Việc Google ngưng hỗ trợ cookie của bên thứ 3 trên trình duyệt Chrome sẽ làm xáo trộn ngành quảng cáo.
Từ ngày 3/3, Google nêu chi tiết kế hoạch ngừng bán quảng cáo dựa trên dữ liệu duyệt web của người dùng. Theo Google, kế hoạch dự kiến sẽ bắt đầu từ năm 2022.
Theo CNET, trong bối cảnh người dùng bắt đầu nhận thức nhiều hơn về quyền riêng tư, động thái của Google đã làm rung chuyển ngành quảng cáo kỹ thuật số.
Ngừng kinh doanh theo cách cũ
Năm 2020, công ty cung cấp dịch vụ truy vấn lớn nhất thế giới tuyên bố chặn cookie của các website bên thứ 3 trên trình duyệt Chrome.
Dự kiến, Google sẽ loại bỏ hoàn toàn cookie của bên thứ 3 và đầu tư vào công nghệ theo dõi người dùng thay thế.
Cookie là những tập tin do một trang web gửi đến thiết bị của người dùng. Chúng được lưu lại khi người dùng truy cập website đó. Cookie được dùng để ghi nhớ thông tin, trạng thái, hoạt động mà người dùng thực hiện trong quá trình truy cập hay duyệt web.
Nói một cách dễ hiểu, cookie sẽ lưu trữ thao tác của người dùng như số lần bấm vào chuyên mục mà người dùng yêu thích trên một trang web.
Những thông tin này chính là nguồn tài nguyên giá trị giúp các công ty quảng cáo phân tích và nhắm mục tiêu tiếp cận tốt hơn.
“Nếu quảng cáo kỹ thuật số không phát triển và giải quyết các vấn đề về quyền riêng tư, khái niệm duyệt web miễn phí và mở rộng sẽ bị đe dọa.
Mọi người không nên phải chấp nhận việc bị theo dõi trên website chỉ để thu về một số lợi ích từ quá trình quảng cáo”, David Temkin, quản lý mảng sản phẩm của Google, góc quyền riêng tư, cho biết.
Thông báo được đưa ra trong bối cảnh các hoạt động kinh doanh quảng cáo và tìm kiếm của Google lọt vào tầm ngắm của giới chức Mỹ.
Gã khổng lồ công nghệ đã phải đối mặt với 3 vụ kiện chống độc quyền lớn suốt thời gian qua, bao gồm một vụ kiện mang tính bước ngoặt do Bộ Tư pháp Mỹ khởi xướng và một khiếu nại từ liên minh lưỡng đảng các bang.
Theo CNET, lời tuyên bố hôm 3/3 của Google là nỗ lực của công ty với hy vọng tìm kiếm được giải pháp quyền riêng tư cho người dùng.
Trong khi nhiều công ty hoạt động trong ngành quảng cáo tiếp tục nâng cao khả năng theo dõi người dùng, lời tuyên bố của Google sẽ là “gáo nước lạnh” làm xáo trộn ngành công nghiệp này.
“Trong bối cảnh người dùng ngày càng nâng cao nhận thức về quyền riêng tư, cùng với đó là hàng loạt quy định được ban hành bởi chính phủ, việc duy trì các hoạt động theo dõi dữ liệu người dùng sẽ không phải một khoản đầu tư lâu dài bền vững”, Temkin chia sẻ.
Google chỉ đang đánh lạc hướng người dùng?
Nước đi của Google vẫn tồn tại những hạn chế nhất định. Quá trình thay đổi sẽ không áp dụng với bên thứ nhất, tức các sản phẩm do Google phát hành. R
õ ràng, Google vẫn có thể thu thập dữ liệu khi người dùng sử dụng Chrome, Gmail hay YouTube để nhắm quảng cáo.
Bên cạnh đó, những thay đổi này sẽ chỉ áp dụng cho trình duyệt web trên PC và chưa xuất hiện trên smartphone.
Dự kiến, Google sẽ sử dụng công nghệ Federated Learning of Cohorts (FloC) để phân chia người dùng theo các nhóm số đông có cùng sở thích. Google đã thu về một số bước phát triển đột quá trong công nghệ theo dõi người dùng bằng AI.
Qua đó, hệ thống của Google có thể trở nên thông minh hơn bằng cách sử dụng dữ liệu thô trên thiết bị của khách hàng thay vì chuyển lên đám mây. Phát kiến này giúp Google vẫn có thể chạy quảng cáo từ dữ liệu của người dùng mà không phải tiếp cận thông tin đó.
Chia sẻ với Protocol, một số chuyên gia công nghệ cho rằng mục đích Google chính là nâng cao vị thế trong ngành quảng cảo kỹ thuật số, thay vì làm điều đúng đắn vì lợi ích của người dùng.
“Việc phân chia người dùng theo số đông về cơ bản sẽ cung cấp một bản tóm tắt xem bạn là ai, bạn thích gì, bạn đi đâu, mua gì hay mua cùng ai”, Bennett Cyphers, kỹ thuật viên của Tổ chức Biên giới Điện tử, bày tỏ quan điểm ngược lại với Google về công nghệ FloC.
Đáng nói, các cookie của bên thứ 3 đã không còn được ưa chuộng nữa.
“Khoảng một nửa lưu lượng truy cập Internet ngày nay không còn xuất hiện cookie của bên thứ 3 nữa”, Peter Day, lãnh đạo công nghệ của công ty Quantcast, chia sẻ với Protocol.
Google cần thay đổi nếu không muốn như Facebook
Theo Korad Feldman, Giám đốc điều hành Quantcast, hầu hết chúng ta đang sử dụng Safari làm công cụ dự đoán tương lai của Internet.
Nhờ hàng loạt chính sách bảo vệ quyền riêng tư của Apple, trình duyệt web này đã đi trước Google trong việc chặn cookie và khiến các công ty quảng cáo khó theo dõi người dùng hơn. Safari cũng cố gắng gửi ít dữ liệu người dùng hơn đến các công cụ tìm kiếm như Google.
Đặc biệt, Safari mặc định ngăn chặn hầu hết trình theo dõi. Trong trường hợp các website muốn hoạt động với tiện ích mở rộng hay truy cập vào bộ nhớ tạm thời, chúng cần có sự đồng ý của người dùng.
Trong vài năm qua, ngành công nghiệp công nghệ đã phải chú trọng đến quyền riêng tư của khách hàng hơn khi nhiều nhà lập pháp dần lo ngại về tình trạng lạm dụng dữ liệu người dùng.
Kể từ tháng 12/2020, Apple đã yêu cầu các nhà phát triển ứng dụng trên nền tảng iOS cung cấp thông tin chi tiết những dữ liệu cá nhân mà ứng dụng đó thu thập, điển hình như thông tin tài chính, danh bạ hoặc lịch sử duyệt web.
Google cần thay đổi nếu không muốn rơi vào trường hợp của Facebook. Trong thời gian sắp tới, các ứng dụng can thiệp vào dữ liệu cá nhân trên iPhone sẽ phải có sự đồng ý của người dùng. Sự thay đổi này đã châm ngòi cho mối quan hệ căng thẳng giữa Apple và Facebook.
Hai vị CEO quyền lực nhất thế giới nhiều lần đối đầu nhau trong các cuộc khẩu chiến. Trong khi đó, Google đang xem xét một vài phương án “ít nghiêm ngặt” hơn để bảo vệ các khách hàng sử dụng hệ điều hành Android.
Tham gia Cộng đồng We’re Marketer để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: Link
Những thay đổi bảo mật mới của Apple có thể làm chao đảo ngành công nghiệp quảng cáo điện tử. Facebook và các nhà quảng cáo đều phải tìm cách thích nghi.
Từ tháng 3, phiên bản iOS 14.4 bắt buộc các nhà phát triển ứng dụng cần sự cho phép từ người dùng mới được theo dõi, đọc các thông tin cá nhân và các quyền trên thiết bị.
“Đây là tình huống tương đương với trường hợp Y2K trong nghành công nghiệp của chúng ta”, Doug Rozen, CEO của Dentsu Media Americas chia sẻ.
Ảnh hưởng lớn tới những nhà quảng cáo
Các nhà quảng cáo lo rằng Apple sẽ hạn chế khuôn khổ và quyền hành của họ trên Facebook. Giám đốc công nghệ Measured, Madan Bharadwaj cho rằng đây là một thiệt hại lớn cho kỹ thuật quảng cáo nghiên cứu hành vi khách hàng.
Thay đổi lớn này sẽ ảnh hưởng đến cả một nền tảng sinh thái di động (iOS), và cả những người sử dụng Facebook như phương thức quảng cáo chính.
Facebook tuyên bố ngưng sử dụng các nghiên cứu về hiệu quả quảng cáo trong tuần trước. Nghiên cứu này sẽ tính mức lợi nhuận và đánh giá thiên hướng mua sắm của người dùng từ chiến dịch quảng cáo.
Từ tháng 3, phiên bản iOS 14.4 bắt buộc các nhà phát triển ứng dụng cần sự cho phép từ người dùng mới được theo dõi, đọc các thông tin cá nhân và các quyền trên thiết bị.
“Đây là tình huống tương đương với trường hợp Y2K trong nghành công nghiệp của chúng ta”, Doug Rozen, CEO của Dentsu Media Americas chia sẻ.
Ảnh hưởng lớn tới những nhà quảng cáo
Các nhà quảng cáo lo rằng Apple sẽ hạn chế khuôn khổ và quyền hành của họ trên Facebook. Giám đốc công nghệ Measured, Madan Bharadwaj cho rằng đây là một thiệt hại lớn cho kỹ thuật quảng cáo nghiên cứu hành vi khách hàng.
Thay đổi lớn này sẽ ảnh hưởng đến cả một nền tảng sinh thái di động (iOS), và cả những người sử dụng Facebook như phương thức quảng cáo chính.
Facebook tuyên bố ngưng sử dụng các nghiên cứu về hiệu quả quảng cáo trong tuần trước. Nghiên cứu này sẽ tính mức lợi nhuận và đánh giá thiên hướng mua sắm của người dùng từ chiến dịch quảng cáo.
“Những thương hiệu xây dụng thuật toán tiếp thị dựa vào Facebook đang thấp thỏm”, Bharadwaj nói. “Các công ty không thể ném nửa triệu đô la cho chiến dịch quảng cáo để thu về những dữ liệu thiếu chi tiết”.
Nếu người dùng không đồng tình, Simon Poulton – Phó giám đốc kỹ thuật số thông minh của Wpromote nói, công việc theo dõi dữ liệu quảng cáo thông qua các nền tảng mạng xã hội, bao gồm cả Facebook sẽ càng trở nên khó khăn hơn.
Điều này có thể khiến sự tăng trưởng của các doanh nghiệp nhỏ bị ảnh hưởng phần nào.
“Khi làm việc với số tiền lên đến hàng triệu đô la, một ảnh hưởng nhỏ cũng sẽ đem lại thất thoát lớn, nhưng từ đó bạn cũng sẽ kiên định hơn trong việc tìm kiếm các phương pháp thay thế”, Simon chia sẻ.
“Tuy nhiên, các công ty nhỏ hơn sẽ bị hạn chế về mặt kinh phí, và có thể sẽ không thấy được lợi ích của khoản đầu tư lâu dài”.
Tham gia Cộng đồng We’re Marketer để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: Link
Facebook cho biết chương trình “thị giác máy tính” này có biệt danh là SEER. Một mô hình AI vượt trội hơn hẳn những mô hình hiện có trong một bài kiểm tra nhận dạng vật thể.
Trên thực tế, Instagram đã trở thành một trong những cơ sở dữ liệu hình ảnh lớn nhất hành tinh trong thập kỷ qua của Facebook. Nền tảng đang sử dụng kho tàng này để dạy cho máy móc học những gì có trong hình ảnh.
Facebook đã công bố vào hôm 4/3 rằng họ đã xây dựng một chương trình trí tuệ nhân tạo có thể “nhìn thấy” những gì nó đang nhìn. Facebook đã làm điều này bằng cách cung cấp cho chương trình hơn 1 tỷ hình ảnh công khai từ nền tảng Instagram.
Facebook cho biết chương trình “thị giác máy tính” mới này có biệt danh là SEER và vốn vượt trội hơn hẳn các mô hình AI hiện có trong một bài kiểm tra nhận dạng vật thể.
Chương trình đã đạt được “điểm chính xác phân loại” là 84,2% khi thực hiện một bài kiểm tra do ImageNet cung cấp, ImageNet là một cơ sở dữ liệu trực quan được thiết kế để sử dụng trong nghiên cứu phần mềm nhận dạng đối tượng trực quan.
Về cơ bản, ImageNet kiểm tra xem chương trình AI của Facebook có thể xác định chính xác nội dung xuất hiện trong hình ảnh hay không.
Cách tiếp cận mới.
Trong khi nhiều mô hình AI khác được ‘đào tạo’ trên các tập dữ liệu được gắn nhãn cẩn thận, Facebook cho biết SEER đã học cách để xác định các đối tượng trong hình ảnh bằng cách phân tích các hình ảnh Instagram ngẫu nhiên và không gắn nhãn.
Kỹ thuật AI này được gọi là self-supervised learning (tạm dịch là tự giám sát để học hỏi).
Các nhà nghiên cứu của Facebook chia sẻ:
“Tương lai của AI là tạo ra các hệ thống có thể học hỏi trực tiếp từ bất kỳ thông tin nào mà chúng được cung cấp – cho dù đó là văn bản, hình ảnh hay một loại dữ liệu khác.
Chúng không cần dựa vào các bộ dữ liệu được sắp xếp và gắn sẵn nhãn để dạy chúng cách nhận ra các đối tượng trong một bức ảnh, diễn giải một khối văn bản hoặc thực hiện bất kỳ tác vụ nào trong số vô số tác vụ khác mà chúng tôi yêu cầu.
Hiệu suất của SEER chứng tỏ rằng kiểu tự giám sát để học hỏi có thể hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ về thị giác máy tính trong môi trường thực tế.
Đây là một bước đột phá cuối cùng sẽ mở ra con đường cho các mô hình thị giác máy tính linh hoạt, chính xác và thích ứng hơn trong tương lai.”
Mặc dù đây chỉ là một dự án nghiên cứu, nhưng người phát ngôn của Facebook cho biết những ứng dụng tiềm năng trong tương lai sẽ được phát triển dựa trên lý thuyết này.
Những vấn đề về quyền riêng tư?
Nhiều người dùng Instagram có thể ngạc nhiên khi biết rằng hình ảnh của họ đang được sử dụng để đào tạo cho hệ thống AI của Facebook.
Liên quan đến vấn đề này, Bà Priya Goyal, một kỹ sư phần mềm tại Facebook AI Research, trao đổi với CNBC:
“Chúng tôi thông báo cho các chủ tài khoản Instagram trong chính sách dữ liệu của mình rằng chúng tôi chỉ sử dụng thông tin chúng tôi có để hỗ trợ nghiên cứu và đổi mới, bao gồm cả tiến bộ công nghệ như thế này.”
Facebook cho biết họ sẽ mở vài mã nguồn ở một số phần mềm của mình để các nhà nghiên cứu khác có thể thử nghiệm với nó.
Bà Goyal cho biết thêm:
“Mặc dù chúng tôi đang chia sẻ chi tiết nghiên cứu của mình đồng thời tạo một thư viện mã nguồn mở cho phép các nhà nghiên cứu khác sử dụng phương pháp ‘tự giám sát để học hỏi’ để đào tạo các mô hình về hình ảnh, nhưng chúng tôi sẽ không chia sẻ hình ảnh hoặc những chế độ khác của SEER”.
Ở một diễn biến khác, các công ty công nghệ lớn khác như Google và Microsoft cũng đang cố gắng để vượt qua những ranh giới của tầm nhìn máy tính.
Vào mùa hè năm ngoái, Google đã xuất bản mô hình thị giác máy tính có tên gọi SimCLRv2, trong khi OpenAI của Elon Musk cũng xuất bản iGPT 2.
Tham gia Cộng đồng We’re Marketer để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: Link
Ngày 3/3, mạng xã hội lớn nhất hành tinh Facebook thông báo sẽ cho phép các quảng cáo chính trị được đăng trở lại trên nền tảng của mình, chấm dứt lệnh cấm được áp đặt sau cuộc bầu cử tổng thống Mỹ.
Ngày 3/3, mạng xã hội Facebook thông báo sẽ cho phép các quảng cáo chính trị được đăng trở lại trên nền tảng của mình, chấm dứt lệnh cấm được áp đặt sau cuộc bầu cử tổng thống Mỹ hồi tháng 11/2020 nhằm ngăn chặn việc lan truyền thông tin sai lệch.
Facebook cho biết sẽ dỡ bỏ lệnh cấm quảng cáo về các vấn đề chính trị, bầu cử và xã hội ở Mỹ kể từ ngày 4/3. Lệnh cấm tạm thời này vốn được áp đặt nhằm ngăn chặn tình trạng lạm dụng hoặc gây rối trật tự sau ngày bầu cử 3/11/2020 tại Mỹ.
Tuyên bố nêu rõ: “Không giống như các nền tảng khác, chúng tôi yêu cầu cấp phép và tính minh bạch không chỉ đối với quảng cáo chính trị và bầu cử, mà còn đối với các quảng cáo về các vấn đề xã hội”.
Facebook cũng lưu ý rằng các quảng cáo chính trị và vấn đề xã hội sẽ đòi hỏi việc xác minh, cũng như đi kèm các tuyên bố từ chối trách nhiệm giải thích các thông điệp quảng cáo “được trả tiền” bởi một cá nhân hoặc tổ chức cụ thể.
Công ty này cũng sẽ lưu trữ thông điệp trong thư viện quảng cáo nhằm cho phép giới nghiên cứu và người dùng theo dõi. Ngoài ra, trong những tháng tới, Facebook sẽ nghiên cứu kỹ lưỡng cách thức hoạt động của các quảng cáo này trên dịch vụ của mình, qua đó đưa ra những thay đổi phù hợp.
Trước Facebook, tập đoàn Google của Mỹ cũng thông báo dỡ bỏ lệnh cấm quảng cáo chính trị hồi tháng 2.
Hai tập đoàn công nghệ trên, vốn đang thống trị trong lĩnh vực quảng cáo kỹ thuật số, đã tạm dừng cho phép đăng tải các thông điệp chính trị được trả tiền trong nỗ lực ngăn chặn việc phát tán các thông tin sai lệch và gây hiểu nhầm, đặc biệt là thông tin từ những người phản đối kết quả cuộc bầu cử tổng thống Mỹ hồi tháng 11 năm ngoái với chiến thắng thuộc về ông Joe Biden.
Tháng 12/2020, Facebook đã dỡ bỏ một phần lệnh cấm, khi cho phép các quảng cáo liên quan đến cuộc bầu cử bổ sung ghế Thượng viện Mỹ ở bang Georgia hồi tháng 1.
Tham gia Cộng đồng We’re Marketer để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: Link
Facebook đã công bố một loạt các tính năng mới vào Ngày Quốc tế Phụ nữ (8/3), trong đó nổi bật nhất là việc ra mắt Instagram Live có nhiều người tham gia chung mà công ty đã thử nghiệm trong vài tháng qua.
Theo Facebook:
“Bắt đầu từ ngày 1 tháng 3, người sáng tạo (Creator) và những người dùng khác có thể phát trực tiếp trên Instagram với tối đa ba người khác khi sử dụng Live Rooms.
Trong Tháng của phụ nữ này, hãy theo dõi các cuộc thảo luận trực tiếp với những người phụ nữ và người sáng tạo có ảnh hưởng về cách phụ nữ có thể giúp nhau vượt qua những trở ngại và trở nên thành công hơn.”
Như đã lưu ý, Facebook lần đầu tiên tung ra thử nghiệm các luồng trực tiếp trên Instagram có nhiều người tham gia là cho người dùng ở Ấn Độ vào tháng 12, nơi họ đang nỗ lực để lấp đầy khoảng trống của thị trường sau lệnh cấm TikTok.
Vào tháng trước, CEO Instagram Adam Mosseri đã thông báo rằng tùy chọn này sẽ đến với tất cả các khu vực ‘trong vài tuần tới’.
Trên thực tế, Instagram đã thực sự phát triển tùy chọn này trong gần một năm. Ông Mosseri cũng đã lưu ý vào tháng 3 năm ngoái rằng họ đang tìm cách cho phép nhiều người cùng tham dự hơn trong các chương trình phát trực tiếp.
Với sự gia tăng trong việc sử dụng tính năng phát trực tiếp trong đại dịch, khi mọi người đang tìm kiếm nhiều cách hơn để duy trì kết nối, bản cập nhật này sẽ mở ra một loạt khả năng mới cho các chương trình phát sóng trực tiếp của bạn.
Bạn có thể thực hiện các cuộc phỏng vấn, chẳng hạn như mời người hâm mộ và khách hàng tham gia sự kiện trực tiếp, bạn cũng có thể chia sẻ sân khấu với những người có ảnh hưởng, v.v.
Phát trực tiếp với một số người khác cũng có thể cảm thấy ít đáng sợ hơn so với việc bạn phải phát sóng một mình.
Như bạn có thể thấy trong các ảnh chụp màn hình ở trên, người dùng sẽ có thể mời các kết nối vào các phòng Instagram Live của họ, sau đó tất cả những người theo dõi họ đều có thể xem video được.
Khi bạn gửi yêu cầu ai đó tham gia Phòng trực tiếp của mình, người dùng sẽ được thông báo bằng một thông báo thả xuống (hiển thị như màn hình của hình ảnh thứ hai ở trên).
Ngoài IG Live Rooms, Facebook cũng đang tìm cách làm nổi bật tháng của phụ nữ thông qua một loạt các bổ sung theo chủ đề cụ thể hơn.
Trên cả Instagram và Messenger, Facebook đang thêm một số bộ nhãn dán (sticker) tùy chỉnh mới ‘để tôn vinh những người phụ nữ trong cuộc sống của bạn và khuyến khích các cuộc trò chuyện trong cộng đồng của họ’.
Facebook cũng tung ra một danh mục mới trong bảng điều khiển Trợ giúp cộng đồng (Community Help) để giúp các tổ chức phi lợi nhuận và cá nhân tổ chức các đợt từ thiện cũng như thu thập các vật phẩm cần thiết thông qua các công cụ của Facebook.
Ngoài ra, Facebook cũng đã cung cấp một số thống kê mới về các ý tưởng do phụ nữ đưa ra trong đại dịch.
“Vào năm 2020, phụ nữ đã tạo ra số người gây quỹ trên Facebook nhiều gấp đôi so với nam giới và cũng quyên góp nhiều gấp đôi với 64% tổng số tiền gây quỹ đến từ phụ nữ.
Phụ nữ cũng đã dẫn đầu trong việc phát triển cộng đồng nhiều hơn 2,7 lần với số lượng thành viên nhiều hơn 4 lần so với các cộng đồng do nam giới tạo ra”.
Facebook cũng đồng thời tung ra chiến dịch ‘Women x Women’ để làm nổi bật những câu chuyện đầy cảm hứng của phụ nữ đồng thời chia sẻ cách họ đã đã thành công khi sử dụng các ứng dụng của Facebook trong những năm qua.
Tham gia Cộng đồng We’re Marketer để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: Link
Vào tháng 8 năm ngoái, Facebook đã ra mắt một tùy chọn sự kiện trực tuyến có trả phí mới thông qua Facebook Live, nhằm cung cấp một cách khác cho các doanh nghiệp để tạo doanh thu trực tiếp trong bối cảnh khủng hoảng COVID-19.
Các sự kiện có trả phí cho phép các doanh nghiệp và người sáng tạo trả phí trực tiếp trên Facebook để truy cập vào các chương trình video trực tuyến của họ, các công cụ và tùy chọn độc quyền này chỉ dành cho những người tham gia có trả phí.
Và gần đây, Facebook đã cung cấp một số mẹo về cách tận dụng tốt nhất để tối đa hóa kết nối và cơ hội, đồng thời lưu ý một số tính năng sắp tới của công cụ.
Trong một video, giám đốc sản phẩm của Facebook, Bà Aurora Kurland đã phác thảo cách thức hoạt động của các sự kiện trực tuyến có trả phí và những gì mọi người đã sử dụng chúng trong thời kỳ đại dịch.
Bà Kurland cũng cung cấp tổng quan đầy đủ về cách tạo các sự kiện có trả phí của riêng bạn từ Trang Facebook của bạn.
Bà chia sẻ:
“Nhiều người không biết điều này, nhưng nếu bạn tổ chức một sự kiện trực tuyến có trả phí, bạn thực sự có thể tạo đối tượng tùy chỉnh bằng Trình quản lý quảng cáo và điều đó sẽ cho phép bạn nhắm mục tiêu đến những người thể hiện rằng họ quan tâm đến sự kiện hoặc đi đến sự kiện hoặc tương tác với sự kiện theo một cách nào đó.”
Điều đó có nghĩa là bạn có thể nhắm mục tiêu trực tiếp tới những người tham dự sự kiện và thậm chí là cả những người quan tâm với các chương trình khuyến mãi dành riêng. Bạn cũng có thể phân khúc và phân loại quy trình tiếp cận của mình tới khách hàng.
Đó có thể là một tùy chọn có giá trị, có thể làm cho ‘Sự kiện’ trên Facebook thậm chí có giá trị hơn so với chức năng phát trực tiếp.
Bà Kurland cũng lưu ý rằng Facebook hiện đang thử nghiệm các sự kiện trực tuyến có trả phí với Rooms, điều này sẽ cho phép các doanh nghiệp và người sáng tạo tổ chức các sự kiện với nhiều người tham dự hơn, điều này khác với các sự kiện trong Facebook Live (chỉ tập trung vào việc phát sóng).
Tham gia Cộng đồng We’re Marketer để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: Link
Bạn nên đầu tư nhiều hơn ngân sách marketing của mình vào việc xây dựng thương hiệu hay phản hồi trực tiếp để thúc đẩy kết quả bán hàng?
Mặc dù cả hai loại chiến dịch đều quan trọng, nhưng do những áp lực tức thời, những chiến dịch với mục tiêu nhận được phản hồi trực tiếp (Direct Response Campