 10. Nhật Bản có thể thắng trong công nghệ nhưng lại thua trong kinh doanh”, ông Amari ngậm ngùi.
*Nguồn: Bloomberg
Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer
Instagram vừa thông báo cập nhật một số tính năng quảng cáo mới cho Instagram Reminder Ads nhằm mục tiêu đơn giản hoá quá trình tạo quảng cáo và thúc đẩy hiệu suất.
Instagram Reminder Ads ra mắt tính năng quảng cáo mới
Instagram Reminder Ads hay Quảng cáo nhắc nhở trên Instagram đang triển khai các tính năng quảng cáo mới giúp nhà quảng cáo tiếp cận nhiều đối tượng hơn:
Khả năng hiển thị trên Instagram Stories: Quảng cáo nhắc nhở hiện có thể được hiển thị trong Instagram Stories, cho phép các doanh nghiệp tăng cường khả năng hiển thị và nâng cao hiệu quả quảng cáo.
Thiết lập từ Trình quản lý quảng cáo (Ads Manager): Giờ đây, nhà quảng cáo có thể tạo quảng cáo nhắc nhở trực tiếp trong Trình quản lý quảng cáo, thay vì như trước đây là chỉ được quảng cáo từ các bài đăng tự nhiên có sẵn.
Về tổng thể, việc mở rộng phạm vi tiếp cận tới nhiều khách hàng tiềm năng hơn có thể giúp thương hiệu nâng cao nhận diện thương hiệu (Brand Awareness), dẫn đến nhiều chuyển đổi hơn và lợi tức đầu tư (ROI) cao tốt.
Instagram Reminder Ads hay Quảng cáo nhắc nhở trên Instagram là gì?
Instagram Reminder Ads là một sản phẩm quảng cáo của Instagram Ads được Instagram ra mắt vào đầu năm 2023.
Instagram Reminder Ads được thiết kế đặc biệt để cho phép các nhà quảng cáo xây dựng độ nhận biết thương hiệu, tăng khả năng tham dự và sự quan tâm đến các lần ra mắt, sự kiện hay các khoảnh khắc đặc biệt của thương hiệu.
Instagram Reminder Ads hay Quảng cáo nhắc nhở trên Instagram cung cấp cho người dùng tùy chọn đăng ký nhận thông báo về các sự kiện mà họ quan tâm.
“Mọi người đến Instagram để khám phá các thương hiệu, sản phẩm mới hoặc sự kiện sắp diễn ra.”
“[Vì vậy, chúng tôi đã giới thiệu Quảng cáo nhắc nhở] với mục tiêu cung cấp cho doanh nghiệp nhiều cách hơn để được mọi người khám phá và hình thành nên các kết nối có ý nghĩa.”
Bạn có thể xem chi tiết về tính năng quảng cáo mới tại đây.
Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer
HyperOS là nỗ lực của Xiaomi nhằm tạo ra hệ thống duy nhất hoạt động trên cả smartphone lẫn thiết bị IoT, tương tự HarmonyOS của Huawei.
HyperOS: Xiaomi tự làm hệ điều hành di động
Xiaomi mô tả HyperOS, được công bố cuối tuần qua, là sự kết hợp giữa “hệ thống Android tùy biến ở mức cao” kết hợp nền tảng IoT Vela độc quyền được giới thiệu cách đây ba năm.
Mục tiêu của nền tảng mới là hỗ trợ một loạt thiết bị thông minh từ smartphone, máy tính bảng, smartband, smartwatch cho đến loa, thiết bị gia dụng cũng như các sản phẩm có gắn cảm biến và kết nối Internet khác.
Cũng theo Xiaomi, HyperOS là hệ điều hành “lấy con người làm trung tâm” với nỗ lực “đưa danh mục sản phẩm rộng lớn và đang mở rộng về dưới mái nhà chung là một hệ điều hành duy nhất, giúp quản lý tập trung và dễ dàng hơn”.
Công ty cho biết HyperOS sẽ được cài đặt đầu tiên trên dòng điện thoại Xiaomi 14 mới ra mắt tại Trung Quốc, cũng như smartwatch và TV.
Trước Xiaomi, Huawei đã phát triển hệ điều hành nội địa để tránh phụ thuộc vào Android của Google. Công ty giới thiệu HarmonyOS vào tháng 8/2019, 3 tháng sau khi bị Mỹ đưa vào Danh sách thực thể. Nền tảng được phát triển dựa trên mã nguồn mở, không tích hợp các dịch vụ của Google.
Huawei đang chuẩn bị cho một nước đi táo bạo hơn với HarmonyOS Next, dự kiến ra mắt năm tới. Đây được đánh giá là nỗ lực lớn nhất của hãng trong việc cắt đứt hoàn toàn với hệ sinh thái của Google bằng cách loại bỏ hỗ trợ các ứng dụng Android.
Hiện Huawei vẫn cho phép ứng dụng Android chạy trên thiết bị HarmonyOS – cách để “xoa dịu cú sốc” và níu chân người dùng sau khi bị Mỹ cấm vận. Trong lúc đó, hãng âm thầm chuẩn bị cho chặng đường mới.
“HarmonyOS trải qua bốn năm khó khăn. Nhìn lại, quả thực là thuyền nhẹ vượt qua muôn trùng núi non”, Richard Yu Chengdong, đứng đầu mảng kinh doanh tiêu dùng của Huawei, dẫn một câu thơ nổi tiếng của nhà thơ Lý Bạch trong sự kiện hồi tháng 9.
Theo công bố của Huawei, hiện có 700 triệu thiết bị chạy HarmonyOS với hơn 2,2 triệu nhà phát triển tạo ứng dụng cho nền tảng. Trong khi đó, theo dữ liệu từ StatCounter, Android chiếm 70% thị phần hệ điều hành di động toàn cầu tháng 9, còn HarmonyOS có thị phần không đáng kể.
Ngoài Huawei và Xiaomi, các nhà sản xuất smartphone Trung Quốc vẫn tiếp tục xây dựng nền tảng tùy chỉnh dựa trên Android. Chẳng hạn, Oppo có ColorOS, Vivo có OriginOS. Smartphone Xiaomi hiện cũng chạy MIUI dựa trên Android nguồn mở.
Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer
Cùng khám phá cách xây dựng mô hình chiến lược Marketing Mix (Tiếp thị hỗn hợp) cho các thương hiệu trong ngành hàng FMCG (hàng tiêu dùng nhanh).
Mô hình chiến lược Marketing Mix cho ngành FMCG
Để thâm nhập và cạnh tranh ở bất kỳ thị trường nào, điều căn bản là người làm marketing phải am hiểu toàn bộ chuỗi giá trị của thị trường đó dưới góc nhìn của khách hàng, bạn có thể tìm hiểu bằng cách trả lời câu hỏi:
“Ở thị trường này, khách hàng quan tâm đến điều gì trong quá trình mua hàng?”. Từ nền tảng này, marketer mới có thể thiết kế các loại hình giá trị của thương hiệu cho khách hàng (có trong Marketing Mix), thứ tác động trực tiếp đến tâm lý và hành vi khách hàng.
Mô hình chiến lược Marketing Mix hay nói cụ thể hơn là chuỗi giá trị của ngành hàng tiêu dùng nhanh (FMCG) xoay quanh 9 yếu tố quan trọng, và đây cũng là cơ sở để các thương hiệu xây dựng chi tiết chiến lược Marketing Mix.
1. Định vị thương hiệu – Brand Positioning.
Định vị thương hiệu là giai đoạn mà người làm marketing gieo vào tâm trí khách hàng về giải pháp thương hiệu cho các nhu cầu quan trọng của họ (ví dụ, Heineken là bia sang, dành tiếp khách quý, tặng đối tác quan trọng, đãi đám cưới sang, thưởng thức vào dịp đặc biệt như xem giải bóng đá Ngoại Hạng Anh, nghe nhạc trong bar).
2 và 3. Chiến lược giá và danh mục sản phẩm – Portfolio & Pricing.
Đa dạng mẫu mã sản phẩm để khách hàng thoải mái chọn lựa trong bối cảnh gắn liền với chiến lược giá thành tương ứng với giá trị cảm nhận (ví dụ, Colgate ngừa sâu răng giá rẻ dành cho gia đình, Colgate Optic White làm trắng răng thẩm mỹ được định giá cao hơn).
4. Sản Phẩm – Product.
Sản phẩm đóng vai trò vô cùng quan trọng quyết định sự thành công của marketing. Sản phẩm phải đạt chất lượng phù hợp với nhu cầu tiêu dùng và trải nghiệm.
5. Bao Bì – Packaging.
Là khi marketer thuyết phục khách hàng tin vào chất lượng sản phẩm ở giai đoạn mua hàng trên quầy kệ. Ngoài ra, bao bì còn giúp tạo ra các trải nghiệm thuận tiện (chai nước giặt Ariel có nắp để đong), hoặc thú vị trong suốt quá trình sử dụng (kiểu dáng, hoa văn của chai rượu Chivas đầy nghệ thuật tạo cảm hứng khi rót để thưởng thức).
6. Cải Tiến và Đổi Mới – Innovation & Renovation.
Thương hiệu cần tạo ra nhiều sản phẩm mới để thỏa mãn đa dạng nhu cầu khách hàng, đồng thời làm mới mẻ, kích thích sự hứng thú của khách hàng cho những dòng sản phẩm hiện tại.
7. Thiết kế kênh Phân Phối (Online và Offline) – Distribution.
Xây dựng hệ thống để hàng hóa đi từ nhà máy đến cửa hàng bán lẻ, nhằm đảm bảo đủ chủng loại hàng hóa ở những cửa hàng bán lẻ mà các tập Shopper (người mua sắm) hay lui tới trải nghiệm mua sắm.
8. Các Hoạt Động Bán Lẻ – Channel Activities.
Nằm trong phạm vi Marketing Mix, các hoạt động bán lẻ thường được tổ chức định kỳ như khuyến mại, trưng bày, hoạt náo, livestream, quảng cáo, game… để tác động đến tâm lý và kích thích mua hàng ở cửa hàng bán lẻ Online và Offline.
9. Truyền Thông – Communications.
Truyền thông là quá trình giúp khách hàng mục tiêu hiểu được thông điệp sản phẩm phù hợp với nhu cầu của họ ra sao, khơi gợi nhu cầu mua sắm ngẫu hứng, đồng thời truyền cảm hứng về các giá trị nhân văn, tốt đẹp do thương hiệu tạo ra và có tác động tích cực đến các khía cạnh xã hội.
Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer
Trong phạm vi bài viết này, hãy cùng MarketingTrips tìm hiểu tất cả các thông tin nền tảng quan trọng cần biết về thuật ngữ GDP (GDP là từ viết tắt của Gross Domestic Product) như: GDP là gì, thấu hiểu chỉ số GDP trong bối cảnh kinh tế, công thức tính GDP, phân biệt GDP với GNP và GNI, phân loại GDP, cách sử dụng dữ liệu GDP (Tổng sản phẩm quốc dân) để đo lường sức khoẻ của một quốc gia, và nhiều nội dung liên quan khác.
GDP là gì? Khái niệm và công thức tính GDP (Gross Domestic Product).
Dù bạn có phải là một người làm việc trong chính phủ, các tổ chức nhà nước, tại doanh nghiệp hay thậm chí là làm việc trong lĩnh vực kinh tế hay không, việc có được các kiến thức nền tảng về kinh tế vĩ mô là vô cùng cần thiết. Khi các chỉ số như GDP (Gross Domestic Product) có thể giúp bạn tính toán và xác định về sức khoẻ hay độ lớn của một quốc gia, có được những sự hiểu biết về thuật ngữ này là vô cùng hữu ích.
GDP là gì?
GDP là từ viết tắt từ chữ tiếng Anh Gross Domestic Product trong tiếng Việt có nghĩa là tổng sản phẩm quốc dân hoặc tổng sản phẩm nội địa.
GDP là tổng giá trị tiền tệ hoặc thị trường của tất cả các sản phẩm là dịch vụ và hàng hoá thành phẩm được sản xuất trong biên giới của một quốc gia trong một khoảng thời gian cụ thể.
GDP là một thước đo tổng thể về dung lượng sản xuất trong nước, nó có chức năng như là một điểm đánh giá toàn diện về sức khỏe kinh tế hay vị thế kinh tế của một quốc gia nhất định.
Mặc dù chỉ số GDP thường được tính theo năm nhưng đôi khi nó cũng được tính theo quý tuỳ vào từng quốc gia ở từng thời điểm khác nhau.
Ví dụ, ở Việt Nam, GDP thường được tính theo năm tuy nhiên vẫn có thể chia nhỏ theo quý để phục vụ cho một mục đích đặc biệt nào đó.
Thấu hiểu khái niệm GDP (Gross Domestic Product).
GDP là giá trị tính bằng đơn vị tiền tệ của tất cả các sản phẩm là hàng hóa thành phẩm và dịch vụ được sản xuất trong một quốc gia trong một khoảng thời gian cụ thể.
GDP cung cấp một bức tranh tổng thể về tiềm lực kinh tế của một quốc gia hay nói cách khác là mức độ giàu có ở cấp độ quốc gia nói chung.
GDP có thể được tính theo ba cách, sử dụng theo mức chi tiêu, sản xuất hoặc thu nhập. GDP có thể được đối sánh theo lạm phát và dân số để có được những góc nhìn khách quan và chính xác hơn.
Trong khi GDP thực (Real GDP) có tính đến ảnh hưởng của lạm phát (Inflation), GDP danh nghĩa (nominal GDP) thì không.
Mặc dù cũng có những điểm hạn chế nhất định, chỉ số GDP vẫn là công cụ quan trọng để các chính phủ hay người làm chính sách dựa vào để đưa ra phương án hành động. Nhà đầu tư và doanh nghiệp cũng sử dụng chỉ số GDP để ra quyết định chiến lược.
Một số lưu ý quan trọng cần hiểu về chỉ số GDP.
Việc tính toán chỉ số hay dữ liệu GDP của một quốc gia bao gồm tất cả các chỉ số tiêu dùng cá nhân và công cộng, chi tiêu của chính phủ, đầu tư, các chi phí xây dựng và cán cân thương mại nước ngoài.
Trong khi dữ liệu xuất khẩu (sang các quốc gia khác) được cộng vào giá trị của GDP, dữ liệu nhập khẩu thì được trừ đi vì nó không được sản xuất trên lãnh thổ của chính quốc gia đang tính toán.
Trong tất cả các thành phần tạo nên chỉ số GDP của một quốc gia, cán cân thương mại nước ngoài hay còn được gọi là cán cân ngoại thương (FBT) là đặc biệt quan trọng.
Về tổng thể, GDP của một quốc gia có xu hướng tăng khi tổng giá trị hàng hóa và dịch vụ mà các nhà sản xuất trong nước bán ra nước ngoài vượt quá tổng giá trị hàng hóa và dịch vụ của nước ngoài mà người tiêu dùng (doanh nghiệp) trong nước mua hay nhập vào.
Khi tình huống này xảy ra, một quốc gia được cho là có thặng dư thương mại hay còn được gọi với một cái tên khác đó là xuất siêu (xuất khẩu cao hơn nhập khẩu).
Trong tình huống ngược lại – tức là nếu số tiền mà người tiêu dùng trong nước chi cho hàng hóa nước ngoài lớn hơn tổng số tiền mà nhà sản xuất trong nước có thể bán cho người tiêu dùng nước ngoài – thì đó được gọi là thâm hụt thương mại. Trong tình huống này, GDP của một quốc gia có xu hướng giảm.
Một quốc gia “khoẻ mạnh” là quốc gia xuất siêu và có thặng dư thương mại cao.
GDP có thể được tính toán trên cơ sở danh nghĩa hoặc thực tế, tính toán dựa trên thực tế tức là có tính đến yếu tố lạm phát.
Về bản chất, vì có thể phản ánh được những gì thực tế đang diễn ra, GDP tính theo cơ sở thực tế là một phương pháp chính xác.
Giả sử một quốc gia có GDP danh nghĩa là 100 tỷ USD vào năm 2012. Đến năm 2022, GDP danh nghĩa của quốc gia đó đã tăng lên thành 150 tỷ USD. Chỉ số giá cả cũng tăng 100% trong cùng thời gian.
Trong ví dụ này, nếu bạn chỉ nhìn vào GDP danh nghĩa (nominal GDP,) thì nền kinh tế của quốc gia này dường như đang rất khoẻ.
Tuy nhiên, vì GDP thực tế (tính theo tỷ giá USD năm 2012) sẽ chỉ là 75 tỷ USD, nó lại không được “khoẻ” như bạn nghĩ.
Các loại chỉ số GDP phổ biến trên thế giới (và tại Việt Nam).
Trên thực tế, chỉ số GDP được tính toán theo rất nhiều cách khác nhau tuỳ theo từng cách phân loại khác nhau. Mỗi cách tính GDP đều mang những ý nghĩa thú vị khác nhau.
Đươi đây là các loại chỉ số GDP phổ biến nhất.
GDP danh nghĩa.
GDP danh nghĩa là chỉ số GDP được sử dụng để đánh giá về tình hình sản xuất kinh tế trong một nền kinh tế bao gồm các mức giá hiện hành. Nói cách khác, GDP danh nghĩa không loại bỏ yếu tố lạm phát hoặc sự biến động về giá tiêu dùng (CPI), những yếu tố có thể làm thay đổi chỉ số GDP nói chung.
Tất cả các sản phẩm là hàng hóa và dịch vụ được tính trong GDP danh nghĩa đều được định giá theo giá mà những hàng hóa và dịch vụ đó thực sự được bán trong năm đó.
GDP danh nghĩa thường được sử dụng khi so sánh các quý sản lượng khác nhau trong cùng một năm. Khi so sánh GDP từ hai năm trở lên, GDP thực tế lại được sử dụng thay thế.
GDP thực tế.
Ngược lại với GDP danh nghĩa, GDP thực tế (Real GDP) là thước đo được điều chỉnh theo chỉ số lạm phát, phản ánh chính xác số lượng hàng hóa và dịch vụ được sản xuất bởi một nền kinh tế trong một năm nhất định, với giá cả không đổi từ năm này sang năm khác để tách biệt tác động của lạm phát hoặc giảm phát (Deflation).
Giá cả tăng có xu hướng làm tăng GDP của một quốc gia, nhưng điều này không nhất thiết phản ánh bất kỳ thay đổi nào về số lượng hoặc chất lượng hàng hóa và dịch vụ được sản xuất bởi quốc gia đó. Do đó, nếu chỉ nhìn vào GDP danh nghĩa của một nền kinh tế, bạn có thể khó biết được liệu con số này tăng lên do sự mở rộng sản xuất thực tế hay đơn giản là do giá cả tăng cao.
GDP thực tế được tính bằng cách sử dụng chỉ số giảm phát giá GDP (GDP Price Deflator), là mức chênh lệch giá giữa năm hiện tại và năm cơ sở được tính toán.
Ví dụ: nếu giá tăng 5% kể từ năm cơ sở thì hệ số giảm phát sẽ là 1,05. GDP danh nghĩa thì được chia cho chỉ số giảm phát này. GDP danh nghĩa thường cao hơn GDP thực tế vì lạm phát thường là số dương.
GDP thực tế cũng tính đến những thay đổi trong yếu tố giá trị thị trường (market value) và do đó nó có thể làm thu hẹp sự khác biệt giữa các số liệu sản lượng từ năm này sang năm khác. Nếu có sự chênh lệch lớn giữa GDP thực tế và GDP danh nghĩa của một quốc gia thì đây có thể là dấu hiệu của lạm phát hoặc giảm phát trong thời kỳ tính toán.
GDP bình quân đầu người (GDP Per Capita).
GDP bình quân đầu người hay còn được gọi là thu nhập bình quân đầu người là thước đo GDP tính bình quân trên từng đầu người trong tổng lượng dân số của một quốc gia. GDP bình quân đầu người có thể biểu thị năng suất trung bình hoặc mức sống trung bình của người dân trên một quốc gia nhất định.
GDP bình quân đầu người có thể được biểu thị theo danh nghĩa hoặc thực tế (đã điều chỉnh theo lạm phát) hoặc ngang giá sức mua (PPP).
Theo cách giải thích cơ bản, GDP bình quân đầu người cho thấy giá trị sản xuất kinh tế có thể được phân bổ cho mỗi cá nhân là bao nhiêu.
Vì GDP bình quân đầu người được tính từ GDP tổng của một quốc gia và dân số của quốc gia đó, điều quan trọng là phải hiểu mỗi yếu tố đóng góp như thế nào vào kết quả chung và nó giúp phản ánh điều gì về sức khoẻ của nền kinh tế.
Ví dụ: nếu GDP bình quân đầu người của một quốc gia đang tăng lên với mức dân số ổn định, thì đó có thể là kết quả của những tiến bộ công nghệ đang tạo ra nhiều sản phẩm hơn với cùng mức dân số tương ứng.
Một số quốc gia có thể có GDP bình quân đầu người cao nhưng dân số thấp, điều này thường có nghĩa là họ đã xây dựng được một nền kinh tế tự chủ (tự cung tự cấp) dựa trên nguồn lực đặc biệt dồi dào.
Công thức tính chỉ số GDP.
Như đã phân tích ở trên, GDP có thể được xác định thông qua ba phương pháp chính là tính theo mức chi tiêu, theo sản xuất (đầu ra) và theo thu nhập. Cả ba phương pháp đều cùng mang lại một chỉ số cuối cùng giống nhau.
Theo đó công thức được sử dụng để tính toán chỉ số GDP là:
GDP (Gross Domestic Product) = C + G + I + NX
Trong đó, C là mức tiêu dùng, G là mức chi tiêu của chính phủ, I là mức đầu tư, và cuối cùng NX là chỉ số xuất khẩu ròng.
Phân biệt chỉ số GDP với GNP và GNI.
Mặc dù GDP là thước đo được sử dụng rộng rãi để đánh giá mức độ quy mô hay sức khoẻ kinh tế của một quốc gia, vẫn có nhiều cách khác để đo lường tốc độ tăng trưởng kinh tế của một quốc gia.
Trong khi GDP (Tổng sản phẩm quốc dân) đo lường hoạt động kinh tế trong phạm vi biên giới vật lý của một quốc gia (cho dù nhà sản xuất là người bản địa ở quốc gia đó hay các tổ chức thuộc sở hữu nước ngoài), thì GNP (Tổng sản phẩm quốc nội) là thước đo tổng sản lượng hàng hoá và dịch vụ được tạo ra chỉ bởi các cá nhân và tổ chức trong nước, bao gồm cả những tổ chức (và cá nhân) có trụ sở ở nước ngoài nhưng thuộc quốc gia đang tính toán.
GNP không bao gồm sản lượng được sản xuất bởi các cá nhân hoặc tổ chức nước ngoài, dù các hàng hoá và dịch vụ được tạo ra trên chính lãnh thổ của quốc gia đang tính toán.
GNI (Tổng thu nhập quốc nội) là một thước đo khác của tăng trưởng kinh tế. Nó là tổng của tất cả các khoản thu nhập mà toàn bộ công dân của một quốc gia kiếm được (bất kể hoạt động kiếm tiền được diễn ra trong nước hay nước ngoài).
Mối quan hệ giữa GNP và GNI tương tự như mối quan hệ giữa phương pháp sản xuất (sản lượng) và phương pháp thu nhập được sử dụng để tính GDP.
GNP sử dụng phương pháp sản xuất, trong khi GNI sử dụng phương pháp thu nhập. Với GNI, thu nhập của một quốc gia được tính bằng thu nhập trong nước cộng với thuế kinh doanh gián tiếp và khấu hao.
Con số thu nhập ròng từ yếu tố nước ngoài được tính bằng cách trừ tất cả các khoản thanh toán cho các công ty và cá nhân nước ngoài khỏi tất cả các khoản thanh toán cho các doanh nghiệp trong nước.
Trong nền kinh tế ngày càng toàn cầu hóa, GNI được coi là thước đo tốt hơn cho sức khỏe tổng thể của nền kinh tế so với GDP. Bởi vì một số quốc gia có phần lớn thu nhập được các tổ chức và cá nhân nước ngoài rút ra nước ngoài nên con số GDP của họ cao hơn nhiều so với con số thể hiện qua GNI.
Ví dụ, vào năm 2019, Luxembourg có sự chênh lệch đáng kể giữa GDP và GNI, chủ yếu là do các khoản thanh toán lớn được thực hiện cho phần còn lại của thế giới thông qua các tập đoàn nước ngoài kinh doanh tại Luxembourg.
GDP của Mỹ hiện là khoảng 26,80 nghìn tỷ USD tính đến quý 2 năm 2023 trong khi GNI của nước này là khoảng 25,84 nghìn tỷ USD vào cuối năm 2022.
Cách sử dụng dữ liệu GDP.
Hầu hết các quốc gia đều công bố dữ liệu GDP hàng tháng và hàng quý. Tại Việt Nam, Tổng cục Thống kê là cơ quan chịu trách nhiệm soạn thảo và công bố chỉ số này.
Chỉ tiêu GDP của Việt Nam hàng quý, năm được biên soạn theo 2 phương pháp, từ góc độ sản xuất gọi là phương pháp sản xuất và từ góc độ sử dụng gọi là phương pháp sử dụng. Hai phương pháp này dựa vào hoạt động sản xuất và hành vi tiêu dùng của các chủ thể của toàn bộ nền kinh tế. Đây là cách làm khoa học, vừa đảm bảo xem xét được đầy đủ hoạt động sản xuất và hành vi tiêu dùng cũng như vừa có thể so sánh, đối chiếu để đánh giá tính chính xác của từng phương pháp, bổ trợ thông tin để kiểm tra chéo về chuỗi các hoạt động sản xuất – tiêu dùng các sản phẩm hàng hóa và dịch vụ được sản xuất ra trong nền kinh tế trong một khoảng thời gian nhất định.
Theo phương pháp sản xuất, kết quả sản xuất của các ngành kinh tế của cả nước tạo ra trong quý được tiếp cận từ các đơn vị sản xuất gồm: Doanh nghiệp, tập đoàn, tổng công ty, hộ sản xuất nông, lâm thủy sản, cơ sở kinh doanh cá thể phi nông lâm thủy sản, các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị – xã hội, các đơn vị sự nghiệp… qua các chỉ tiêu về doanh thu, chi phí, sản lượng, diện tích… từ các nguồn gồm: Điều tra thống kê, chế độ báo cáo thống kê quốc gia, hồ sơ hành chính…
Theo phương pháp sử dụng, GDP được tính toán dựa vào tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ; số liệu về thu, chi ngân sách Nhà nước (từ Bộ tài chính); trị giá xuất, nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ (số liệu từ Tổng cục Hải quan); kết quả hoạt động xây dựng, nhập khẩu máy móc thiết bị và từ kết quả nhiều cuộc điều tra khác…
GDP thực tế là chỉ số nói lên nhiều nhất về sức khỏe của nền kinh tế. Nó được theo dõi và thảo luận rộng rãi bởi các nhà kinh tế, nhà phân tích, nhà đầu tư, nhà hoạch định chính sách hay cả từ các lãnh đạo doanh nghiệp.
Kết luận.
Trên đây là tất cả các giải đáp về những kiến thức liên quan cho câu hỏi GDP là gì cũng như cách tính toán và sử dụng dữ liệu GDP để đánh giá sức khoẻ của một quốc gia. Hy vọng với các thông tin có được giờ đây bạn đã có thể bắt đầu tìm hiểu các kiến thức nền tảng khác về kinh tế vĩ mô, kinh tế vi mô và hơn thế nữa một cách dễ dàng hơn.
Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer
Sau một khoảng thời gian nghiên cứu và cân nhắc, Facebook và Instagram hiện đã chính thức cung cấp gói đăng ký có trả phí (paid subscriptions) tại châu Âu.
Facebook và Instagram bắt đầu cung cấp gói trả phí tại châu Âu
Meta vừa thông báo rằng Instagram và Facebook sẽ bắt đầu cung cấp các gói đăng ký có trả phí cho người dùng tại châu Âu.
Những người đăng ký sẽ không bị sử dụng thông tin cá nhân để nhắm mục tiêu quảng cáo (ad targeting), trong khi những người dùng sử dụng miễn phí vẫn sẽ bị hệ thống quảng cáo của Meta khai thác dữ liệu.
Người dùng có thể sẽ phải trả từ 10 USD đến 14 USD mỗi tháng, tùy thuộc vào việc họ muốn đăng ký qua web hay ứng dụng điện thoại thông minh (app).
Động thái này diễn ra trong bối cảnh khi Meta phải đối mặt với phản ứng dữ dội từ các cơ quan quản lý, nhà lập pháp và tòa án của khối gồm 27 quốc gia về cách Meta xử lý dữ liệu của người dùng để phục vụ các quảng cáo được cá nhân hóa.
Chính sách bảo mật của EU đã khiến các công ty công ty hay nền tảng mạng xã hội ngày càng gặp khó khăn trong việc thu thập thông tin cá nhân của người dùng.
Meta cũng cho biết nền tảng sẽ tạm dừng tất cả các quảng cáo hiển thị cho trẻ vị thành niên ở EU, EEA và Thụy Sĩ bắt đầu ngay từ ngày 6 tháng 11.
Việc tạm dừng quảng cáo diễn ra trong bối cảnh các chính sách pháp lý chưa rõ ràng trong việc cho phép các nền tảng sử dụng dữ liệu trẻ vị thành niên để khai thác quảng cáo.
Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer
Nhà đồng sáng lập Google Brain Andrew Ng nói rằng các công ty công nghệ lớn (Big Tech) đang nói dối về nguy cơ AI sẽ xóa sổ loài người vì muốn chiếm lĩnh thị trường.
Co-founder Google Brain: Big Tech đang nói dối về nguy cơ AI xóa sổ loài người vì muốn chiếm lĩnh thị trường
Theo đó, trong một chia sẻ mới đây từ BI, chuyên gia AI hàng đầu và cũng là người đồng sáng lập Google Brain, Andrew Ng cho biết các công ty công nghệ lớn đang làm dấy lên lo ngại về rủi ro của AI là để chiếm lĩnh thị trường và giảm bớt sự cạnh tranh.
Google Brain là một nhóm nghiên cứu AI chuyên về phương pháp học sâu (deep learning), bộ phận này đã sáp nhập với DeepMind (đã được Google mua lại) vào đầu năm 2023.
Được thành lập vào năm 2011, Google Brain đã kết hợp các nghiên cứu học máy mở với các hệ thống thông tin và tài nguyên điện toán quy mô lớn.
Andrew Ng là giáo sư phụ trợ tại Đại học Stanford, ông cũng là người đã từng dạy Sam Altman, hiện là CEO của OpenAI (ChatGPT).
Ông nói: “Chắc chắn có những công ty công nghệ lớn không muốn phải cố gắng cạnh tranh với các mã nguồn mở khác, vì vậy họ đang tạo ra những nỗi sợ hãi về AI, dấy lên lo ngại rằng AI sẽ xâm chiếm con người.”
Vào tháng 5, các chuyên gia và CEO về AI đã ký một tuyên bố từ Trung tâm An toàn AI trong đó so sánh những rủi ro do AI gây ra với chiến tranh hạt nhân và cả đại dịch.
CEO OpenAI Sam Altman, CEO DeepMind Demis Hassabis và CEO Anthropic Dario Amodei (mới đây đã được Google đầu tư 2 tỷ USD) đều ghi tên mình vào tuyên bố công khai.
Trong khi các chính phủ trên khắp thế giới cũng đang tìm cách quản lý AI, với lý do lo ngại về sự an toàn, khả năng mất việc làm và thậm chí là nguy cơ tuyệt chủng của loài người.
Ông Ng cho biết ý tưởng rằng AI có thể xóa sổ loài người có thể dẫn đến việc các đề xuất về yêu cầu được cấp phép cho AI sẽ được chấp thuận, và điều này có nguy cơ làm phá hủy sự đổi mới. Ông nói thêm rằng bất kỳ quy định nào về AI cũng phải được xây dựng một cách chu đáo.
Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer
Theo chia sẻ từ tân CEO Unilever Hein Schumacher, Unilever sẽ không tập trung theo đuổi mục đích thương hiệu đối với một số thương hiệu mà khái niệm này đơn giản là không phù hợp.
CEO Unilever: Unilever sẽ không tập trung vào mục đích thương hiệu đối với một số sản phẩm
Trong khi trước đây, gã khổng lồ ngành FMCG Unilever vốn coi mục đích của thương hiệu (Brand Purpose) là trọng tâm cho các thương hiệu của mình, CEO mới dường như đang thay đổi quan điểm này, ít nhất là với một số danh mục sản phẩm nhất định.
Theo thông tin được công bố, cựu giám đốc tài chính (CFO) Hein Schumacher đã được bổ nhiệm đảm nhận vai trò CEO của Unilever từ tháng 7. Trong một chia sẻ mới đây với các nhà đầu tư, tân CEO này cho biết rằng công ty sẽ ngừng theo đuổi cái gọi là mục đích thương hiệu đối với một số sản phẩm nhất định.
Quan điểm của CEO mới được đưa ra trong bối cảnh nhiều nhà đầu tư đang phản đối cách tiếp cận tập trung vào mục đích thương hiệu và bỏ qua yếu tố tăng trưởng của cựu CEO Unilever Alan Jope.
Tuy nhiên, CEO Schumacher không bác bỏ hoàn toàn khái niệm về mục đích thương hiệu, đồng thời cũng thừa nhận nhiều giá trị mà Unilever đã có được với chiến lược này, vấn đề là ông cho rằng khái niệm này đơn giản là không phù hợp với một số danh mục sản phẩm.
Ông nói: “Khi được thực hiện tốt, mục đích thương hiệu có thể mang lại hiệu quả cao”, đồng thời chỉ ra những ví dụ thành công của các nhãn hàng như Dove và Lifebuoy.
Ông nói thêm: “Nhưng chúng tôi sẽ không áp dụng điều này với toàn bộ danh mục sản phẩm, đối với một số thương hiệu, nó đơn giản là không phù hợp.”
Trong những năm gần đây, không chỉ trong ngành hàng tiêu dùng nhanh (FMCG), các cuộc tranh luận xoay quanh tính bền vững và mục đích của thương hiệu đang trở nên “nóng” hơn bao giờ hết.
Về cơ bản là trái ngược với cựu CEO, người kế nhiệm Schumacher tuyên bố rằng ông coi mục đích thương hiệu là động lực tăng trưởng cho một số thương hiệu nhất định, ông cho biết cách tiếp cận này của Unilever đã không thể thúc đẩy hay nâng cao ý nghĩa của cái gọi là mục đích.
CEO này đang tìm cách tách các chương trình phát triển bền vững tổng thể của doanh nghiệp ra khỏi ý tưởng tích hợp mục đích xã hội hoặc môi trường (CSR) vào mọi đề xuất thương hiệu.
Thúc đẩy văn hóa hiệu suất.
Một ưu tiên khác của Unilever cũng được CEO Schumacher vạch ra đó là cam kết thúc đẩy “văn hóa hiệu suất” tại Unilever.
Ông nói: “Chúng tôi có một nền tảng gồm nhiều tài năng xuất sắc trên toàn cầu, nhưng chúng tôi lại không có văn hóa hiệu suất phù hợp.” Điều này có nghĩa là từ CEO đến nhân viên của Unilever cần tập trung vào ít việc hơn nhưng làm tốt hơn.
CEO này cũng cho biết, để thực hiện tốt chiến lược mới, một số vai trò như CMO (Giám đốc Marketing) hay CGO (Giám đốc Tăng trưởng) sắp tới cũng sẽ được bổ nhiệm.
Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer
Khi mảng giải khát khó khăn thì doanh số của Pepsi thường được “cứu” bởi những loại sản phẩm khác như đồ ăn vặt, nhưng tình hình thắt chặt chi tiêu năm nay khiến chiến lược đa dạng hóa sản phẩm của hãng mất tác dụng.
Báo cáo kết quả kinh doanh gần đây của Pepsi và Coca Cola dù đã vượt mức dự báo của các chuyên gia nhưng cổ phiếu của 2 hãng này lại không mấy liên quan.
Thay vào đó, các nhà đầu tư Phố Wall lại lo lắng việc lãi suất tăng cao cùng xu thế ăn uống lành mạnh để giảm cân sẽ ảnh hưởng lớn đến tương lai của toàn ngành.
Dẫu vậy nhìn cụ thể thì Coca Cola vẫn nhỉnh hơn Pepsi trong vài quý qua nhờ chiến lược tập trung và nhượng quyền đóng chai hiệu quả của mình.
Theo CNBC, thông thường kết quả kinh doanh của Coca Cola sẽ nhỉnh hơn một chút so với Pepsi trong suốt nhiều thập niên và lần này cũng không ngoại lệ. Doanh thu của Coca đạt 11,91 tỷ USD còn Pepsi là 11,44 tỷ USD sau khi đã điều chỉnh lạm phát.
Tổng mức vốn hóa thị trường của Coca sau khi công bố báo cáo kết quả kinh doanh quý III/2023 đạt 242 tỷ USD, cao hơn 20 tỷ USD so với đối thủ Pepsi.
Cả 2 gã khổng lồ ngành F&B này đều có kết quả kinh doanh quý III cao hơn so với dự báo trước đó của các chuyên gia, qua đó nâng mục tiêu dự kiến cho cả năm 2023.
Trong khi nhu cầu tăng cao khiến Coca dễ dàng nâng mức dự báo này thì Pepsi lại bị cho là gặp một số thách thức trong quản lý chi phí nhằm giữ được mức lợi nhuận cho cả năm.
Thật vậy, báo cáo cho thấy chỉ riêng Coca là hãng giữ được đà tăng trưởng doanh số theo đơn vị (Volume). Trong khi Coca tăng trưởng 2% doanh số theo đơn vị trong quý III thì Pepsi lại đi ngang, thậm chí riêng mảng thực phẩm còn giảm 1,5%.
Tại thị trường Bắc Mỹ, sự chênh lệch giữa 2 đối thủ truyền kỳ này còn lớn hơn nữa khi Coca báo cáo doanh số đơn vị đi ngang còn Pepsi thì giảm 6%.
Hệ quả là Coca nâng mức dự báo doanh số lẫn lợi nhuận cho cả năm 2023 nhưng Pepsi thì lại chỉ dự báo dè dặt, qua đó cho thấy nhu cầu nước giải khát dù tăng trưởng cũng chưa đủ để giải quyết các khó khăn cho hãng.
Thương hiệu.
Hãng tin CNBC nhận định trong khi Coca vẫn tập trung phát triển thương hiệu truyền thống của mình và thu hút người tiêu dùng thì Pepsi trong thời gian qua lại chủ yếu tập trung hồi sinh một số thương hiệu không phải nước ngọt có ga như Gatorade.
“Coca đã làm xói mòn thị phần của Pepsi trong mảng nước ngọt có ga truyền thống suốt nhiều quý qua”, chuyên gia phân tích Nik Modi của RBC Capital Market nhận định.
Khi mảng kinh doanh đồ uống gặp khó, Pepsi thường được “cứu” nhờ doanh số từ những phân khúc sản phẩm khác như đồ ăn vặt.
Tuy nhiên trong năm nay, người tiêu dùng thắt chặt hầu bao thì chẳng có mảng nào cứu được Pepsi cả.
“Một nguyên nhân chính khiến đồ ăn vặt ở Mỹ hấp dẫn người tiêu dùng là nó có thể thay thế phần nào cho những bữa ăn.
Dù vậy, khi giá đồ ăn vặt tăng lên trong bối cảnh thắt chặt chi tiêu hiện nay thì người dân sẽ chọn những thương hiệu rẻ tiền hơn hoặc dọn nốt đồ thừa trong tủ lạnh”, chuyên gia Modi nhận định.
Ngoài ra, việc Pepsi cắt bỏ nhiều chương trình khuyến mãi dù giúp tăng lợi nhuận thì lại làm giảm 2,5% doanh số theo đơn vị ở thị trường Bắc Mỹ.
Đóng chai.
Theo CNBC, sự khác biệt lớn nữa giữa Coca và Pepsi không chỉ nằm ở danh mục đầu tư mà còn ở mảng nhượng quyền đóng chai.
Thông thường, Coca sẽ làm việc với các nhà máy đóng chai độc lập để thuê ngoài (OutSource) quá trình sản xuất, đóng gói và vận chuyển đến các điểm phân phối.
Những nhà máy đóng chai địa phương này hiểu rõ thị trường và khách hàng của mình để có thể đưa ra quyết định sáng suốt nhất ngay lập tức.
Trái lại, Pepsi sở hữu đến 3/4 nhà máy đóng chai ở Bắc Mỹ.
Dù mục tiêu của chiến lược này là cắt giảm chi phí cũng như kiểm soát chất lượng nhưng chúng cũng đòi hỏi phân phối nhiều nguồn lực của hãng hơn trong mảng nước giải khát, vốn đã bị xói mòn về nhu cầu trong 20 năm qua vì xu thế ăn uống lành mạnh.
“Sự khác biệt về chiến lược nhượng quyền đóng chai hiện đã cho thấy rõ hiệu quả và tác hại của nó”, chuyên gia Modi nhận định.
Chiến lược giá.
Ở khía cạnh chiến lược giá, Coca Cola đã nâng giá sản phẩm vào mùa thu năm 2021 do chi phí nguyên liệu tăng cao vì đứt gãy chuỗi cung ứng hậu đại dịch. Sau đó Pepsi cũng theo sát để nâng giá sản phẩm của mình vào mùa hè cùng năm.
Trong suốt 2 năm này, việc nâng giá sản phẩm đã thúc đẩy doanh số theo giá trị của cả 2 ông lớn trong ngành giải khát.
Vào đầu năm 2023, Pepsi quyết định hoãn việc tiếp tục tăng giá theo kế hoạch sang năm 2024, trong khi Coca vẫn giữ nguyên chiến lược chuyển chi phí đầu vào đi lên sang cho người tiêu dùng của mình.
Dù vậy để xoa dịu người tiêu dùng, CEO James Quincey của Coca Cola vào tháng 7/2023 đã tuyên bố rằng công ty sẽ ngừng tăng giá cho thị trường Mỹ và Châu Âu.
Tuy nhiên, do độ trễ về thời gian triển khai chiến lược giá giữa các thị trường mà giá Coca ở thị trường Bắc Mỹ chỉ tăng 5% trong quý III, còn Pepsi lại tăng đến 12%.
“Mức giá càng tăng thì ảnh hưởng càng lớn đến doanh số khi nền kinh tế khó khăn và người tiêu dùng thắt chặt chi tiêu”, chuyên gia phân tích Edward Jone s của Brittany Quatrochi nhận định.
Thu lợi từ rạp chiếu phim.
Trong báo cáo kết quả kinh doanh quý III của mình, Coca cho biết một nửa doanh số của hãng đến từ hoạt động kinh doanh như rạp chiếu phim hay nhà hàng.
Việc người dân tích cực ra ngoài sau thời gian dài bị giãn cách trong đại dịch đã thúc đẩy mạnh doanh số của hãng.
CEO Quincey cho hay tăng trưởng doanh số từ các hoạt động bên ngoài (Away From Home) như trên cao hơn nhiều so với mảng kinh doanh cho khách hàng đem về nhà (At Home Business).
“Mảng kinh doanh cho các hoạt động bên ngoài đang tăng trưởng mạnh, không chỉ rạp chiếu phim hay nhà hàng mà là toàn bộ hoạt động giải trí, du lịch, khách sạn…đều tăng trưởng”, CEO Quincey hồ hởi.
Xin được nhắc là Coca Cola đã phục vụ sản phẩm của mình tại nhiều rạp chiếu phim hay chuỗi nhà hàng, ví dụ như McDonald’s ở Mỹ.
Trái lại, Pepsi lại tụt hậu so với Coca trong mảng kinh doanh bên ngoài dù hợp tác được với một số chuỗi thương hiệu lớn như Yum-chủ sở hữu của Taco Bell.
Thị trường quốc tế.
Theo CNBC, một yếu tố nữa giúp Coca thắng thế Pepsi là do sự hồi phục của thị trường quốc tế bên ngoài Mỹ.
Số liệu của FactSet cho thấy khoảng 40% doanh thu của Pepsi đến từ thị trường ngoài Mỹ nhưng con số này lên đến 60% với Coca Cola.
“Những thị trường quốc tế ngoài Mỹ đang tăng trưởng mạnh trở lại”, chuyên gia Esward Jones Quatrochi nhận định.
Thông thường, các thị trường quốc tế sẽ bù đắp được cho mảng kinh doanh nội địa lúc bết bát, ví dụ như khi doanh số mảng giải khát theo đơn vị của Pepsi tại Bắc Mỹ giảm 6%. Thế nhưng không phải thị trường (market) quốc tế nào cũng “cứu” được Pepsi.
Tại một số nền kinh tế như Argentina hay Thổ Nhĩ Kỳ, tình trạng siêu lạm phát đã khiến Coca hay Pepsi đều phải tăng giá sản phẩm mạnh hơn nhiều dù đã tạm dừng động thái này ở Mỹ và Châu Âu, qua đó ảnh hưởng đến doanh thu.
Bên cạnh đó, đồng USD tăng giá đã làm xói mòn doanh thu lẫn thu nhập của 2 hãng này khi quy đổi. Đồng thời, giá nguyên liệu sẽ còn tiếp tục tăng do lãi suất và lạm phát leo thang ở nhiều nơi.
Rõ ràng, năm 2023 sẽ là một năm đầy thách thức cho cả Pepsi lẫn Coca Cola, nhưng có vẻ một bên đang thắng thế nhờ những chiến lược đúng đắn của mình.
Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer
Với tư cách là những người làm marketing hay người xây dựng thương hiệu, nguyên lý nền tảng là thương hiệu của bạn cần đại diện cho một điều gì đó thực sự có sức ảnh hưởng, có ý nghĩa, nếu không, sẽ chẳng có người tiêu dùng nào lắng nghe thương hiệu cả.
Mỗi thương hiệu cần đại diện cho một điều gì đó thực sự có sức ảnh hưởng
Hãy thử nhìn vào các thương hiệu lớn như Nike, Starbucks hay Mercedes, có một điểm chung giữa các thương hiệu này đó là “họ không chỉ bán sản phẩm” mà “bán văn hoá”, “bán thương hiệu” và hơn thế nữa.
Trong cuộc đua xây dựng thương hiệu, tính năng hay lợi ích trực tiếp của sản phẩm (yếu tố vật lý) là điều kiện cần, và những giá trị tinh thần gắn liền với thương hiệu hay những gì mà thương hiệu đại diện là điều kiện đủ.
Để làm sáng tỏ điều này, ông Marcus Collins, hiện là Giáo sư Marketing của Đại học Michigan và cũng là trưởng bộ phận chiến lược tại Wieden+Kennedy, đã dành nhiều tâm huyết để nghiên cứu cách các thương hiệu có thể tận dụng yếu tố tinh thần mà cụ thể ở đây là giá trị văn hóa để kết nối với khách hàng.
Theo ông, văn hóa có sức ảnh hưởng lớn đến cách người tiêu dùng ra quyết định mua hàng và với tư cách là marketer, bạn có thể tận dụng nó khi xây dựng thương hiệu.
Bên dưới là chi tiết cuộc trò chuyện về chủ đề này với Giáo sư Marcus Collins.
Cụm từ “văn hóa” được sử dụng khá rộng rãi trong thế giới Marketing và Quảng cáo, vậy trong bối cảnh này, văn hoá thực chất là gì và làm thế nào để có thể tận dụng nó trong việc kết nối với các nhóm khách hàng mục tiêu?
Marcus Collins: Trong Marketing, tôi thường nghe thấy những câu kiểu như: ‘Hãy tận dụng yếu tố văn hoá’ hay ‘Hãy sử dụng văn hoá làm nền tảng khi truyền thông?’ Tuy nhiên, nếu bạn thử hỏi ai đó văn hoá là gì, chắc chắn bạn sẽ nhận được vô số các câu trả lời khác nhau, thậm chí là mỗi người có một cách định nghĩa khác nhau về cái gọi là văn hoá.
Vì vậy, điều quan trọng ở đây là làm thế nào để chúng ta có thể sử dụng chung một loại ngôn ngữ, cùng nói về nó theo cùng một góc nhìn.
Khi bạn có ngôn ngữ đó (với khách hàng của mình), thì bạn có thể vận hành nó và khai thác nó theo cách có thể khiến mọi người chấp nhận nó, bởi vì không có tác động bên ngoài nào làm ảnh hưởng đến hành vi của con người nhiều hơn yếu tố văn hóa.
Với tư cách vừa là Giáo sư Marketing, vừa là trưởng bộ phận chiến lược của một doanh nghiệp, ông hy vọng mọi người trong lĩnh vực Marketing và Quảng cáo sẽ tiếp cận chủ đề này như thế nào?
Marcus Collins: Ở cấp độ đơn giản nhất, những người làm marketing có thể tận dụng yếu tố văn hoá để khiến khách hàng của họ thay đổi quan điểm, và sau đó là khiến họ từng bước hành động.
Với tư cách là một marketer, việc tác động đến hành vi của khách hàng để bán được nhiều hơn hay có được nhiều lượng tương tác hơn là chưa đủ.
Bởi vì marketer cũng là người tiêu dùng, họ cũng cần khiến khách hàng ý thức được những gì họ đang làm, đang mua, hay nói cách khác, khách hàng cần hành động một cách có chủ đích, những hành động thực sự mang lại ý nghĩa cho cuộc sống của họ.
Nói rộng hơn, marketer phải biết rằng họ là một phần của một cộng đồng lớn hơn mà chúng ta vẫn gọi là xã hội (society), từ góc nhìn này, họ phải có trách nhiệm với những người mà họ tương tác.
Ông từng nói, “Đó không phải là về Marketing hay công nghệ, sản phẩm, dịch vụ hay mô hình kinh doanh. Mà tất cả là về con người.
Trong khi phần lớn các agency hay marketer vẫn tự cho là họ hiểu rất rõ vấn đề này, có không ít thương hiệu hiện vẫn chạy theo các xu hướng (Trends) một cách điên cuồng. Vậy rào cản hoặc thách thức lớn nhất đang kìm hãm họ là gì?
Marcus Collins: Trong thế giới marketing và thương hiệu, việc bạn làm gì không quan trọng bằng việc hiểu rõ khách hàng của bạn là ai và họ đang quan tâm đến điều gì.
Chúng ta kết nối với khách hàng dựa trên việc thấu hiểu họ hơn là chỉ nghĩ về những gì chúng ta bán. Đó không phải là lý thuyết hay khái niệm về marketing, đó là hành trình hiểu về con người.
Đó là quá trình khám phá điều gì đã làm thúc đẩy hành vi của con người, cho dù họ có ý thức được về điều đó hay không.
Điều này vượt ra khỏi các đề xuất giá trị (USP) của các sản phẩm hay dịch vụ mà chúng ta có thể mang đến cho người tiêu dùng, mà thay vào đó là cách kết nối với mọi người dựa trên cách họ nhìn thế giới.
Khi các marketer hay thương hiệu nhìn nhận được điều này, họ sẽ không còn chỉ quan tâm đến những gì họ làm, mà là tại sao họ lại làm điều đó, cách họ nhìn thế giới hoặc niềm tin của họ với những gì họ đang làm.
Nếu tôi là Nike, tôi sẽ không đặt mình gói gọn trong phạm vi ngành giày thể thao, là những chiếc sneakers khô khan, mà tôi sẽ thuộc ngành “mỗi con người là một vận động viên”.
Vì vậy, dù tôi có thể làm gì miễn là để hỗ trợ các vận động viên trở thành một phiên bản tốt nhất của chính họ, đó là công việc kinh doanh của tôi. Đây chính là đỉnh cao của quá trình xây dựng thương hiệu để tạo ra sức mạnh thương hiệu (Brand Power).
Những người làm marketing theo đó phải vượt ra khỏi những hiểu biết thông thường về Marketing rằng nó tất cả là về sản phẩm và sự phù hợp của sản phẩm với người tiêu dùng.
Khi bạn giao tiếp với khách hàng ở góc độ mua bán (một cuộc giao dịch), bạn vẫn có thể bán được một ít. Nhưng nếu đó là về sự hoà quyện về văn hoá, thì đó là niềm tin và sự trung thành, đây mới là nền tảng của thương hiệu.
Các thương hiệu nên suy nghĩ như thế nào về việc điều hướng văn hóa?
Marcus Collins: Như tôi đã nói, bối cảnh văn hóa rất phức tạp và khá phân cực (polarization), do đó, rất nhiều thương hiệu đã chọn cách an toàn đó là cố gắng ngồi ở giữa và không dám phá vỡ bất kỳ cực nào.
Theo kinh nghiệm của tôi, tính trung lập không thực sự là một lựa chọn khả thi. Bởi vì bạn đang đi xây dựng niềm tin, bạn cần phải cho khách hàng hay đối tượng mục tiêu của bạn biết rõ bạn là ai và bạn đang (sẵn sàng) đại diện cho điều gì?
Trong khi, bạn cũng có thể nói rằng bạn không đại diện cho bất cứ điều gì cả và đơn giản chỉ là bạn muốn có mối quan hệ mua bán với khách hàng của mình.
Với những gì đang diễn ra, rõ ràng là nếu có một sản phẩm hay thương hiệu nào đó cung cấp những tính năng tốt hơn ví dụ như một chiếc xe hơi chạy nhanh hơn hay một loại dầu gội giúp làm sạch gàu hơn, bạn sẽ khó có thể giữ chân được khách hàng của mình.
Đây chính là lúc mà các giá trị về văn hoá, những gì bạn đại diện hay niềm tin của khách hàng đóng vai trò then chốt.
Bạn nhìn thế giới như thế nào và bạn sẵn sàng ủng hộ điều gì? Khách hàng của bạn cũng cần điều đó.
Thương hiệu của bạn là một thứ gì đó ẩn chứa nhiều ý nghĩa và những ý nghĩa đó vốn dĩ không do bạn kiểm soát và sở hữu. Nó thuộc về tâm trí của khách hàng.
Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer
Theo CNBC, công ty startup trí tuệ nhân tạo (AI) Anthropic cho biết Google đã đầu tư ban đầu 500 triệu USD và sẽ bổ sung 1,5 tỷ USD trong tương lai.
Google đầu tư 2 tỷ USD vào đối thủ của OpenAI
Công ty được thành lập vào năm 2021 bởi hai cựu lãnh đạo OpenAI, Dario Amodei và em gái ông – Daniela Amodei. Nhiều cựu nhân viên nghiên cứu của OpenAI cũng tham gia vào nhóm sáng lập của Anthropic.
Đầu năm 2023, Anthropic được định giá 4,1 tỉ USD. Vào tháng 4, Google từng đầu tư 300 triệu USD vào Anthropic và nắm giữ 10% cổ phần.
Anthropic là công ty đứng sau Claude 2, chatbot đối thủ của ChatGPT. Claude 2 có khả năng tóm tắt văn bản lên tới khoảng 75.000 từ, bằng độ dài của một cuốn sách.
Người dùng có thể nhập các tập dữ liệu lớn và yêu cầu chatbot tóm tắt nội dung dưới dạng bản ghi nhớ, thư hoặc câu chuyện. Trong khi đó, ChatGPT chỉ có thể xử lý khoảng 3.000 từ.
Vào tháng 7, Daniela Amodei cho biết Anthropic đã dành ít nhất 2 tháng để phát triển chatbot mới nhất, công ty có một nhóm nhân viên từ 30 – 35 người đang làm việc trực tiếp trên mô hình AI và có tổng cộng 150 người hỗ trợ.
Theo nghiên cứu của nền tảng giám sát máy học (machine learning) Arthur AI, Claude 2 là chatbot đáng tin cậy nhất về mặt tự nhận thức, nghĩa là khả năng đánh giá chính xác những gì nó biết và không biết. Ngoài ra, Claude 2 chỉ trả lời những câu hỏi mà nó có dữ liệu đào tạo.
Anthropic cũng nằm trong 4 công ty được mời tham dự cuộc họp tại Nhà Trắng để thảo luận về việc phát triển AI có trách nhiệm với Phó tổng thống Mỹ Kamala Harris. Tiếp đó, Anthropic huy động được 450 triệu USD vào tháng 5.
Trước đó, Amazon cũng đầu tư 4 tỉ USD vào Anthropic để cạnh tranh phát triển AI. Số tiền đầu tư ngày càng tăng cho thấy các công ty điện toán đám mây đang nỗ lực đảm bảo mối quan hệ hợp tác với những công ty startup AI trong bối cảnh AI là xu hướng mới của ngành công nghệ.
Theo một số chuyên gia, trong tương lai, các công ty AI sẽ là nhóm khách hàng quan trọng của những “ông lớn” điện toán đám mây.
Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer
Google Ads vừa thông báo thêm chủ đề tìm kiếm (Search themes) vào Performance Max với mục tiêu thúc đẩy hiệu suất quảng cáo.
Google Ads thêm giải pháp tối ưu mới vào Performance Max
Theo giải thích của Google Ads, Chủ đề tìm kiếm (Search Themes) là một cách mới để nhà quảng cáo cung cấp thêm thông tin về doanh nghiệp (ví dụ: các chủ đề nào có thể dẫn đến chuyển đổi) hoặc khách hàng (ví dụ: từ khoá tìm kiếm mà khách hàng của bạn có thể sử dụng) để giúp cải thiện hiệu suất quảng cáo.
“Khi thêm các chủ đề tìm kiếm, bạn đang thông báo cho Google AI biết rằng bạn đang muốn nhận được lượng truy cập liên quan đến chủ đề đó trong chiến dịch Performance Max trên tất cả không gian quảng cáo của Google Ads, bao gồm Tìm kiếm, YouTube, Gmail, Khám phá, Maps và Hiển thị. Chủ đề tìm kiếm cũng giúp bạn tìm thấy khách hàng tiềm năng trên các kênh dựa trên hành vi tìm kiếm của người dùng.”
Google cũng nhấn mạnh rằng đối với không gian quảng cáo trên tìm kiếm, “các từ khóa khớp chính xác giống hệt với từ khoá tìm kiếm của người dùng sẽ được ưu tiên hơn so với các chủ đề tìm kiếm và các từ khóa khác.” Với chủ đề tìm kiếm, chiến dịch Performamce Max có thể dự đoán hiệu suất ở cấp chiến dịch.
Nhà quảng cáo có thể thêm 25 chủ đề tìm kiếm riêng biệt cho mỗi nhóm nội dung.
Chủ đề tìm kiếm sẽ có mức độ ưu tiên giống như đối sánh từ khoá cụm từ và đối sánh từ khóa rộng trong chiến dịch tìm kiếm.
Nhà quảng cáo sẽ có thể xem các danh mục tìm kiếm phù hợp với quảng cáo trong phần thông tin chi tiết về cụm từ tìm kiếm (search terms insights) ở cả cấp độ chiến dịch và cấp độ tài khoản.
Bạn có thể xem chi tiết về Google Ads Search Themes trong Performance Maxtại đây.
Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer
Lạm phát ở nhiều quốc gia chưa có dấu hiệu suy giảm, tác động lên mọi mặt của cuộc sống với giá xăng cao ngất ngưởng, hay giá đồ uống, thực phẩm đều tăng phi mã. Trong khi đó, ngành du lịch lại rất cần du khách tham quan và chi tiêu để tăng doanh thu những tháng cuối năm.
Du lịch và bán lẻ các nước có gì khác trong mùa Halloween 2023
Với cam kết giúp người dân trải qua một mùa Halloween an toàn, Hàn Quốc sẽ tiến hành kiểm tra 6 khu vực đông đúc từ ngày 23/10, bao gồm ga Itaewon và Gangnam. Những con đường gần những khu vực này sẽ chỉ cho phép giao thông một chiều vào dịp cuối tuần Halloween.
Dự kiến vào ngày 27/10 trước khi Halloween diễn ra, các cuộc kiểm tra và mô phỏng chung sẽ tiếp tục được mở rộng tại 14 địa điểm ở Seoul thường có đông người tụ tập.
Thủ đô Seoul cũng sẽ lắp đặt 909 camera giám sát trong năm 2023, tập trung chủ yếu vào 70 khu vực được đánh giá là thu hút giới trẻ và du khách. Các camera giám sát này sẽ được lắp đặt hệ thống tự động đếm số người.
Nếu số người tụ tập ở một số khu vực nhất định trở nên quá cao, hệ thống sẽ tự động báo lại cho các phòng cấp cứu ở từng văn phòng quận, văn phòng chính quyền thành phố, sở cứu hỏa và sở cảnh sát. Tất cả những biện pháp trên được đưa ra nhằm tránh việc lặp lại thảm họa chen lấn cũng vào dịp Halloween năm 2022.
Nỗi đau vẫn chưa nguôi đối với người dân Hàn Quốc nên các sự kiện và lễ hội liên quan đến chủ đề Halloween hầu như đã biến mất hoàn toàn trong năm nay.
Đáng chú ý, các công viên giải trí vốn có truyền thống thu hút du khách ghé thăm bằng lễ Halloween cũng đang có những thay đổi rõ rệt.
Lotte World – khu phức hợp giải trí lớn tại Jamsil năm nay trang trí công viên theo chủ đề truyện tranh, thay vì những ngôi nhà ma, các màn trình diễn thây ma hay trang trí toàn bộ công viên theo chủ đề Halloween như mọi năm.
Tương tự, Everland – một công viên giải trí nổi tiếng khác ở Yongin, tỉnh Kyunggi, đã chọn “Mừng lễ tạ ơn” làm chủ đề cho lễ hội năm nay.
Khu vườn Bốn Mùa của công viên được trang trí bằng hoa và trái cây mùa thu và sẽ ra mắt một lễ diễu hành theo chủ đề thế giới mộng ảo thay vì diễu hành theo chủ đề Halloween. Ngay cả những lễ hội địa phương tập trung vào các bữa tiệc chủ đề Halloween cũng bị hủy bỏ.
Theo Pulsen News, Hàn Quốc đang chuẩn bị cho một Halloween lặng lẽ. Các chuỗi bán lẻ, siêu thị, trung tâm thương mại lớn không quảng cáo các sản phẩm liên quan đến Halloween và bán các sản phẩm về “lễ hội ma” ít hơn 40% so với các năm trước.
Các khách sạn lớn giảm bớt sự chú trọng vào Halloween trong khi một loạt thương hiệu thực phẩm và đồ uống quyết định không sản xuất bộ sưu tập riêng cho Halloween.
Tương tự tại Nhật Bản, chính quyền quận Shibuya yêu cầu người dân, du khách không tổ chức tụ tập nhân lễ Halloween ở khu vực này từ 27 đến 31/10.
Theo CNN, trong thông báo phát đi, chính quyền địa phương cho biết lượng du khách đổ xô đến đây quá đông đã dẫn đến nhiều rắc rối như say xỉn trên đường phố, ẩu đả, xả rác.
“Dịp Halloween hằng năm khu vực quanh ga Shibuya đông đến mức gần như không thể di chuyển”, thông báo cho biết.
Việc dỡ bỏ lệnh hạn chế đi lại hậu Covid-19 đã khiến lượng du khách nước ngoài đổ về Shibuya tăng bùng nổ trở lại, tương đương mức trước đại dịch.
“Mối quan tâm chính là ai sẽ chịu trách nhiệm nếu tai nạn xảy ra”, giáo sư nói, cho biết thêm rằng các cửa hàng có lẽ sẽ không sẵn sàng bỏ lỡ dịp kinh doanh hái ra tiền này. “Các bên liên quan cần cân nhắc xem nên ưu tiên cho sự an toàn hay kiếm tiền.
Tất nhiên, an toàn phải được đặt lên hàng đầu nhưng rất nhiều doanh nghiệp địa phương sẽ quan tâm đến lợi nhuận”.
Chính quyền địa phương cũng sẽ tăng đáng kể số lượng nhân viên viên an ninh, kể cả tại điểm tụ tập nổi tiếng Center-Gai. Ông Hasebe nói: “Du lịch phát triển quá mức là một vấn đề ở Nhật Bản, nhưng tình hình ở Shibuya còn nghiêm trọng hơn thế nhiều.
Với tư cách là quận trưởng, tôi rất đau lòng khi phải yêu cầu mọi người đừng đến, nhưng chúng tôi làm điều này để ưu tiên sự an toàn”. Các quan chức lo ngại số lượng người vui chơi ở Shibuya có thể vượt quá 60.000 trong năm nay trừ khi có biện pháp đối phó.
Halloween là ngày lễ phổ biến với giới trẻ Nhật Bản. Thay vì đi xin kẹo hay ghé thăm các ngôi nhà ma ám, họ coi đây là dịp để tiệc tùng, uống rượu. Do đó, ngoài hạn chế tiệc tùng, giới chức ban lệnh cấm uống rượu trên đường phố từ 18h đến 5h trong khoảng thời gian trước Halloween 5 ngày.
Các quán rượu trong khu vực cũng được khuyến khích không bán rượu cho khách trong thời gian này. Cảnh sát sẽ được cắt cử canh chừng nhằm đảm bảo an toàn. “Chúng tôi muốn nói với cả thế giới rằng năm nay Shibuya không phải nơi tổ chức tiệc tùng Halloween”, người đứng đầu quận Shibyuya Ken Hasebe nói.
Trong khi đó tại Mỹ, mặc dù đang phải đối mặt với áp lực từ chi phí sinh hoạt tăng cao, ghi nhận tại nhiều thành phố lớn cho thấy, sự chuẩn bị của người dân Mỹ trước thềm Halloween vẫn rất sôi động.
Theo khảo sát hàng năm của Liên đoàn Bán lẻ Quốc gia (NRF) do Prosper Insights & Analytics thực hiện, người tiêu dùng dự kiến sẽ chi mức kỷ lục 12,2 tỷ USD các sản phẩm kẹo, trang phục và đồ trang trí Halloween trong năm nay.
Mức chi tiêu này ương đương 108,24 USD mỗi người cho dịp lễ hội đặc biệt này, tăng từ mức 100,45 USD so với năm 2022.
Mặt khác, cuộc khảo sát của NRF cũng chỉ ra rằng người tiêu dùng vẫn đang khám phá thêm các phương thức để tiết kiệm chi phí vì 40% số người được khảo sát dự định mua sắm Halloween tại các cửa hàng giảm giá, tiếp theo là 39% mua sắm tại các cửa hàng Halloween đặc biệt và 32% mua sắm tại các cửa hàng trực tuyến.
Trang phục là nguồn tạo doanh thu lớn nhất cho dịp lễ năm nay và dự kiến sẽ mang lại 4,3 tỷ USD cho các nhà sản xuất.
Tiếp theo đó là đồ trang trí Halloween ước tính sẽ tạo ra 4,1 tỷ USD và bánh kẹo là 3,8 tỷ USD. Phil Rist, phó chủ tịch cấp cao về chiến lược của đơn vị đã thực hiện cuộc thăm dò năm 2022 của NRF là Prosper Insight, cho biết: “Các nền tảng mạng xã hội ngày càng đóng vai trò quan trọng trong hành vi của khách hàng và Halloween cũng không phải ngoại lệ.”
Năm nay, những người mua sắm trẻ tuổi, đặc biệt là những người dưới 25, sẽ tìm đến các mạng xã hội như Instagram và TikTok để tìm ý tưởng về trang phục.
Với hơn 20.000 lựa chọn, Creatures of Habit, một cửa hàng trang phục ở Paducah, có đủ mọi bộ quần áo đáp ứng nhu cầu đa dạng của khách hàng. Năm nay, lạm phát đã khiến nhiều người tới đây để thuê trang phục thay vì mua.
Thậm chí có nhiều du khách dự định đến Mỹ du lịch còn thuê trang phục trước nhiều tuần. “Giá các vật tư như móc treo quần áo, túi ni lông, chỉ may… đều tăng. Nhưng chúng tôi quyết không tăng giá để mọi người ai cũng có một mùa lễ Halloween trọn vẹn”, chủ cửa hàng nói.
Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer
Ông Nguyễn Đăng Quang, Chủ tịch của Masan Group lần đầu lọt vào danh sách tỷ phú của Forbes kể từ năm 2018.
Chủ tịch Masan Nguyễn Đăng Quang rời khỏi danh sách tỷ phú đô la của Forbes
Theo cập nhật mới nhất Forbes, ông Nguyễn Đăng Quang – Chủ tịch HĐQT tập đoàn Masan (Masan Group) đã rời khỏi bảng xếp hạng các tỷ phú đô la trên thế giới. Hiện nay, Việt Nam chỉ còn 5 tỷ phú bao gồm ông Phạm Nhật Vượng, bà Nguyễn Thị Phương Thảo, ông Trần Đình Long, ông Trần Bá Dương và ông Hồ Hùng Anh.
Sự sụt giảm liên tục gần đây của cổ phiếu MSN – cổ phiếu ông Đăng Quang đang nắm giữ thông qua các pháp nhân khác nhau chiếm phần lớn trong tài sản là nguyên nhân khiến doanh nhân này rời bảng xếp hạng tỷ phú của Forbes.
Theo đó, kết thúc phiên giao dịch ngày 27/10, cổ phiếu MSN có giá 57.800 đồng/cp, giảm 38% so với đầu năm. Đây cũng là mức giá thấp nhất của cổ phiếu này trong 2 năm qua.
Ông Nguyễn Đăng Quang sinh năm 1963 ở Quảng Trị, tốt nghiệp Tiến sĩ Vật lý hạt nhân tại Viện Hàn lâm khoa học Belarus.
Sau khi học xong, ông không về nước mà ở lại Nga lập nghiệp. Ông Quang bắt đầu khởi nghiệp từ những năm 1990 thông qua việc bán mì gói cho những người Việt sinh sống tại đây, sau đó đầu tư sang đậu nành, cá và tương ớt.
Đến năm 2002, ông Quang đưa Masan trở về quê nhà bằng việc tung ra thị trường sản phẩm đầu tiên: nước tương Chinsu.
Kể từ đây, nhiều thương hiệu của doanh nghiệp này trở thành sản phẩm quen thuộc trong các món ăn của gia đình Việt như: Tương ớt Chinsu, nước mắm Nam Ngư, mỳ Omachi, xúc xích Ponnie, cà phê Vinacafe … Masan Group hiện là một trong những doanh nghiệp lớn nhất trong mảng thực phẩm và đồ uống, cũng là một trong những công ty có vốn hóa lớn nhất thị trường chứng khoán.
Ông Nguyễn Đăng Quang lần đầu lọt vào danh sách tỷ phú của Forbes kể từ năm 2018. Ngoài việc làm Chủ tịch của Masan Group, vị doanh nhân này còn là thành viên HĐQT của Techcombank.
Hiện Masan là một trong những công ty lớn nhất ngành FMCG tại Việt Nam với doanh thu gần 80.000 tỷ năm 2022.
Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer
Nhảy việc cuối năm là đánh đổi tất cả những cố gắng của bạn trong suốt một năm qua. Điều này là đúng hay sai? Nhảy việc thời điểm nào thì sẽ phù hợp?
Các thời điểm vàng để nhảy việc thành công
Thời gian nhảy việc phù hợp
Các chuyên gia về tuyển dụng và nhân sự trên thế giới cho rằng ở bất cứ quốc gia nào và thị trường lao động nào, các doanh nghiệp hầu như đều ít nhiều gặp biến động về nhân sự thời điểm đầu năm hoặc sau kỳ nghỉ Tết dài. Thực tế nếu xét về góc độ thời gian, có lẽ đây là lúc khá phù hợp nếu bạn đang có dự định nhảy việc bởi một vài lý do như:
Một là, bạn đã trải qua một kỳ nghỉ Tết đủ dài để refresh bản thân và đang rất sẵn sàng cho một nơi làm việc mới với những đồng nghiệp mới.
Hai là, nếu nghỉ vào giữa năm hoặc cuối năm, bạn rất khó để nhận được khoản thưởng Tết một cách trọn vẹn. Do đó, đầu năm mới sẽ là thời điểm thích hợp nhất đi kèm với tâm lý “năm mới sẽ dễ dàng để bắt đầu một điều gì đó mới mẻ một cách thuận lợi hơn”.
Ba là, đầu năm là thời điểm các công ty tuyển dụng sôi nổi, việc làm cũng nhiều hơn đồng nghĩa với việc cơ hội để bạn lựa chọn công ty phù hợp nhất với nguyện vọng của bản thân cũng rộng mở hơn.
Tuy nhiên, nếu không phải vì khoản thưởng Tết hấp dẫn thì cuối năm cũng có thể xem là thời điểm đáng xem xét nếu bạn đã có một offer tốt hơn từ nơi làm mới.
Bởi lẽ đây là thời điểm là “tỷ lệ chọi” thấp nhất trong năm khi nhu cầu tuyển dụng vẫn có nhưng hồ sơ thì lại rất hiếm hoi.
Trong khi đó, việc bạn chuyển công ty vào những tháng cuối năm cũng sẽ giúp bạn hoàn thành 2 tháng thử việc trong năm cũ và sẽ thuận lợi cho việc tính thưởng Tết đủ tháng làm việc chính thức/năm ở công ty mới.
Quyết đoán nhảy việc vì “nước đã tràn ly”
Thời gian chỉ là vấn đề cần cân nhắc khi bạn có một khoản thưởng đủ lớn và thực sự vẫn chưa tìm được một nơi làm việc mới đủ sức hấp dẫn. Ở câu chuyện của cảm xúc có lẽ sẽ có nhiều việc đáng bàn.
Nghỉ việc không phải là chuyện nhỏ, đặc biệt là khi bạn đã qua tuổi 30 hoặc đã có gia đình với nhiều mối lo về kinh tế.
Nhưng nếu ngay lúc này, dù có đang ở thời điểm nào đi chăng nữa, dù bạn đã có thâm niên với công ty đi chăng nữa nhưng vẫn cảm thấy không có tiếng nói chung với quản lý và đồng nghiệp trong công việc, không cảm thấy bản thân được ghi nhận và những nỗ lực của bạn dường như không có nhiều giá trị đối với nơi làm việc ấy. Hãy chấp nhận sự thật và dũng cảm tìm một nơi làm việc mới.
Đặt câu hỏi: “Tương lai của mình 2-3 năm nữa tại nơi này sẽ như thế nào?” Nếu không thể thăng tiến về cấp bậc thì mức độ thăng tiến về chuyên môn, kỹ năng và mối quan hệ của bạn có đi lên hay vẫn đi ngang?
Việc đi làm chỉ trở nên có động lực khi bạn được học hỏi những điều mới mẻ, các vấn đề về lương bổng được đáp ứng ở mức xứng đáng.
Bạn biết mỗi ngày sẽ phải làm gì, mình tạo ra được những giá trị gì và hạnh phúc vì sau mỗi giai đoạn nhìn lại sẽ thấy bản thân giỏi giang, trưởng thành hơn. Nếu một công ty không tạo cho bạn cơ hội để làm được những điều đó, để phát triển bản thân thì rõ ràng ra đi để tìm một cơ hội mới là điều nên làm.
Cuối cùng, lương bổng cũng chính là yếu tố rất quan trọng. Bạn đã làm ở một công ty đủ lâu nhưng không nhận lại được mức thù lao xứng đáng?
Bạn đã nhiều lần đề xuất nhưng vẫn chỉ ở “diện xem xét” hoặc mức tăng quả thật không làm bạn hài lòng? Có quá nhiều vấn đề về văn hóa doanh nghiệp khiến bạn cảm thấy không thể hòa nhập? Vậy thì việc nấn ná ở lại không có nhiều ý nghĩa dù là ở thời điểm nào.
Hãy nhớ rằng, chỉ nên hành động khi đã có định hướng
Bạn có thể chờ đầu năm mới nhảy việc. Bạn cũng có thể nhảy việc vào một tháng rất lưng chừng như tháng 6, tháng 7, thậm chí là tháng 9, tháng 10. Thế nhưng, điều mà bạn rất cần phải có ngay thời điểm phát sinh suy nghĩ nghỉ việc là: Mình sẽ làm gì tiếp theo?
Hãy tìm hiểu trước về vị trí mới và công ty mới để tìm một công việc phù hợp. Thậm chí, nếu bạn là type người theo “chủ nghĩa an toàn” thì hãy chắc chắn đã tìm được một công việc mới rồi mới quyết định nghỉ việc tại công ty cũ.
Bạn có thể đi làm ngay sau khi nghỉ, cũng có thể dành ra một khoảng thời gian để tận hưởng, nghỉ ngơi hoặc thực hiện những dự án cá nhân.
Dù thế nào cũng cần phải có định hướng cụ thể cho tương lai rồi mới nghỉ việc. Bởi xét cho cùng, nhảy việc là để tìm một nơi mới thích hợp hơn, tìm những đồng nghiệp mới phù hợp hơn, một mức lương mới khiến bạn hài lòng hơn và một cuộc sống mới giúp bạn “dễ thở” hơn.
Mong bạn dù là ở thời điểm nào và ra đi trong trạng thái cảm xúc ra sao thì vẫn sẽ tìm được niềm vui, sự tận hưởng ở nơi làm việc mới và không hối tiếc về quyết định của mình. Đó mới là thời điểm nhảy việc lý tưởng nhất.
Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer
Nghiên cứu của Dropbox kết hợp với The School of Life gần đây cho thấy một phần tư (23%) nhân viên cho rằng đồng nghiệp của họ lười biếng. Đa phần đều tìm ra rằng họ thiếu động lực để tiếp tục công việc. Vậy nguyên nhân lớn nào dẫn đến tình trạng nhân viên trong doanh nghiệp lười làm việc, hoặc tham gia hời hợt các hoạt động của tổ chức?
8 công sở: Nhân viên lười biếng và mơ mộng thăng tiến
Những nhân viên lười biếng luôn than thở trước những khó khăn mà họ gặp phải, không tìm ra giải pháp cho những vấn đề này.
Họ có nhiều lý do để yêu cầu giảm bớt khối lượng công việc. Họ không biết rằng thời gian họ dành để kể chuyện thăng tiến đôi khi vượt xa thời gian họ có thể dành cho công việc. Đối với họ, phàn nàn là điều dễ dàng, và đó là điều họ làm tốt nhất.
Những nhân viên chỉ muốn nhàn rỗi và được trả lương đúng hạn thường không bao giờ nghĩ rằng họ phải có trách nhiệm với công việc của mình. Họ trì hoãn thời hạn và sử dụng những bài phát biểu dài dòng với đầy đủ lý do khách quan và chủ quan như một cái cớ để khiến họ phân tâm và không thể hoàn thành công việc đúng hạn.
Có lẽ ngay cả bạn đôi khi cũng nằm trong số đó, mắc bệnh “lười” là một trong những vấn đề lớn mà nhiều doanh nghiệp đang phàn nàn và tìm cách giải quyết. Không chỉ dừng ở đó, một trong số họ mong muốn trở thành người quản lý đầy ưu tú. Có phải càng lười lại càng mộng mơ cao xa?
Nhìn nhận lại từ chính doanh nghiệp
Quản lý kém hiệu quả
Phần lớn nhân viên đến với một tổ chức sau khi trải qua quá trình tuyển dụng. Những tân binh này mang trong mình một nguồn năng lượng và sự tò mò. Câu hỏi được đặt ra ‘điều gì đã xảy ra?’ sau quá trình làm việc. Họ có còn thực sự hứng khởi như ngày mới gia nhập?
Đến giai đoạn này gần như nhà quản lý đã thất bại trong việc quản lý vì không hiểu rõ về các vai trò, nhưng hơn thế nữa là không rõ về thành công trông như thế nào.
Các nhà quản lý thiếu kỹ năng xử lý mềm mại hơn, có nghĩa là khi hiệu suất kém không được giải quyết, một thông điệp bất thành văn của nhiều quản lý là khiến nhân viên đó cảm thấy xấu hổ vì không làm được việc.
“Math nhân viên phòng thiết kế đã từng thừa nhận rằng họ chỉ làm rất ít và làm rất ít. Điều này thực sự đang tiêu hao năng lượng ở nơi làm việc. Các nhà quản lý giải quyết vấn đề bằng cách giao nhiều việc hơn cho những người đang hoạt động tốt, với niềm tin rằng ‘nếu bạn muốn một cái gì đó đã hoàn thành hãy đưa nó cho một người giỏi hơn’.
“Họ tin rằng đằng sau mỗi nhân viên ‘tồi’ là một nhà quản lý bình đẳng, nếu không muốn nói là ‘tồi tệ hơn’. Tuy nhiên, bản thân các nhà quản lý cũng thường là nạn nhân. Nhiều nhà quản lý đã không được tổ chức của họ hỗ trợ trong quá trình chuyển đổi từ chuyên gia sang quản lý.”
Để thúc đẩy động lực cho nhân viên, doanh nghiệp hãy chú trọng đến việc đào tạo con người ngay khi mới gia nhập. Xây dựng văn hoá công ty và phong cách làm việc giữa quản lý và nhân viên hiệu quả.
Chính sách hưởng lợi của nhân viên
Nhiều doanh nghiệp hiện nay đang lạm dụng quyền để nâng cao năng suất làm việc của nhân viên, hoặc cắt giảm phần trăm hoa hồng so với lúc đầu. Điều này đã khiến cho nhiều nhân viên xuất sắc trở nên lười biếng hơn, công việc tụt dốc dẫn đến sụt giảm lợi nhuận trong công ty giảm đáng kể.
Hay chính sách về thưởng và phát triển bản thân không rõ ràng khiến nhiều nhân viên mặc dù đã làm việc lâu cũng cảm thấy thấy chán nản. Chính vì vậy đây là vấn đề nhạy cảm, khi nhân viên cảm thấy mất quyền lợi, họ sẽ ngay lập tức chuyển sang trạng thái khác. Đưa ra chính sách lương thưởng rõ ràng để nhân viên cảm thấy an toàn và có động lực trong mỗi giai đoạn mới trong chuyển hoá doanh nghiệp.
Không có gì tạo động lực cho nhân viên bằng các biện pháp khuyến khích. Chúng có thể bao gồm những thứ như thời gian nghỉ thêm, phiếu thưởng, tiền thưởng hoặc bất cứ thứ gì khuyến khích loại người làm việc với bạn.
Vấn đề trong chính mỗi nhân viên
Không giống như những nhân viên muốn phát triển bản thân và sự nghiệp của họ bằng cách liên tục đặt câu hỏi, những nhân viên lười biếng có xu hướng tự cô lập mình chỉ trong một khối lượng công việc nhất định.
Họ không có bất kỳ ý kiến hoặc câu hỏi nào về việc phải làm gì tiếp theo, bởi vì họ không muốn tăng thêm gánh nặng. Tuy nhiên, chính vì luôn hoàn thành nhiệm vụ một cách chính xác nên họ dễ bị hiểu nhầm là những nhân viên chăm chỉ. Bạn phải thật tinh ý mới có thể nhận ra bản chất lười biếng của họ.
Làm việc bề nổi, không có động lực sẽ không bao giờ tạo ra kết quả xuất sắc, đây là điều gặp thường xuyên nhất. Đủ các yếu tố như phàn nàn, bao biện, không hỏi han… Những người này thường không có hứng thú hoặc không hứng thú với công việc. Phương châm của họ là “Tôi sẽ làm điều này”.
Là người lãnh đạo, bạn cũng nên xem xét nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng này có phải do họ không được làm công việc mà họ thực sự yêu thích hay không? Hãy hỏi ý kiến đồng nghiệp xung quanh hoặc trực tiếp mời họ trò chuyện thân mật để có thể đưa ra quyết định chính xác nhất.
Khi tìm ra câu trả lời, có lẽ bạn sẽ có cách giải quyết thích đáng cho mỗi trường hợp. Luôn có cách cho những tình huống xấu nhất, vì vậy đây chưa phải phi vụ mất nhiều sức trong hành trình phát triển doanh nghiệp. Mong rằng những thông tin trên sẽ giúp bạn biết được nhiều thông tin hữu ích.
Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer
Báo cáo kết quả kinh doanh mới đây của 2 gã khổng lồ Microsoft và Alphabet (Google) đã thu hút được sự chú ý cực lớn của nhà đầu tư. Trong khi Microsoft thắng lớn thì Google lại ngậm ngùi. Tự hỏi, liệu vết xe đổ của Yahoo có xảy ra với Google trước Microsoft?
Liệu vết xe đổ của Yahoo có xảy ra với Google trước Microsoft
Mọi con mắt đều đổ dồn vào kết quả kinh doanh mảng điện toán đám mây (Cloud Business) khi đây được dự đoán là cơ sở để phát triển lĩnh vực trí thông minh nhân (AI) tạo đầy tiềm năng.
Thế nhưng điều bất ngờ là trong khi mảng điện toán đám mây của Alphabet có doanh thu thấp hơn dự báo khiến cổ phiếu của Google giảm 9% trong phiên thì Microsoft lại có đà tăng 4% nhờ doanh thu khả quan.
Kết quả này khiến tổng mức vốn hóa thị trường của Microsoft tăng 73 tỷ USD còn Google lại mất 170 tỷ USD.
Kẻ vui người buồn.
Báo cáo kết quả kinh doanh cho thấy doanh thu quý III của Microsoft đạt 56,5 tỷ USD, cao hơn 2 tỷ USD so với dự kiến. Các nhà đầu tư đặc biệt ấn tượng với mảng kinh doanh điện toán đám mây khi chiếm đến 43% tổng doanh thu, tăng 19,4% so với cùng kỳ năm trước.
Mảng kinh doanh này của Microsoft bao gồm cả Azure, dịch vụ điện toán đám mây cho doanh nghiệp và đà tăng trưởng trên chủ yếu đến từ sự bùng nổ đầu tư cho AI, vốn cần sử dụng rất nhiều dịch vụ này cho phân tích dữ liệu.
“Hơn 50% số khách hàng dùng điện toán đám mây của Microsoft là cho các chức năng AI phục vụ công việc”, giám đốc Dan Ives của Wedbush nhận định.
Đáng nói hơn, phần lớn thắng lợi của Microsoft là nhờ sự thành công từ ChatGPT đến từ OpenAI, dự án mà CEO Satya Nadella đã đổ khoảng 13 tỷ USD sau khi Elon Musk rời bỏ startup này.
Một trong số những sản phẩm thu hút nhất của Microsoft hiện nay là Azure OpenAI, qua đó cho phép khách hàng phát triển mô hình OpenAI riêng của mình vào nền tảng công ty.
Lượng khách hàng sử dụng dịch vụ này đã tăng mạnh từ 11.000 người trong tháng 7/2023 lên 18.000 người hiện nay.
Thậm chí chính CEO Nadella của Microsoft cũng phải thừa nhận khách hàng AI đang đóng góp cực lớn cho tăng trưởng doanh thu.
“Chúng tôi đang phủ sóng công nghệ AI nhiều hơn bất cứ hãng cung ứng dịch vụ điện toán đám mây nào trên thế giới hiện nay”, CEO Nadella tự hào tuyên bố trong buổi báo cáo kết quả kinh doanh.
Trái ngược lại với niềm vui của Microsoft thì Alphabet (Google) lại có một kết quả không như kỳ vọng. Doanh thu của hãng chỉ tăng 11% trong quý III lên 76,9 tỷ USD, tức chỉ cao hơn 700 triệu USD so với dự kiến.
Mặc dù vẫn tăng trưởng nhưng sự chênh lệch kết quả kinh doanh khi so sánh với Microsoft đã khiến nhiều nhà đầu tư thất vọng.
Doanh thu mảng điện toán đám mây của Alphabet đạt 8,4 tỷ USD trong quý III, tăng 22% so với cùng kỳ năm trước nhưng thấp hơn so với mức kỳ vọng 8,6 tỷ USD của nhà đầu tư Phố Wall.
Điều trớ trêu hơn nữa là CEO Sundar Pichai của Google đã đưa mảng điện toán đám mây từ lỗ 852 triệu USD quý III/2022 lên mức lãi hiện nay, nhưng như vậy vẫn là chưa đủ trong mắt nhà đầu tư khi so sánh với Microsoft.
“Nếu họ muốn giá cổ phiếu tăng cao hơn thì cần cho thấy mảng điện toán đám mây kinh doanh có nhiều lãi hơn. Chúng tôi cần thấy mảng này đem về lợi nhuận cao hơn”, giám đốc tài chính Lee Munson của Portfolio Wealth Advisors nhận định.
Trong khi đó, một số chuyên gia thì lại kêu gọi nhìn vào mảng quảng cáo của Google, vốn chiếm 78% doanh thu trong quý III, hơn là điện toán đám mây.
Mảng quảng cáo này đã có doanh số tăng 4% so với cùng kỳ năm ngoái, nhưng chúng lại chẳng được mấy nhà đầu tư quan tâm.
Thất bại vì quan liêu và bị ‘ăn cắp”.
Theo tờ Fortune, Alphabet (Google) từng là một tập đoàn công nghệ tuyệt vời cho đến khi sự ngủ quên trên chiến thắng ru ngủ ban giám đốc, khiến họ tuyển dụng mù quáng, biến đế chế này thành một tổ chức quan liêu, kém hiệu quả và chỉ giật mình nhận ra khi Microsoft quá thành công với ChatGPT.
Đồng quan điểm, cựu kỹ sư phần mềm Praveen Seshadri của hãng này chỉ trích Google đang mất dần phương hướng với bộ máy hành chính quan liêu, cồng kềnh, không nhận ra người dùng mới là thứ quan trọng nhất.
Mặc dù công cụ tìm kiếm số 1 thế giới này vẫn giữ được giá trị cơ bản là tôn trọng người dùng nhưng sai lầm thì đã diễn ra ở mọi bộ phận trong công ty.
“Thật dễ hiểu khi mọi thứ tại Google đã đi chệch hướng trong nhiều năm bởi vì cỗ máy in tiền quảng cáo trực tuyến (Digital Ads) vẫn giúp công ty có lợi nhuận khủng, qua đó che giấu đi mọi rắc rối khác”, anh Seshadri than thở.
Theo nhà khởi nghiệp này, các nhân viên Google đi làm hàng ngày không phải để phục vụ người dùng, đối tượng khách hàng cuối cùng của hãng nữa mà là bộ máy bên trong của hãng, những quy định, các cấp quản lý, những dự án riêng của công ty cho đến những kỹ thuật mà Google có nhưng chưa chắc người dùng đã cần.
“Cho dù bạn có làm việc chăm chỉ hay thông minh trong một môi trường như vậy thì nó cũng chẳng đem lại giá trị cơ bản gì nữa, vì họ không còn phục vụ người dùng nữa rồi”, anh Seshadri ngậm ngùi.
Trước đây khi Google còn tập trung sáng tạo những giá trị mới thì văn hóa làm việc rất khác.
Tuy nhiên anh Seshadri cho biết mọi chuyện đã thay đổi khi Google trở nên quá lớn và bắt đầu chỉ tập trung soi mói những lỗi lầm, lo sợ bị vượt mặt thay vì sáng tạo.
“Mọi dòng code bạn viết, bất cứ sản phẩm nào ra mắt cũng sẽ bị đi qua từng tầng kiểm duyệt, quy trình, cấp phép… để đảm bảo không làm mất danh tiếng của công ty chứ không phải vì sự hứng thú mà nó sẽ đem lại cho người dùng”, anh Seshadri chia sẻ.
“Bất kỳ sự bất đồng chính kiến nào với sếp cũng sẽ khiến bạn dễ dàng đánh mất sự nghiệp, vậy là mọi người chỉ biết nói ‘Có’ với cấp trên, rồi họ cũng làm điều tương tự với cấp trên nữa”, anh Seshadri tiết lộ thêm.
Chính sự quan liêu này đã khiến Microsoft thành công “hái trộm” thành quả AI từ Google. Google đã đổ hàng tỷ USD đầu tư phát triển AI trong nhiều năm và đây mới là tập đoàn tiên phong trong mảng này, nhưng Microsoft lại là người hái thành quả trước nhất.
Trên thực tế, Google đã đầu tư vào mảng trí thông minh nhân tạo từ rất sớm và khởi nguồn cũng là do nỗi sợ bị vượt mặt chứ chẳng phải vì mục tiêu phát triển cái mới vì người tiêu dùng.
Đầu thập niên 2010, Google mua lại hàng loạt startup về AI như Hinton, DeepMind với giá 625 triệu USD.
Thậm chí khi mới lên nắm quyền điều hành Google, chính CEO Sundar Pichai đã khẳng định việc tập trung phát triển AI cũng như công bố hàng loạt những đột phá qua nhiều năm để cùng thúc đẩy sự phát triển toàn ngành.
Năm 2014, Amazon đã ra mắt trợ lý giọng nói Alexa khiến Google lo sốt vó, buộc công ty phải ra mắt trợ lý Assistant năm 2016 để đối đầu và tuyên bố sẽ tập trung phát triển trí thông minh nhân tạo (AI).
Thế nhưng đã 8 năm trôi qua và Google vẫn chậm chân trong mảng này khi để Microsoft vượt lên trước với thành công của ChatGPT.
Theo Forbes, Google đã từng ra mắt dịch vụ AI Duplex giả giọng nói người dùng nhưng chần chừ phát triển tiếp vì lo sợ những vấn đề về bản quyền, lỗi kỹ thuật sẽ ảnh hưởng đến uy tín của hãng.
Thế rồi cơ cấu quan liêu, sợ rủi ro của một tổ chức quá cồng kềnh khiến hàng loạt nhân tài AI rời đi đã làm Google giờ đây ở vào vị thế khó xử.
Chính Google là tập đoàn đã phát minh ra mô hình AI mới có thể hấp thu lượng lớn bộ dữ liệu và tự cải tiến.
Công ty này cũng là cha đẻ của mô hình ngôn ngữ lớn LLM, vốn đang thống trị trong mảng AI với chính sản phẩm GPT3-4 của OpenAI cho ChatGPT.
Tốn công sức là vậy nhưng Microsoft với ChatGPT lại thành công đi trước, để lại Google đầy khó khăn và nhận vô số chỉ trích khi cho ra đời Bard quá muộn màng.
Ngay lập tức Google hối hận vì chia sẻ quá nhiều thành quả nghiên cứu để rồi cho Microsoft cơ hội vượt mặt.
Người đứng đầu mảng trí thông minh nhân tạo (AI) tại Google, ông Jeff Dean cho biết trong cuộc họp quý I/2023 rằng ban giám đốc đã yêu cầu các nhân viên nghiên cứu không được chia sẻ thành quả nếu chúng chưa được công ty biến thành sản phẩm.
Vết xe đổ Yahoo?
“Cái quái quỷ gì đang diễn ra tại đó vậy? Google đang chảy máu chất xám với tốc độ đáng kinh ngạc”, giám đốc Martin Casado của Andreessen Horowitz phải thốt lên trên Twitter.
Vào năm 2011 khi Larry Page còn làm CEO Google, ông đã lo sợ rằng đế chế mình gây dựng sẽ lâm vào tình cảnh quá lớn để rồi hoạt động mất hiệu quả và lại giống như Yahoo.
Xin được nhắc lại rằng vào năm 2004, Google đã vượt qua Yahoo về tổng mức vốn hóa thị trường chỉ sau 2 tháng phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng (IPO).
Đây là một cú tát với Yahoo khi chỉ 2 năm trước đó, công ty này đã từ chối mua lại Google với giá 3 tỷ USD vì chê đắt.
“Thật trớ trêu, những gì Larry Page từng sợ hãi thì nay lại đang diễn ra đúng như vậy”, cựu nhân viên 12 năm của Google, cô Claire Stapleton ngậm ngùi.
Một cựu kỹ sư làm việc được 7 năm tại Google xin được giấu tên nói với hãng tin CNBC rằng công ty giờ đây ngập tràn trong sự cạnh tranh về lợi nhuận và hiệu quả, sa thải những nhóm làm việc kém hoặc trái ý sếp.
Những lý tưởng về việc tạo nên một thế giới tốt đẹp hơn, sáng tạo nên những sản phẩm tuyệt vời cho người dùng khi Google mời về làm việc nay đã chẳng còn ai tin nữa.
Đồng quan điểm, cô Stapleton cho biết các lãnh đạo Google trước đây khá thân thiện và gần gũi với nhân viên thì giờ đây, sự phân chia giữa cấp trên với cấp dưới là cực kỳ rõ ràng.
Cô Stapleton đã từng muốn phản ánh sự thay đổi này với phòng nhân sự, nhưng kết cục là họ phái một nhân viên mới tốt nghiệp ra trường để nói chuyện với lời khuyên “hãy mời sếp của cô đi nhậu”.
Một trường hợp khác là cô Chelsey Glasson, trưởng nhóm nghiên cứu một dự án tại Google đã làm việc được 5 năm trước khi nghỉ việc.
Cô Glasson cho biết những vấn đề về phân biệc giới tính và kỳ thị phụ nữ mang thai đã được cô đưa lên phòng hành chính nhân sự, nhưng họ chỉ đáp ngắn gọn là “sẽ tìm hiểu”.
Phải đến khi cô thuê luật sư thì họ mới nghiêm túc vào cuộc, nhưng vẫn chẳng bao giờ phỏng vấn trực tiếp với Glasson để hiểu tình hình thực tế như nào.
“Tôi khá lo về những nhân viên mới vào làm ở Google nếu họ vẫn tin vào lý tưởng thay đổi thế giới mà công ty nói lúc mời về làm việc”, cựu kỹ sư Fong Jones từng làm việc 11 năm cho Google ngán ngẩm.
*Nguồn: Fortune, Forbes, CNBC
Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer
Trong khi bạn không thể luôn tìm thấy hạnh phúc trong công việc – nhưng nếu bạn có thể tìm thấy ý nghĩa trong những việc mình làm, hoặc ít nhất là học cách chịu đựng nó, thì lợi ích là vô tận.
Nhà trị liệu tâm lý: Công thức để tìm thấy ý nghĩa và thành công trong công việc
Theo nhà tâm lý học Adam Grant của Wharton, những nhân viên có thể hiểu rõ công việc của mình có tác động tích cực và có ý nghĩa đến người khác không chỉ hạnh phúc hơn những người không thể hiểu được; mà họ còn làm việc hiệu quả hơn những người khác.
Nghiên cứu cho thấy việc tăng lương và thăng chức diễn ra phổ biến hơn với những người nhận thấy được ý nghĩa trong công việc mà họ đang làm. Hơn nữa, các nghiên cứu cũng cho thấy, những nhân viên này có xu hướng kiên trì hơn, có động lực và làm việc chăm chỉ hơn so với các đồng nghiệp của họ.
Nói cách khác, niềm vui trong công việc là yếu tố then chốt để dẫn đến thành công.
Nicholette Leanza, một nhà trị liệu tâm lý nhận xét, những người có thể tìm thấy ý nghĩa trong công việc coi mọi nhiệm vụ ở nơi làm việc đều có ý nghĩa, dù nó nhỏ hay lớn.
Một câu hỏi mà mọi nhân viên đều nên luôn luôn tự hỏi mình tại nơi làm việc.
Để nâng cao ý nghĩa trong công việc của mình, trước tiên bạn cần hiểu lý do tại sao bạn lại làm những việc bạn đang làm.
Không phải mọi nhiệm vụ đều cần phải thay đổi thế giới – nó chỉ cần là thứ mang lại lợi ích cho bạn, xã hội hoặc được những người khác đánh giá cao và có ý nghĩa tích cực.
Trước khi giải quyết một nhiệm vụ nào đó, bạn nên luôn tự hỏi bản thân rằng: “Tại sao tôi lại làm việc này và nó có ý nghĩa gì?”
Khi bạn đang cố gắng hoàn thành một nhiệm vụ đặc biệt buồn tẻ hoặc lặp đi lặp lại, bạn nên hình dung về những nỗ lực tích cực, có thể đo lường được mà công việc của bạn sẽ có.
Ví dụ: Giải quyết khiếu nại của khách hàng có thể giúp giữ chân những khách hàng quan trọng và nâng cao lợi nhuận của doanh nghiệp.
Bạn cũng có thể nghĩ về những kỹ năng mà bạn đang học hoặc đang được hoàn thiện, như giao tiếp hoặc giải quyết vấn đề, những kỹ năng này có thể giúp bạn tạo dựng được sự nghiệp viên mãn hơn về lâu dài.
Tìm thấy ý nghĩa trong việc giúp đỡ người khác.
Nếu bạn không thể dễ dàng xác định tác động tích cực và có thể đo lường được từ công việc của mình, hãy tìm đến những người đồng nghiệp của bạn.
Nghiên cứu đã chỉ ra rằng việc tử tế với sếp, đồng nghiệp và cấp dưới sẽ làm tăng cảm giác hạnh phúc, tự tin và lạc quan hơn trong công việc.
Nếu bạn muốn làm cho công việc của mình có ý nghĩa và thỏa mãn hơn, hãy tập trung vào việc xây dựng các mối quan hệ tích cực.
Những hành động tử tế dù là nhỏ nhất cũng có thể tạo nên sự khác biệt lớn. Bạn sẽ không bao giờ biết được, một cuộc trò chuyện hoặc một lời khen mà bạn dành cho ai đó có thể giúp họ vượt qua được cả tuần làm việc mệt mỏi.
Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer
Với tư cách là nhân viên, việc bạn chọn làm việc cho một doanh nghiệp có văn hoá lành mạnh hay độc hại sẽ ảnh hưởng rất lớn đến con đường sự nghiệp sau này. Hãy nhận diện chân dung của một nhà lãnh đạo độc hại trong bài viết này.
Nhận diện chân dung của một nhà lãnh đạo độc hại
Những hành vi độc hại của các nhà lãnh đạo không chỉ làm ảnh hưởng xấu đến doanh nghiệp của họ hay nơi họ công tác mà còn làm suy giảm chính năng lực của họ.
Suy cho cùng, lãnh đạo tất cả là về việc thúc đẩy các mối quan hệ lành mạnh giữa con người với nhau để cùng nhau tạo ra những thành tựu to lớn cho tổ chức. Và để lãnh đạo xuất sắc, nhà lãnh đạo cũng cần phải tự học hỏi các kỹ năng tốt đồng thời loại bỏ các hành vi độc hại với nhân viên của mình.
Dưới đây là một số hành vi độc hại mà nhà lãnh đạo nên loại bỏ hoặc nếu là nhân viên, bạn xem đây là những dấu hiệu để nhận diện và “tránh xa” họ.
1. Quản lý vi mô là dấu hiệu nhận diện đầu tiên về một nhà lãnh đạo độc hại.
Những nhà lãnh đạo hay người quản lý luôn cố gắng để thống trị con người, các quyết định và quy trình cuối cùng sẽ làm ảnh hưởng trực tiếp đến tinh thần làm việc của nhân viên.
Người quản lý vi mô là những người luôn làm theo cách của họ dựa trên lợi thế về quyền lực và quyền lực chính là sự kiểm soát. Và với sự kiểm soát này, nỗi sợ hãi là điều khó tránh khỏi với hầu hết nhân viên.
Thay vì tập trung vào việc kiểm soát, các nhà lãnh đạo lành mạnh sẽ tập trung nhiều hơn vào việc khuyến khích quyền tự chủ và tự do để nhân viên có thể phát huy tối đa tiềm năng, nỗ lực giải phóng bản thân và hơn thế nữa.
Theo nghiên cứu của WorldBlu, các tổ chức hoạt động theo phương pháp lãnh đạo tự chủ hơn và tự do hơn đã chứng kiến “mức tăng trưởng doanh thu trung bình cao hơn tới 7 lần trong khoảng thời gian 3 năm so với các doanh nghiệp khác”.
2. Thích đè bẹp ý tưởng của người khác.
Nhiều nhà lãnh đạo nói rằng họ muốn có một đội ngũ hoặc văn hóa đổi mới nhưng sau đó chính họ lại quay lưng và sẵn sàng loại bỏ bất kỳ ý tưởng mới nào được đưa ra đang phá hoại quá trình sáng tạo của doanh nghiệp.
Thay vào đó, nhà lãnh đạo cần cách tiếp cận theo hình thức hỗ trợ và nuôi dưỡng sự đổi mới từ những người muốn đóng góp ý tưởng và tạo ra sự khác biệt.
3. Không tích cực lắng nghe.
Lắng nghe mà cụ thể là lắng nghe tích cực là một trong những kỹ năng lãnh đạo quan trọng hàng đầu để nhà lãnh đạo có thể thấu hiểu về con người và tổ chức của họ.
Lắng nghe tích cực, tôn trọng và giao tiếp hai chiều theo đó là điều xa vời với các nhà lãnh đạo độc hại. Họ vốn không muốn lắng nghe ý kiến, quan điểm và phản hồi mang tính xây dựng của người khác.
4. Bỏ qua mong muốn tự nhiên của con người đó là được phát triển.
Đối xử với nhân viên như những con ong thợ với con đường sự nghiệp bế tắc, không quan tâm đến cơ hội phát triển hay thiếu sự gắn kết là những dấu hiệu thường thấy của các nhà lãnh đạo độc hại.
Ngược lại với các nhà lãnh đạo độc hại, những nhà quản lý giỏi có kỹ năng lãnh đạo xuất sắc sẽ đầu tư lâu dài vào những nhân viên tiềm năng bằng cách cung cấp các cơ hội học tập và phát triển liên tục.
Họ tạo ra một môi trường làm việc nơi mọi người luôn có đủ không gian để học hỏi và cống hiến. Họ cũng thường xuyên trò chuyện với nhân viên hoặc tìm hiểu về việc liệu nhân viên có đang có đủ cơ hội để phát huy bản thân hay không.
5. Thiếu hành động cũng là dấu hiệu để nhận diện một nhà lãnh đạo độc hại.
Cuối cùng, một nhà lãnh đạo độc hại là người nói và cam kết rất nhiều tuy nhiên họ lại vắng mặt hoặc trở nên vô hình ở những thời điểm cần họ hành động.
Một người quản lý hay nhà lãnh đạo thiếu hành động luôn tìm cách để tránh các tương tác cá nhân, đặc biệt là khi mọi thứ đang trở nên tồi tệ. Họ thường thích quản lý bằng email và tin nhắn, đồng thời tránh giao tiếp trực tiếp vì sợ phải đối mặt với xung đột.
Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer
Google đã trả hơn 26 tỷ USD vào năm 2021 cho Apple để trở thành công cụ tìm kiếm mặc định trên trình duyệt và điện thoại di động.
Google trả cho Apple 26 tỷ USD năm 2021 để trở thành công cụ tìm kiếm mặc định
Cụ thể, Google đã trả 26,3 tỷ USD cho Apple để trở thành công cụ tìm kiếm mặc định trên điện thoại di động và trình duyệt web vào năm 2021, theo một slide được công bố mới đây trong phiên tòa chống độc quyền liên bang tại Mỹ.
Bộ Tư pháp Hoa Kỳ (DOJ) đã lập luận rằng Google đã duy trì quyền lực độc quyền của mình một cách bất hợp pháp trong lĩnh vực tìm kiếm nói chung bằng cách tận dụng sự thống trị của mình để chèn ép các đối thủ, trong đó có cả trình duyệt Safari của Apple.
Theo DOJ: “Google trả hàng tỷ USD mỗi năm cho các nhà phân phối – bao gồm các nhà sản xuất thiết bị phổ biến như Apple, LG, Motorola và Samsung; các nhà mạng không dây lớn của Hoa Kỳ như AT&T, T-Mobile và Verizon; và các nhà phát triển trình duyệt như Mozilla, Opera và UCWeb — để đảm bảo trạng thái mặc định cho công cụ tìm kiếm Google và, trong nhiều trường hợp, Google cấm các đối tác giao dịch với các đối thủ cạnh tranh của Google.”
Kể từ năm 2014, khi Google đặt doanh thu khoảng 47 tỷ USD từ mảng tìm kiếm và phải trả khoảng 7,1 tỷ USD cho trạng thái mặc định. Điều này có nghĩa là doanh thu của Google Search đã tăng gần gấp 3 lần từ năm 2014 đến năm 2021, trong khi phần chi phí TAC (mua lại traffic) tăng gần gấp 4 lần.
Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer
Google xác nhận rằng nền tảng đang khám phá các định dạng quảng cáo khác nhau trong phần kết quả tìm kiếm của công cụ tìm kiếm bằng Generative AI (SGE).
Google đang tìm cách thêm quảng cáo vào công cụ tìm kiếm bằng AI
Trong một thông báo mới đây, Google đã xác nhận rằng nền tảng đang phát triển các định dạng quảng cáo khác nhau để sớm đưa vào phần kết quả tìm kiếm trên các công cụ tìm kiếm bằng AI.
Trong khi doanh thu của Google phần lớn đến từ quảng cáo, việc Google gấp rút quá trình này cũng là điều khá dễ hiểu.
Trong báo cáo thu nhập quý 3 năm 2023 được công bố mới đây, CEO Alphabet và Google Sundar Pichai cho biết nền tảng có kế hoạch thử nghiệm các định dạng quảng cáo tự nhiên (Native Ads) vốn phù hợp với trải nghiệm tìm kiếm trên công cụ tìm kiếm (SGE).
Google bắt đầu giới thiệu về trải nghiệm tìm kiếm dựa trên AI trong Google I/O, một hội nghị dành riêng cho các nhà phát triển của Google diễn ra vào tháng 5 mới đây.
Để có thể hình dung rõ hơn về cách Google sẽ hiển thị quảng cáo, bên dưới là hình ảnh ví dụ cụ thể. Theo đó, thẻ ‘Sponsored” là cách để Google phân biệt các nội dung quảng cáo với các nội dung tự nhiên khác.
Theo báo cáo mới đây, doanh thu của Google 76,69 tỷ USD trong quý 3 năm 2023, tương ứng với mức tăng trưởng 11% so với cùng kỳ năm trước. Hoạt động kinh doanh quảng cáo chiếm 59,65 tỷ USD doanh thu (tương đương hơn 70% tổng doanh thu) và Cloud mang về 8,41 tỷ USD.
Google cho biết mọi người đang xem Shorts hơn 70 tỷ lượt mỗi ngày – tăng từ mức 50 tỷ lượt xem hàng ngày được công bố trước đó vào tháng 2. Trong thu nhập quý 2 năm 2023, Google cho biết có hơn 2 tỷ người đăng nhập hàng tháng vào Shorts.
Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer
Trong phạm vi bài viết này, hãy cùng MarketingTrips tìm hiểu chi tiết các nội dung và kiến thức nền tảng xoay quanh thuật ngữ Content Creation (xây dựng nội dung) như: Content Creation là gì? Tại sao Content Creation lại quan trọng? Quy trình xây dựng và sáng tạo Content Creation trong Marketing? Các công cụ Content Creation phổ biến nhất hiện nay là gì? và hơn thế nữa.
Content Creation là gì? Quy trình xây dựng nội dung cho người mới
Content hay Nội dung từ lâu đã là nền tảng của mọi thương hiệu, đặc biệt trong bối cảnh khi các nền tảng trực tuyến và mạng xã hội phát triển mạnh mẽ như hiện nay, quá trình sản xuất và sáng tạo nội dung (Content Creation) còn là điểm kết nối bắt buộc trong việc tiếp cận đối tượng mục tiêu và thúc đẩy hiệu suất marketing nói chung.
Vậy thực chất Content Creation hay quá trình xây dựng và sáng tạo nội dung là gì, triển khai nó ra sao? Tất cả sẽ được phân tích chi tiết trong bài viết này.
Content Creation là gì?
Content Creation trong tiếng Việt có thể hiểu là xây dựng nội dung, sản xuất nội dung hoặc sáng tạo nội dung.
Content Creation là quá trình tạo ra nhiều nội dung (Content) khác nhau để phục vụ cho nhiều mục đích khác nhau (của doanh nghiệp, tổ chức hoặc bất cứ đơn vị nào khác).
Một quá trình sản xuất hay sáng tạo nội dung hoàn chỉnh sẽ có thể bao gồm các bước cơ bản như lên ý tưởng, phân tích và xác định các hạng mục nội dung cần viết, bắt đầu viết và cuối cùng là phân phối và đo lường hiệu quả có được của nội dung.
Và quá trình tạo nội dung có sự tham gia của các chuyên gia khác nhau.
Content hay Nội dung là gì?
Theo từ điển Cambridge, thuật ngữ Content có rất nhiều cách định nghĩa khác nhau như là Sự hài lòng (một thuật ngữ mô tả cảm xúc hay trạng thái hài lòng, thoải mái, hạnh phúc) hay Hàm lượng của một chất cụ thể có trong một thứ gì đó.
Tuy nhiên, trong bài viết này, Content sẽ được phân tích dưới góc nhìn truyền thông và marketing nói chung và nó có nghĩa là Nội dung.
Nội dung hay Content ở đây là khái niệm đề cập đến tất cả những gì có thể được nhìn thấy hay nghe bằng các giác quan thông thường của con người ví dụ như các văn bản (Text) có trong bài viết này, một video ca nhạc, hoặc hình ảnh (Photo) nào đó.
Content Creation là gì trong Marketing?
Content Creation là gì trong Marketing?
Mặc dù Content Creation là thuật ngữ mang ý nghĩa xây dựng hoặc sáng tạo ra cái gọi là Nội dung nói chung, tức Content Creation có thể được áp dụng trong bất cứ ngành nghề kinh doanh nào, tuy nhiên trong thực tế, thuật ngữ này lại chủ yếu được sử dụng trong bối cảnh ngành marketing, cụ thể là Content Marketing.
Trong marketing, khái niệm Content Creation đề cập đến việc sản xuất, xây dựng hay sáng tạo các sản phẩm là nội dung, phân phối nó đến các khách hàng tiềm năng với mục tiêu đạt được các chỉ số kinh doanh như xây dựng độ nhận biết thương hiệu, xây dựng lòng trung thành, hay cả bán hàng.
Bài viết này cũng chủ yếu phân tích thuật ngữ Content Creation trong bối cảnh marketing và kinh doanh nói chung.
Tại sao việc tạo ra nội dung hay Content Creation lại quan trọng?
Như đã phân tích ở trên, dù cho bạn đang kinh doanh trong lĩnh vực gì, bán sản phẩm hay dịch vụ nào thì về bản chất bạn cũng phải cần giao tiếp với khách hàng của mình thông qua thứ được gọi là Nội dung (Content).
Quá trình tạo ra nội dung (Content Creation) theo đó không phải là thứ nên làm mà là bắt buộc phải làm với bất kỳ doanh nghiệp hay thương hiệu nào.
Bởi vì Content Creation là một phần quan trọng của khái niệm lớn hơn là Content Marketing — một chiến lược xây dựng nội dung dài hạn phải bao gồm việc phát triển và chia sẻ nội dung trên các kênh để tiếp cận và thu hút nhiều đối tượng mục tiêu hơn.
Dưới đây là một số lợi ích quan trọng nhất của việc sản xuất và sáng tạo nội dung.
Các loại nội dung (Content) phổ biến nhất cần biết trong quá trình xây dựng nội dung (Content Creation).
Vì bản chất của Content Creation hay quá trình sản xuất nội dung chính là nội dung và nội dung lại có nhiều định dạng hay loại hình khác nhau, việc lựa chọn đúng loại nội dung cần xây dựng cũng rất quan trọng.
Dưới đây là một số loại định dạng nội dung phổ biến.
Bài đăng trên blog.
Các bài đăng trên blog (website) của thương hiệu là một trong những cách thức phổ biến để giáo dục người đọc hay cung cấp thông tin cho khách hàng. Các bài đăng trên blog cũng giúp nâng cao nhận thức về thương hiệu, thứ hạng tìm kiếm từ các từ khoá cụ thể và cả việc xây dựng lòng trung thành của khách hàng với thương hiệu.
Các nghiên cứu về định dạng nội dung cho thấy, cả các bài viết ngắn và dài đều quan trọng với thương hiệu và sự quan tâm của khách hàng.
Một số ý tưởng sáng tạo nội dung (Content Creation) cho các bài đăng trên blog.
Trong khi tuỳ thuộc vào từng ngành kinh doanh và nhóm đối tượng khác nhau, các ý tưởng xây dựng nội dung (Content Creation ideas) có thể khác nhau, dưới đây là một số ý tưởng chính bạn có thể tham khảo:
Nội dung 101: Là loại nội dung giúp trả lời tất cả các câu hỏi thường gặp mà người mới bắt đầu trong ngành thường gặp phải.
Nội dung 201: Cung cấp các kiểu nội dung phức tạp hơn cho các chuyên gia dày dặn kinh nghiệm.
So sánh: Nội dung so sánh nhiều giải pháp, sản phẩm hoặc dịch vụ khác nhau.
Curations: Chia sẻ các tài nguyên hữu ích nhất về một chủ đề nhất định.
Hướng dẫn cách thực hiện (How-to): Đưa ra các hướng dẫn chi tiết từng bước cho các công việc nào đó.
Tin tức: Nội dung chia sẻ các thông báo về các cập nhật, tin tức mới nhất trong ngành và hơn thế nữa.
Đồ họa thông tin (Infographics)
Infographics hay các đồ hoạ thông tin là một trong những cách thức trực quan nhất để thể hiện nội dung.
Infographics sẽ thể hiện rõ nét nhất giá trị của nó nếu được sử dụng để truyền tải những thông tin phức tạp hoặc mang nặng yếu tố dữ liệu (số liệu). Thay vì các nội dung bằng văn bản (Text) thường khá khô khan, Infographics ngược lại sống động hơn nhiều.
Một số ý tưởng sáng tạo nội dung cho Infographics.
Infographics trên thực tế có nhiều hình dạng và hình thức khác nhau. Dưới đây là một số ý tưởng có thể khơi dậy sự sáng tạo của bạn:
Giải thích quy trình: Chia nhỏ một quy trình phức tạp liên quan đến ngành hoặc sản phẩm theo cách trực quan dễ hiểu.
Xu hướng của ngành: Sử dụng dữ liệu để minh họa cho các xu hướng hiện tại trong ngành.
Câu hỏi thường gặp (FAQs): Chuyển các câu hỏi thường gặp nhất của khách hàng thành các đồ họa thông tin hấp dẫn.
Biểu đồ (Chart): Truyền tải các nội dung chủ yếu là có nhiều số liệu.
Video.
Trong bối cảnh giao tiếp và truyền thông nói chung ngày nay, với sự phát triển nhanh chóng của các nền tảng mạng xã hội như Facebook mà đặc biệt hơn là TikTok hay YouTube, video trở thành một trong những loại nội dung được sử dụng, yêu thích và có khả năng tương tác cao nhất.
Nhiều nghiên cứu cũng cho thấy rằng video là định dạng nội dung hiệu quả nhất trong việc tiếp cận và chuyển đổi khách hàng mục tiêu.
Dù là video giải trí hay video giới thiệu sản phẩm, video nên là định dạng ưu tiên của các thương hiệu trong bối cảnh sáng tạo nội dung ngày nay.
Một số ý tưởng sáng tạo nội dung cho video.
Một khi xem video là thành phần nội dung không thể thiếu trong quá trình xây dựng nội dung (Content Creation), dưới đây là các ý tưởng bạn có thể tham khảo.
Video giải thích: Giải thích ngắn gọn một sản phẩm, dịch vụ hoặc khái niệm nào đó.
Nghiên cứu điển hình (Case Study): Nêu bật cách những khách hàng đã hài lòng khi sử dụng và trải nghiệm sản phẩm.
Hướng dẫn: Video hướng dẫn từng bước về cách thực hiện một nhiệm vụ hay công việc nào đó.
Hậu trường (BTS): Video cho thấy những góc nhìn khác về hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp (ví dụ cách sản xuất ra một sản phẩm).
Podcast.
Podcast là hình thức sản xuất và chia sẻ nội dung thông qua cách kể chuyện và thảo luận. Các Podcast này thường được phát theo chủ đề hoặc kỳ (Series).
Sau khi các nội dung Podcast được hoàn thành, các nền tảng như Apple Podcasts, Spotify hay Google Podcasts chính là nơi bạn có thể sử dụng để giao tiếp với khách hàng hay đối tượng người nghe (người xem).
Một số ý tưởng sáng tạo nội dung cho podcast.
Cũng tương tự Video hay Infographics, nội dung Podcast cũng phù hợp với nhiều định dạng sáng tạo khác nhau. Dưới đây là một số ý tưởng mà bạn có thể khám phá.
Phỏng vấn với chuyên gia: Phỏng vấn với các chuyên gia trong ngành, các nhà lãnh đạo tư tưởng và những người có ảnh hưởng.
Câu chuyện thành công: Khám phá cách các doanh nghiệp liên quan đến chủ đề podcast đạt được sự thành công.
Phiên hỏi đáp: Tập trung vào việc trả lời các câu hỏi do khán giả của kênh gửi.
Xu hướng của ngành: Làm nổi bật các chủ đề mang tính thịnh hành trong các lĩnh vực cụ thể.
Thảo luận nhóm: Thu hút các chuyên gia tham gia thảo luận nhóm về một chủ đề cụ thể nào đó.
Bài đánh giá: Podcast thảo luận về sách, phim hay các sự kiện liên quan đến chủ đề podcast.
Bài đăng trên mạng xã hội.
Với hơn 5 tỷ người dùng hiện đang sử dụng các nền tảng mạng xã hội, mạng xã hội trở thành mỏ vàng với bất cứ doanh nghiệp nào. Vì vậy, họ có thể kết nối với nhiều đối tượng khác nhau và đáp ứng sở thích của họ.
Trong khi tuỳ thuộc vào từng nhóm khách hàng khác nhau, mức độ ưu tiên của thương hiệu có thể khác nhau trên các nền tảng, việc đa dạng hoá kênh tiếp cận là chiến lược mà mọi thương hiệu đều nên cân nhắc.
Với lượng tiếp cận tiềm năng khổng lồ, thương hiệu có thể sử dụng các bài đăng trên mạng xã hội để xây dựng nhận thức về thương hiệu, giáo dục khách hàng, bán hàng và hơn thế nữa.
Một số ý tưởng sáng tạo nội dung (Content Creation) cho bài đăng trên mạng xã hội.
Quảng cáo nội dung: Chia sẻ các liên kết đến những nội dung được xuất bản trên website của doanh nghiệp.
Nội dung hậu trường: Đăng ảnh hoặc video về không gian làm việc, sản xuất sản phẩm, hoặc quá trình sáng tạo của doanh nghiệp.
Các nội dung về sản phẩm: Giải thích những lợi ích của sản phẩm hoặc dịch vụ mới nhất của doanh nghiệp.
Nội dung do người dùng tạo ra (UGC): Chia sẻ lại ảnh, video hay bài đánh giá sản phẩm do các khách hàng đã sử dụng sản phẩm tạo ra.
Thăm dò ý kiến và khảo sát: Thu thập ý kiến hoặc hiểu biết từ các khách hàng hiện tại.
Quà tặng (Khuyến mãi): Tổ chức các cuộc thi tặng quà hay chạy các chương trình khuyến mãi đặc biệt cho khách hàng.
Các nội dung mang tính xu hướng (Trend, Memes): Thương hiệu có thể thúc đẩy lượng tương tác và tính liên quan của thương hiệu thông qua các nội dung xu hướng.
Các nội dung giải trí khác: Ngoài việc sản xuất các nội dung liên quan trực tiếp đến sản phẩm hay bán hàng, thương hiệu cũng có thể tạo ra các nội dung giải trí nhằm truyền cảm hứng cho khách hàng. Các nội dung giải trí thường có khả năng tương tác cao hơn nhiều so với các nội dung phi giải trí khác.
Nội dung tương tác.
Nội dung tương tác (Interactive Content) là những nội dung khuyến khích người dùng tương tác với nội dung của thương hiệu, loại nội dung này có thể khiến họ dành nhiều thời gian hơn trên website, tương tác nhiều hơn trên mạng xã hội và hơn thế nữa.
Một số ý tưởng sáng tạo nội dung cho nội dung tương tác.
Nội dung tương tác có thể có nhiều hình thức hay định dạng thể hiện khác nhau. Dưới đây là một số định dạng phổ biến.
Câu hỏi & khảo sát: Cho phép người xem nội dung tìm hiểu, tương tác và đưa ra câu trả lời riêng của họ.
Hội thảo tương tác (Interactive webinars): Cho phép người tham dự các buổi hội thảo trên web cơ hội nhận xét và đặt câu hỏi theo thời gian thực.
Bản đồ tương tác: Cho phép người dùng tập trung vào các khu vực địa lý khác nhau để khám phá thông tin cụ thể khác nhau.
Cách phát triển một quy trình xây dựng nội dung trong marketing (Marketing Content Creation).
Như đã có đề cập ở đầu bài viết, trong khi khái niệm Content Creation hay quy trình xây dựng và sáng tạo nội dung là rất rộng, thuật ngữ này lại chủ yếu được sử dụng trong phạm vi ngành marketing nói chung và content marketing nói riêng.
Nếu nội dung là một phần quan trọng của thương hiệu của bạn, dưới đây là chi tiết quy trình xây dựng và sáng tạo nội dung trong marketing mà bạn có thể tham khảo.
Xây dựng các ý tưởng tạo nội dung (Content Creation Ideas).
Mọi nội dung (Content) hay ho nhất phải được bắt đầu từ việc phát triển những ý tưởng sáng tạo mà đối tượng người xem nội dung sẽ thấy thú vị và hữu ích nhất.
Những ý tưởng xây dựng nội dung theo đó nên tập trung vào các nhu cầu, sở thích và cả những nỗi đau của khách hàng.
Để có thể có được các thông tin này, dưới đây là một số tài nguyên hay công cụ mà bạn có thể sử dụng:
Các công cụ phân tích: Sử dụng Google Analytics, các công cụ có sẵn nền các tảng mạng xã hội và công cụ khác để tìm hiểu về sở thích và vấn đề của khách hàng.
Ý kiến từ nhân viên bán hàng: Nói chuyện với các nhân viên bán hàng để khám phá các chủ đề mà khách hàng (hiện tại) và khách hàng tiềm năng thường nhắc tới nhất.
Dữ liệu từ các cuộc gọi hỗ trợ khách hàng: Các dữ liệu có được từ các cuộc gọi chăm sóc và hỗ trợ khách hàng là vô cùng quý giá trong việc thấu hiểu khách hàng. Các dữ liệu từ CRM hay CDP là nơi bạn có thể khám phá.
Dữ liệu nghiên cứu cạnh tranh: Các dữ liệu có được từ các công cụ phân tích đối thủ cạnh tranh cũng giúp bạn tìm hiểu rõ hơn về khách hàng của mình.
Content Brief.
Content Brief trong tiếng Việt có nghĩa là Tóm tắt nội dung hay Bản tóm tắt nội dung, nó là một tài liệu ngắn cung cấp cho người viết nội dung những hướng dẫn và hiểu biết cơ bản để bắt đầu quá trình xây dựng nội dung. Nội dung có thể là các bài viết trên blog, bài PR, sách trắng hoặc các bài đăng trên mạng xã hội.
Để có thể tạo ra các nội dung chi tiết hiệu quả và đạt được mục tiêu ban đầu, các bản tóm tắt nội dung này là rất cần thiết.
Sản xuất nội dung.
Một khi bạn đã có thể xác định được việc bạn cần viết về chủ đề hay ý tưởng gì, đồng thời bạn cũng đã có trong tay các bản tóm tắt về những gì cần viết, đã đến lúc bạn bắt tay vào quá trình xây dựng hay sản xuất nội dung.
Khi bắt tay vào quá trình này, dưới đây là một số mẹo mà bạn nên cân nhắc để nội dung được tạo ra có nhiều giá trị hơn.
Lấy khách hàng làm trung tâm: Điều chỉnh nội dung theo sở thích và nỗi đau của khách hàng (người tiếp cận nội dung).
Có giá trị: Cung cấp các giá trị cho khách hàng bằng cách giáo dục họ hoặc trình bày những giải pháp cho họ.
Rõ ràng và ngắn gọn: Sử dụng ngôn ngữ đơn giản, tránh biệt ngữ và giữ cho thông điệp đi thẳng vào vấn đề.
Thu hút: Tận dụng cách kể chuyện (stotytelling), hình ảnh và có thể cả các yếu tố tương tác để thu hút sự chú ý của khách hàng.
Đáng tin cậy: Trích dẫn các nguồn tin đáng tin cậy, sử dụng dữ liệu để hỗ trợ cho các tuyên bố được đưa ra trong bài.
Độc đáo: Nội dung cần phải cung cấp ít nhất là một điều gì đó khác biệt so với những gì hiện có từ đối thủ.
Có thể hành động: Nội dung tốt là những nội dung khuyến khích khách hàng hay người xem làm một điều gì đó, cho dù đó là thay đổi việc suy nghĩ, áp dụng các kiến thức mà họ đã thu được, hay cả việc mua hàng.
Quảng bá nội dung.
Đối với nhiều doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp mới, việc tạo ra các nội dung hấp dẫn là chưa đủ, mà việc giới thiệu hay quảng bá nó tới nhiều khách hàng tiềm năng mới thực sự quan trọng.
Sản xuất và sáng tạo nội dung (Content Creation) và Marketing luôn đi đôi với nhau. Vì vậy, bạn có thể (và nên) quảng bá nội dung trên nhiều kênh hay nền tảng nhất có thể để tối đa hoá khả năng tiếp cận và bán hàng.
Phân tích hiệu suất, tối ưu và lặp lại quá trình.
Bước cuối cùng trong quy trình sản xuất nội dung (Content Creation) đó là phân tích hiệu suất, tối ưu hoá và lặp lại quá trình xây dựng nội dung.
Phân tích hiệu suất nội dung có thể giúp nhà sáng tạo nội dung (Content Creator) hiểu điều gì đang mang lại hiệu quả và điều gì không.
Để có thể đánh giá đúng hiệu quả, người làm nội dung cần chọn đúng chỉ số (KPIs) đánh giá, dưới đây là các chỉ số hay số liệu đánh giá nội dung mà bạn có thể sử dụng:
Tỷ lệ chuyển đổi (Conversion rate): Tỷ lệ chuyển đổi là phần trăm người dùng thực hiện hành động mong muốn trên website, chẳng hạn như mua hàng hoặc đăng ký dịch vụ.
Lượt xem trang hoặc video (View): Tổng số lần người dùng xem website hoặc video.
Lưu lượng truy cập tự nhiên (Organic Traffic): Là số lượng người dùng truy cập đến website bằng cách nhấp vào các kết quả tìm kiếm tự nhiên (SEO) hay nội dung không sử dụng quảng cáo.
Phạm vi tiếp cận trên mạng xã hội (Reach): Tổng số người xem duy nhất đã xem (thấy) nội dung của thương hiệu trên mạng xã hội.
Thời gian tương tác trung bình: Lượng thời gian trung bình mà người dùng ở lại trên một website nhất định hoặc trên một kênh nào đó.
Thứ hạng của từ khóa: Các nội dung tốt cũng đóng góp một phần không nhỏ đến cách website được xếp hạng trên trang kết quả tìm kiếm (SERPs). Thứ hạng của từ khoá (Keyword) chính là vị trí hiển thị của website (webpage) trên công cụ tìm kiếm dựa trên từng từ khoá hay truy vấn tìm kiếm cụ thể.
Backlinks: Là các liên kết từ các website khác trỏ về website của thương hiệu. Nội dung càng tốt thì sẽ càng được nhiều website khác đăng lại và dẫn nguồn. Điều này tạo nên cái gọi là backlink cho website.
Bạn có thể sử dụng các công cụ như Google Analytics 4 (GA4) để thu thập các điểm dữ liệu như đã phân tích ở trên.
Kết luận.
Trên đây là toàn bộ các phân tích của MarketingTrips cho câu hỏi Content Creation là gì, tại sao việc sản xuất và sáng tạo nội dung lại quan trọng và cả quá trình chi tiết để triển khai việc sáng tạo nội dung.
Hy vọng với các kiến thức nền tảng này, bạn có nhiều cách hơn để bắt đầu xây dựng nội dung cho doanh nghiệp của mình, tối ưu hoá để đạt được các mục tiêu của doanh nghiệp và hơn thế nữa.
Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer
Giám đốc điều hành Bumble, Whitney Wolfe Herd: Bumble ra đời vào thời điểm tôi không muốn liên quan gì đến các ứng dụng hẹn hò. Thay vào đó, tôi chỉ muốn tạo ra một mạng xã hội nơi phụ nữ có thể trao đổi những lời khen ngợi. Nhưng rồi ý tưởng đó đã trở thành Bumble.
Cách CEO ứng dụng hẹn hò Bumble xây dựng đế chế trị giá 1.9 tỷ USD
Người sáng lập kiêm Giám đốc điều hành Bumble, Whitney Wolfe Herd từng nói cô muốn làm cho ứng dụng hẹn hò của mình trở nên phổ biến như những gã khổng lồ về mạng xã hội và cô thích ý tưởng khách hàng không cần tiêu tiền. Chính vì vậy, Bumble từng chỉ có “ngân sách khiêm tốn” vào thời điểm đó.
LÀM ĐIỀU BẤT THƯỜNG ĐỂ TẠO NÊN THÀNH CÔNG PHI THƯỜNG
Thay vì các chiến dịch tiếp thị truyền thống, Wolfe Herd đã thực hiện một loạt “thủ thuật điên rồ” để thu hút sự quan tâm của các nhà đầu tư đến công ty khởi nghiệp của cô.
Để tăng lượt tải xuống ứng dụng, Whitney Wolfe Herd từng sẵn sàng trả 20 USD cho mỗi chiếc bánh quy phủ sương màu vàng với biểu tượng Bumble màu trắng để tặng những học sinh gần trụ sở công ty để đổi lấy việc tải xuống ứng dụng và chia sẻ nó với bạn bè của họ.
Sử dụng chiến lược tương tự, Wolfe Herd từng truyền bá ứng dụng này bằng cách dãn nhãn Bumble lên các hộp bánh pizza để tặng sinh viên đại học.“Chúng tôi không có Đô la tiếp thị.
Và thật đáng ngạc nhiên, khi mà sau đó có nhiều phụ nữ tải xuống, nhiều người đàn ông tải xuống và họ bắt đầu khớp nhau. Và đó là lúc hiệu ứng quả cầu tuyết thực sự bắt đầu”.
Bumble được ra mắt vào tháng 12/2014 với khoản tài trợ 10 triệu USD từ người đồng sáng lập Badoo, Andrey Andreev, theo báo cáo của Forbes.
Trên thực tế, Bumble từng bị các nhà đầu tư trước đó từ chối vì họ cho rằng ứng dụng hẹn hò mà để phụ nữ bắt đầu cuộc trò chuyện với đối tác của họ đã đi ngược lại các chuẩn mực xã hội và sẽ không được công chúng đón nhận.
“Mỗi lần tôi nhận được một email hoặc dòng tweet gây tổn thương hoặc nhà đầu tư nào đó nói với tôi ý tưởng về Bumble thật ngu ngốc, tôi lại càng thực sự hào hứng với nó”, Wolfe Herd nói. “Mọi người thường không biết cách nhìn những thứ chưa tồn tại, vì vậy bạn chỉ cần tin vào chính mình“.
CEO BUMBLE: HÃY VỨT BỎ NHỮNG QUY TẮC CŨ RA NGOÀI CỬA SỔ
7 năm sau khi ra mắt ứng dụng, vào tháng 2/2021, Wolfe Herd trở thành nữ sáng lập trẻ nhất có thể đưa công ty IPO , đồng thời thực hiện sứ mệnh trao quyền cho phụ nữ trong cả cuộc sống nghề nghiệp và cá nhân của họ. Bumble hiện
sở hữu một bộ ứng dụng bao gồm Bumble và Badoo, có vốn hóa thị trường là 1,91 tỷ USD. Từ những khởi đầu khiêm tốn, công ty đã ngày càng phát triển mạnh mẽ, Whitney Wolfe Herd quyết tâm tạo dựng một nền tảng hẹn hò ngày càng tử tế.
Cô không chỉ có tên trong danh sách 100 người có ảnh hưởng nhất của Tạp chí TIME và lọt vào danh sách Forbes 30 Under 30, mà cô còn là bà mẹ hai con với một số dự án mới thú vị đang được triển khai.
“Tôi không đi theo con đường của những người sáng lập truyền thống – tôi chưa bao giờ làm công việc tư vấn hay học trường kinh doanh.
Công việc đầu tiên của tôi không phải là công việc mơ ước và nó đã đưa tôi đến một con đường rất khác”, Whitney Wolfe Herd chia sẻ.
BIẾN THÁCH THỨC THÀNH NHIÊN LIỆU
Chia sẻ với tờ Body + Soul, CEO Bumble cho biết thời kỳ đầu trong sự nghiệp của mình, cii từng là mục tiêu của sự lạm dụng và quấy rối trực tuyến.
Cô liên tục sống trong trạng thái lo lắng thường trực, với cô khi ấy, Internet cũng là một thứ nguy hiểm và độc hại. Chính khi đó, cô biết mình phải tạo ra một mạng internet tử tế hơn và lành mạnh hơn. “Khi đó, tôi phải tự giải quyết vấn đề này, tôi có thể biến thế giới trực tuyến thành không gian an toàn hơn cho những phụ nữ khác”, cô nói.
Wolfe Herd: Bumble, nơi hành vi xấu không được dung thứ và nơi phụ nữ cảm thấy được trao quyền để bắt đầu được sinh ra từ kinh nghiệm của chính tôi. Ngoại trừ những người bạn thân nhất của tôi, dường như không có nhiều người tin rằng ứng dụng hẹn hò dành cho phụ nữ là cần thiết hoặc có thể thành công.
Khi mới thành lập vào năm 2014, Bumble thậm chí còn không có văn phòng. Họ chỉ có bốn người làm việc trong một căn hộ hai phòng ngủ. “Tại Bumble, chúng tôi làm việc chăm chỉ nếu không, chúng tôi đã không thể tung ra các tính năng mới, mở rộng quy mô và đưa công ty ra công chúng.
Nhưng trên thực tế, chúng tôi không tôn vinh văn hóa hối hả”, cô cho rằng không ai nên hy sinh sức khỏe tinh thần của mình vì sự nghiệp, nếu cô đã dậy sớm làm việc qua email, cô sẽ dành thời gian vào buổi chiều để dành cho con mình.
Khác với những CEO đang tận dụng tối đa sức lực nhân viên, Wolfe Herd quản trị công ty theo cách khác biệt: “Trong thời kỳ đại dịch, khi sức khỏe tinh thần của chúng tôi bị ảnh hưởng nặng nề, chúng tôi đã áp dụng chính sách nghỉ phép hai tuần cho toàn công ty mỗi năm, cũng như chính sách nghỉ phép được trả lương không giới hạn.
Tôi tự hào về văn hóa của chúng tôi tại Bumble: trung thực, hòa nhập, trách nhiệm và tất nhiên là cả lòng tốt”.
Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer
Số lượng các công ty khởi nghiệp “ngã ngựa” đang gia tăng, và điều này ảnh hưởng nghiêm trọng đến các đại gia đám mây như Amazon Web Services, Google.
Nhiều startup phá sản và ngừng hoạt động trong quý 3 năm 2023
Các nhà phân tích từng cảnh báo về sự kiện “tuyệt chủng hàng loạt” đối với thế giới khởi nghiệp. Lúc đó, làn sóng startup đóng cửa gần như mới chỉ bắt đầu.
Theo Business Insider, bốn tháng sau, làn sóng các startup ngừng hoạt động đã gia tăng nhanh chóng và bắt đầu ảnh hưởng đến lĩnh vực đám mây.
Theo dữ liệu từ Carta, cơ quan theo dõi chặt chẽ tình trạng đóng cửa của các công ty khởi nghiệp, có 212 công ty khởi nghiệp đã phá sản hoặc giải thể theo nhiều cách khác nhau trong quý 3.
Tất nhiên, không phải mọi công ty khởi nghiệp đều là khách hàng của Carta. Vì thế, con số có thể còn cao hơn. Song điều đáng chú ý là tốc độ đóng cửa của các startup.
Tính đến thời điểm hiện tại trong năm nay, Carta đã chứng kiến 543 công ty khởi nghiệp ngừng hoạt động. Đó là mức cao nhất từ trước đến nay kể từ năm 2019.
Đây là tin xấu đối với các nhà cung cấp dịch vụ đám mây vì doanh thu và tốc độ tăng trưởng của họ một phần phụ thuộc vào chi tiêu của các công ty khởi nghiệp.
Nếu những doanh nghiệp trẻ này đang chết dần, lĩnh vực đám mây sẽ khó phát triển với tốc độ như trước đây.
Theo Peter Walker, người đứng đầu bộ phận phân tích tại Carta, việc ngừng hoạt động của các công ty khởi nghiệp sẽ tiếp tục với tốc độ cao trong 2 đến 3 quý tới.
Khi các công ty khởi nghiệp hết tiền và đóng cửa, họ sẽ ngừng chi tiêu cho các dịch vụ đám mây. Khi hơn 500 công ty phá sản trong một vài quý, con số đó thực sự có thể tăng lên.
AMAZON WEB SERVICES “LÃNH ĐỦ”
Amazon Web Services có thể là ông lớn dễ gặp phải hiện tượng này nhất. Nhà tiên phong về đám mây đã sớm xây dựng được vị trí dẫn đầu bằng cách phục vụ các công ty khởi nghiệp tốt hơn bất kỳ nhà cung cấp nào khác.
Trong thời kỳ bùng nổ khởi nghiệp kéo dài, điều này thực sự thúc đẩy tăng trưởng doanh thu của AWS. Khi các công ty như Airbnb chuyển từ doanh nghiệp nhỏ thành tập đoàn lớn trong vài năm, họ sẽ chi rất nhiều tiền cho các dịch vụ đám mây. Và AWS đã “vớ bẫm”.
Trên trang web của mình, AWS cho biết họ đã giúp “nhiều công ty khởi nghiệp khởi nghiệp, xây dựng và thành công hơn bất kỳ nhà cung cấp đám mây nào khác”.
AWS lưu ý rằng hơn 250.000 công ty khởi nghiệp sử dụng nền tảng đám mây của họ và 83% trong số 1.000 kỳ lân trên toàn thế giới chạy trên AWS.
TỪ BÙNG NỔ ĐẾN CƠN NGƯỢC GIÓ
Tuy nhiên, giờ đây, sự tập trung này đang trở thành một cơn gió ngược. Khi Amazon báo cáo doanh thu, các nhà phân tích của Bernstein kỳ vọng AWS sẽ đạt mức tăng trưởng doanh thu so với cùng kỳ năm ngoái là 12,5% trong quý thứ ba.
Con số này giảm từ 30% xuống 40% so với cùng kỳ năm trước về tốc độ tăng trưởng của AWS vào năm 2021, khi các công ty khởi nghiệp đang ngập trong tiền mặt và rất ít công ty khởi nghiệp phải đóng cửa. AWS đã trở thành một công ty chậm tăng trưởng trong lĩnh vực này.
Có những dấu hiệu khác cho thấy nhu cầu yếu hơn. Cuối ngày thứ Ba (24/10), Google đã báo cáo hoạt động kinh doanh trên nền tảng đám mây của mình tăng trưởng chậm hơn và giám đốc điều hành Ruth Porat đổ lỗi cho “những nỗ lực tối ưu hóa khách hàng”.
Cổ phiếu Google giảm 10%, trong khi cổ phiếu Amazon giảm 6%. Giám đốc tài chính Microsoft Amy Hood cũng đã đề cập đến những nỗ lực tối ưu hóa này vào thứ Ba.
Tối ưu hóa khách hàng có nghĩa là các công ty khởi nghiệp và các công ty khác vẫn đang cố gắng tìm cách kiểm soát hóa đơn trên nền tảng đám mây của họ, ngay cả khi họ chưa phá sản.
Có một cảnh báo lớn cho những mối lo ngại này. Sự bùng nổ AI tổng quát đang thúc đẩy nhu cầu về các dịch vụ đám mây AI.
Giữa làn sóng khởi nghiệp tuyệt chủng, một số công ty khởi nghiệp tập trung vào công nghệ AI đang tìm cách huy động các vòng cấp vốn mới lành mạnh. Và họ đang sử dụng một số tiền mới đó để chi tiêu cho các dịch vụ đám mây AI.
Tuy nhiên, cho đến nay, Microsoft có vẻ là người được hưởng lợi chính từ việc này. Tăng trưởng đám mây của công ty rất tốt trong quý 3, nhờ nhu cầu về các dịch vụ AI mới.
Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer
Bamboo Airways tạm dừng khai thác một loạt đường bay quốc tế giữa Việt Nam và Anh, Hàn Quốc, Úc, Đức, Singapore, Thái Lan, Nhật Bản, Đài Bắc (Đài Loan, Trung Quốc).
Bamboo Airways tạm dừng khai thác hàng loạt đường bay quốc tế
Các đường bay tạm dừng khai thác bao gồm Hà Nội-London Gatwick (Anh) từ 18-10, Hà Nội-Incheon (Hàn Quốc) từ 29-10, TP HCM-Sydney/Melbourne (Úc) từ 4-11, TP HCM/Hà Nội-Frankfurt (Đức) từ 4-11, TP HCM-Singapore từ 4-11, Hà Nội-Bangkok (Thái Lan)/Narita (Nhật Bản)/Đài Bắc (Đài Loan, Trung Quốc) từ 8-11, TP HCM – Bangkok từ 21-11.
Đại diện Bamboo Airways cho biết tạm dừng khai thác một số đường bay quốc tế để đảm bảo tập trung nguồn lực, ưu tiên tính hiệu quả trong vận hành, đáp ứng nhu cầu của hành khách và điều kiện thị trường, đặc biệt trong giai đoạn cao điểm cuối năm và Tết Nguyên đán 2024.
Về quyền lợi của khách hàng khi tạm dừng khai thác các đường bay này, đại diện Bamboo Airways khẳng định cam kết đảm bảo tối đa quyền và lợi ích chính đáng trong mọi trường hợp. Hãng đã và đang tăng cường nhân sự chuyên trách để tiếp nhận và xử lý các yêu cầu hỗ trợ trong thời gian sớm nhất có thể, bao gồm đổi lịch bay miễn phí hoặc hoàn tiền vé đầy đủ cho hành khách.
Thời gian vừa qua, hoạt động điều chỉnh tần suất khai thác một số đường bay của Bamboo Airways đã khiến lịch trình di chuyển và trải nghiệm dịch vụ của một số hành khách bị ảnh hưởng. Đại diện Bamboo Airways lý giải do khối lượng yêu cầu tăng đột biến, một số công tác đang mất nhiều thời gian hơn để được xử lý, mặc dù Bamboo Airways đã huy động tối đa nguồn nhân lực trực 24/7 tại các điểm chăm sóc khách hàng.
Với các đường bay không nằm trong diện điều chỉnh, hoạt động khai thác của hãng vẫn bình thường. Bamboo Airways tiếp tục duy trì ổn định hoạt động khai thác các đường bay trục kết nối Hà Nội-TP HCM, Hà Nội-Đà Nẵng, TP HCM-Đà Nẵng và các đường bay địa phương kết nối Hải Phòng, Vinh, Đồng Hới, Huế, Nha Trang, Đà Lạt, Quy Nhơn, Phú Quốc, Côn Đảo…
Đại diện hãng hàng không cho biết đang triển khai quyết liệt các giải pháp để tái cấu trúc toàn diện, nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh, xây dựng hướng đi phù hợp mới cho giai đoạn cuối năm 2023, đầu năm 2024.
Cụ thể, cấu trúc đội máy dự kiến, bao gồm các chủng loại máy bay thân hẹp và phản lực, khai thác trên các đường bay nội địa trọng điểm, nổi bật tập trung vào các đường bay trục chính đến Hà Nội, TP HCM, Đà Nẵng, các đường bay du lịch, công vụ có nhu cầu cao cũng như các đường bay quốc tế tới Đông Nam Á.
Trước hết, Hãng đặt mục tiêu đưa quy mô đội máy bay về lại 30 chiếc, hướng tới nâng lên 50 chiếc và nhiều hơn.
Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer
Để trở thành công cụ tìm kiếm mặc định của Apple, Microsoft đã đề xuất chi 15 tỷ USD mỗi năm tuy nhiên Google đã đưa ra con số cao hơn để giành chiến thắng.
Microsoft đề xuất 15 tỷ USD cho Apple tuy nhiên Google lại trả mức cao hơn
Theo đó, trong phiên tòa chống độc quyền giữa Mỹ và Google, CEO Microsoft Satya Nadella đã nói rằng một trong những lý do khiến Bing đứng sau Google là vì Apple đã đặt Google làm công cụ tìm kiếm mặc định của mình.
Mặc dù thỏa thuận của Google với Apple là một trong những trọng tâm chính của vụ kiện, một câu hỏi luôn được đặt ra là Google phải trả bao nhiêu cho Apple để trở thành công cụ tìm kiếm mặc định trong Safari trên các thiết bị như Mac, iPad và iPhone.
Đặc biệt là khi Apple thậm chí còn từ chối lời đề nghị khoảng 15 tỷ USD mỗi năm của Microsoft.
Nhiều ước tính trong quá trình phân tích cho thấy Google đã trả cho Apple từ 10 tỷ đến 20 tỷ USD mỗi năm để biến Google thành công cụ tìm kiếm mặc định trên Safari. Tuy nhiên, một báo cáo mới của New York Times hiện tiết lộ rằng Google đã trả cho Apple “khoảng 18 tỷ USD” vào năm 2021.
Báo cáo cho thấy Google đã trả tiền cho Apple để duy trì vị thế dẫn đầu trên thị trường tìm kiếm và tiếp tục phát triển hoạt động kinh doanh của mình.
Bằng cách làm những điều này, Google hy vọng sẽ duy trì được sự thống trị của mình trên thị trường công cụ tìm kiếm và ngăn Apple trở thành một đối thủ nặng ký.
CEO Nadella cũng đề cập đến việc Google sẽ sử dụng các dịch vụ phổ biến này để quảng cáo Chrome, điều này có thể khiến người dùng từ bỏ cả Safari.
Trong khi đó, ngoài thỏa thuận với Apple, Google còn ký các hợp đồng tương tự với Samsung và Mozilla.
Những thỏa thuận này cũng đã được Bộ Tư pháp Mỹ sử dụng để tuyên bố rằng Google đã củng cố trái phép sự độc quyền của mình trong lĩnh vực tìm kiếm trực tuyến bằng cách trả tiền để trở thành công cụ tìm kiếm mặc định trên các trình duyệt và thiết bị.
Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer
TikTok và YouTube cùng với Meta đang mong muốn có được giấy phép thương mại điện tử ở Indonesia sau khi nền kinh tế lớn nhất Đông Nam Á cấm hoạt động mua sắm trực tuyến trên các nền tảng mạng xã hội.
TikTok, YouTube và Meta muốn xin giấy phép thương mại điện tử tại Indonesia
Cách đây không lâu, Bộ thương mại Indonesia đã chính thức cấm các giao dịch thương mại điện tử trên các phương tiện truyền thông mạng xã hội. Indonesia cấm bán hàng trên TikTok với mục tiêu tìm cách bảo vệ cho các doanh nghiệp trong nước.
Theo dữ liệu từ công ty tư vấn Momentum Works, với dân số hơn 270 triệu người, Indonesia đã tạo ra gần 52 tỷ USD giao dịch thương mại điện tử vào năm 2022.
Với khoảng 125 triệu người dùng tại Indonesia, việc TikTok Shop bị cấm cũng tạo ra những ảnh hưởng không nhỏ đến tình hình kinh doanh của TikTok.
Một số nguồn tin cho biết dù đã bị cấm, ByteDance, công ty mẹ của TikTok cùng với YouTube và cả Meta đang nỗ lực để có được giấy phép thương mại điện tử tại Indonesia.
Cụ thể, TikTok đang tổ chức các cuộc đàm phán về quan hệ đối tác tiềm năng với các công ty thương mại điện tử địa phương, bao gồm Tokopedia của GoTo, đồng thời sẽ xây dựng một ứng dụng TikTok Shop độc lập cho Indonesia.
Lãnh đạo của Bộ Thương mại Indonesia, Isy Karim, cho biết Meta Platforms (hiện sở hữu Facebook và Instagram) đã nộp đơn xin một loại giấy phép thương mại điện tử cho phép các nền tảng trực thuộc quảng cáo hàng hóa trên ứng dụng của mình tuy nhiên sẽ không thực hiện các giao dịch thương mại điện tử trực tiếp.
Bộ này cho biết giấy phép mới này sẽ cho phép các nhà cung cấp quảng cáo các sản phẩm và dịch vụ nhưng không thực hiện các giao dịch thương mại trong ứng dụng.
Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer
Mark Zuckerberg cho biết Threads, nền tảng tương tự X của Elon Musk, hiện thu hút gần 100 triệu người dùng hàng tháng chỉ sau ba tháng xuất hiện.
Threads hiện có hơn 100 triệu người dùng hoạt động hàng tháng (MAU)
Số liệu trên được CEO Meta công bố trong cuộc họp báo cáo tài chính quý III/2023 ngày 25/10. Trước đó, Threads cũng đã trở thành nền tảng phát triển nhanh nhất trong lịch sử ứng dụng khi đạt 100 triệu tài khoản đăng ký chỉ 5 ngày sau khi ra mắt vào 5/7.
“Tôi nghĩ từ lâu hàng tỷ người cần một ứng dụng để trao đổi thông tin một cách công khai và tích cực hơn. Threads có cơ hội trở thành ứng dụng như thế.
Chúng tôi sẽ duy trì điều đó trong ít nhất vài năm”, Zuckerberg nói. “Chúng tôi đã triển khai được ba tháng và rất hài lòng với những thứ hiện có. Phát triển cộng đồng là ưu tiên hàng đầu”.
Threads được đánh giá là mạng xã hội đơn giản khi ra mắt, chủ yếu bắt chước các tính năng có trên X. Tuy nhiên, nền tảng đang dần bổ sung nhiều tính năng mới, như khả năng tìm kiếm nhanh, chỉnh sửa bài đăng miễn phí, thêm nền web bên cạnh ứng dụng di động.
Dù vậy, Threads vẫn chưa có mặt tại châu Âu do lo ngại các quy định. Trong một bài đăng hôm 25/10, Giám đốc Instagram Adam Mosseri nói ông mong muốn nền tảng sớm xuất hiện tại châu lục này “trong vài tháng tới”.
Meta vừa báo cáo tài chính quý III/2023 với kết quả khả quan. Công ty đã kiếm được 11,58 tỷ USD trong quý, tăng mạnh so với mức 4,4 tỷ USD cùng kỳ năm 2022 và vượt qua dự đoán của giới phân tích.
Doanh thu của Meta cũng tăng 23% từ 27,71 tỷ lên 34,15 tỷ USD. Tính đến 30/9, Meta có 66.185 nhân viên, giảm 24% so với một năm trước đó.
Cũng theo Meta, số lượng người dùng hoạt động hàng tháng trên các ứng dụng của công ty, gồm Facebook, Instagram, WhatsApp và Messenger, là 3,96 tỷ, tăng 7% so với cùng kỳ năm trước. Dù vậy, công ty vẫn thua lỗ hàng tỷ USD ở mảng Reality Labs – bộ phận chuyên phát triển thiết bị thực tế ảo và sản phẩm phục vụ tham vọng metaverse.
Nhà phân tích Jeremy Goldman của Insider Intelligence đánh giá cao kết quả tài chính của Meta. “Bất chấp biến động rộng lớn trong lĩnh vực công nghệ, Meta tiếp tục đáp ứng nhiều kỳ vọng”, ông nói.
“Với quỹ đạo đi lên bền vững nhờ sự quay lại của người dùng, cách tối ưu hóa chiến lược về chi phí cũng như sa thải nhân sự, Meta không chỉ chèo lái con thuyền vượt qua sóng gió, mà còn thiết lập lộ trình tăng trưởng cho những nơi chưa được khám phá”.
Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer
Việc lộ thông tin càng ngày càng trở thành mối lo ngại lớn với mọi người, vì vậy, bạn có thể tận dụng Google để biết mình có bị lộ thông tin hay không.
Mẹo đơn giản để biết bạn bị lộ thông tin cá nhân trên Google
Hiện sự phát triển của Internet khiến cuộc sống của con người trở nên thuận tiện, dễ dàng hơn. Internet chứa kho dữ liệu khổng lồ, giúp chúng ta giải đáp muôn vàn câu hỏi. Tuy nhiên, chúng ta rất dễ bị lộ thông tin cá nhân khi đăng nhập, tìm kiếm các trang web.
Để kiểm tra xem những thông tin cá nhân nào của mình đã xuất hiện trên Internet, lịch sử tìm kiếm, thói quen tìm kiếm của bản thân… bạn có thể làm theo các cách sau:
Sử dụng công cụ Google.
Google Alert là công cụ miễn phí của Google giúp kiểm tra thông tin của bạn trên Internet. Google Alert sẽ giúp bạn tìm kiếm, tổng hợp thông tin trên Internet hàng ngày/hàng tuần/hàng tháng.
Ngay khi xuất hiện các đoạn nội dung có từ khóa là tên, số điện thoại, email của bạn thì công cụ Google Alert sẽ ngay lập tức gửi cảnh báo cho bạn thông qua email đã đăng ký.
Kiểm tra xem Google biết gì về bạn.
Dưới đây là 4 bước đơn giản để bạn biết xem Google đang biết gì về bạn bao gồm những mối quan tâm, nơi bạn từng đến, thói quen tìm kiếm.
Bước 1: Bạn truy cập vào địa chỉ myactivity.google.com/myactivity.
Bước 2: Đăng nhập vào tài khoản Google của bạn.
Google lưu trữ những truy vấn tìm kiếm bạn đã thực hiện sau khi đăng nhập tài khoản Google, nên khả năng bạn sẽ không thấy toàn bộ các tìm kiếm bạn đã thực hiện. Tuy nhiên, danh sách tìm kiếm này cũng có thể giúp bạn có cái nhìn khái quát về thói quen tìm kiếm của mình.
Bước 3: Bấm nút “Lọc theo ngày và sản phẩm”, chọn “Tất cả thời gian” tại mục “Lọc theo ngày” và “Tất cả sản phẩm” tại mục “Lọc theo sản phẩm” của Google.
Google cho phép bạn xem lịch sử tìm kiếm gần đây phân theo ngày. Bạn có thể chọn xem Hôm nay, Hôm qua, 7 ngày qua, 30 ngày qua hay vào phần Tuỳ chỉnh và nhập khoảng thời gian bạn mong muốn.
Khi đã lựa chọn được khoảng thời gian phù hợp, bạn hãy nhấn nút Kính lúp ở phía trên, góc phải hoặc nút Áp dụng ở trình đơn mới mở ra.
Bước 4: Xem Google biết gì về bạn.
Nơi bạn từng đến
Bạn có thể xem thống kê của Google về những nơi mà bạn đến bằng cách chọn mục “Hoạt động Google”. Bạn sẽ thấy tùy chọn “Truy cập dòng thời gian” để chọn mốc thời gian cần thiết. Hoặc bạn cũng có thể truy cập trực tiếp vào địa chỉ https://www.google.com/locationhistory.
Nếu không tắt định vị trên thiết bị di động, bạn có thể vào mục này để xem bản đồ tất cả các địa điểm mà mình từng đến.
Nếu không muốn Google ghi lại các vị trí mà bạn đã đến, hãy nhấn nút “Tạm dừng lịch sử vị trí” ở dưới cùng của trang. Sau đó, một cửa sổ mới sẽ mở ra. Tại đây, bạn chỉ cần nhấn nút “Tạm dừng” là được.
Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer
Từng được cho là thương vụ thành công, Elon Musk có thể làm tốt hơn những gì mà CEO tiền nhiệm đã làm được, những gì đang diễn ra hiện tại thì hoàn toàn trái ngược. X (Twitter) mất khoảng 15 triệu người dùng kể từ lúc về tay Elon Musk.
X (Twitter) mất khoảng 15 triệu người dùng kể từ lúc về tay Elon Musk
Theo số liệu mới đây của Sensor Tower, tính từ thời điểm Elon Musk mua lại Twitter và sau đó đổi tên thành X đến tháng 9, mạng xã hội X đã mất khoảng 15 triệu người dùng, lượng người dùng sử dụng hàng ngày (DAU) cũng giảm đi khoảng 16%.
Công ty có khoảng 1.500 người, giảm so với con số 7.500 vào thời điểm Elon Musk mua lại. Và một nền tảng từng là nơi tụ tập trực tuyến quan trọng của các chuyên gia truyền thông, nhà hoạt động chính trị và những người nghiện tin tức đang nhanh chóng mất đi sự liên quan như một nguồn thông tin và tranh luận theo thời gian thực.
Mục tiêu chính trong kế hoạch của Elon Musk dành cho Twitter (nay gọi là X) là chuyển từ nguồn thu quảng cáo sang đăng ký trả phí. Một phân tích mới từ nhà nghiên cứu độc lập Travis Brown ước tính rằng 950.000 đến 1,2 triệu người hiện trả tiền cho dịch vụ trả phí hàng tháng trị giá 8 USD của X.
Điều đó có nghĩa là X đã thuyết phục được ít hơn 1% người dùng đăng ký – và dẫn đến doanh thu chỉ đạt dưới 120 triệu USD hàng năm từ dịch vụ đăng ký của công ty, chưa bao gồm phí cửa hàng ứng dụng từ Apple Inc. và Google.
Đây khó có thể là khoản thay thế doanh thu quảng cáo mà Twitter dựa vào trước kỷ nguyên Elon Musk – khoảng 4,5 tỷ USD trong cả năm vừa qua với tư cách là một công ty đại chúng. Trong khi đó, nhiều nhà quảng cáo hàng đầu của X, chẳng hạn như Mondelez International, Coca-Cola, IBM và HBO, đang chi tiêu ít hơn so với trước khi Elon Musk tiếp quản, phần lớn là do các chính sách mà ông thực hiện đã khiến dịch vụ trở nên hỗn loạn và khó lường hơn.
Nói chung, theo dữ liệu từ Sensor Tower, 5 nhà quảng cáo hàng đầu của X đang chi tiêu cho quảng cáo ít hơn 67% so với trước khi công ty được mua lại. Thậm chí, một số đại lý quảng cáo lớn cho biết họ không có ý định chi tiền cho X.
Trong các tuyên bố công khai, Elon Musk cho biết ông đã cải thiện những gì ông mô tả là các quyết định tùy tiện của dịch vụ về kiểm duyệt nội dung và đã bổ sung nhiều tính năng mới, bao gồm chia sẻ doanh thu cho người dùng X có lưu lượng truy cập đáng kể, số lượt xem trên tweet và khả năng gửi tin nhắn trực tiếp dưới dạng bản ghi nhớ giọng nói. Ông cho biết X có thể có dòng tiền dương vào đầu năm tới.
Hiện do X không còn là công ty niêm yết công khai nữa, nên rất khó để nói chính xác việc quản lý của Elon Musk đã tạo ra giá trị nhiều như thế nào cho công ty.
Fidelity, một công ty quỹ đầu tư, đã giữ cổ phần trong công ty khi Elon Musk mua với giá 44 tỷ USD và họ cho biết vào tháng 5 rằng họ đánh giá cổ phần của họ chỉ còn một phần ba so với mức giá khi thỏa thuận kết thúc.
Bản thân khi thực hiện thương vụ mua lại, Elon Musk cũng khẳng định rằng: “Đây không phải là một cách để kiếm tiền. Tôi không quan tâm đến vấn đề kinh tế một chút nào”.
Nhưng khi ông đưa một khoản nợ khoảng 13 tỷ USD vào Twitter, khiến công ty phải trả hơn 1,2 tỷ USD mỗi năm tiền lãi thì rất đáng để đặt câu hỏi liệu công ty có thể tự duy trì được trong khi Elon Musk theo đuổi những mục tiêu khác của mình hay không.
Những hành động như vậy đã làm cho người dùng khó chịu khi muốn dựa vào các tín hiệu mà họ đã sử dụng lâu nay để xác định tính minh bạch của thông tin trên dòng thời gian của họ. Đồng thời, X đã giảm nhẹ các quy tắc kiểm soát nội dung, mở cánh cửa cho hàng trăm bài đăng với hình ảnh và video đầy sai lệch, chẳng hạn như lá thư giả mạo từ Tổng thống Joe Biden…
Sự hỗn loạn trong các bài đăng trên dịch vụ này là một phần của kế hoạch. Elon Musk từ lâu đã chỉ trích các chính sách của các nền tảng mạng xã hội liên quan đến việc loại bỏ nội dung, và ông đã áp dụng một chính sách dựa trên ý tưởng “tự do ngôn luận, không phải tự do lan truyền”, có nghĩa là công ty đôi khi giữ lại các nội dung sai lệch hoặc lạm dụng mà hạn chế số người xem bằng cách điều chỉnh hệ thống gợi ý của mình. Dưới chính sách mới, X đã ghi nhận một tăng đáng kể trong các bài đăng đầy căm ghét, bạo lực và sai lệch.
Chính Elon Musk đã sử dụng X để truyền tải những trò đùa phân biệt giới tính về phụ nữ là “nguy hiểm và bạo lực”, so sánh nhà đầu tư và nhà từ thiện George Soros với siêu ác nhân Magneto; và giúp lan truyền các lý thuyết âm mưu sau các sự kiện bạo lực như cuộc tấn công vào chồng của bà Nancy Pelosi và vụ xả súng tại Nashville.
Cả chính sách và hành vi cá nhân của Elon Musk đã làm phức tạp mối quan hệ của X với các nhà quảng cáo, họ muốn đảm bảo rằng quảng cáo của họ sẽ không bao giờ xuất hiện cạnh các bài đăng thù hận chẳng hạn. Các thương hiệu lớn như Merck & Co., Hilton Worldwide và AT&T đã rời bỏ trong vài tháng đầu kể từ khi Elon Musk đảm nhận vị trí lãnh đạo.
Mối quan hệ quan trọng với các công ty như Eli Lilly & Co. và PepsiCo bị tổn thương khi các tài khoản giả mạo xuất hiện trên nền tảng và tự xưng là đại diện của họ. Vào tháng 5, X đã tuyển dụng Linda Yaccarino, một cựu nhà quản lý của NBCUniversal, làm Tổng giám đốc điều hành, một phần để giúp giảm bớt sự căng thẳng với các nhà quảng cáo. Vào tháng 9, chính Elon Musk đã tiết lộ doanh số quảng cáo vẫn giảm hơn một nửa.
Kinh doanh theo mô hình đăng ký của Elon Musk, dự kiến sẽ giúp tạo ra doanh thu không phải từ quảng cáo, đồng thời giảm spam và hành vi đùa cợt bằng cách áp đặt một chi phí khi sử dụng hệ thống như một nền tảng phân phối.
Nhưng việc này lại có tác động ngược lại, vì những người tham gia xấu đã sẵn sàng trả tiền để có được huy hiệu xác thực, làm cho tài khoản giả mạo của họ trông chính chác và đảm bảo rằng nội dung của họ nhận được sự ưu ái từ các thuật toán xếp hạng của Twitter. Trong khi đó, hầu hết người dùng thông thường ít khi thấy lý do để trả phí, làm suy yếu giả thuyết rằng áp dụng việc đăng ký trả phí sẽ giúp X từ bỏ quảng cáo.
Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer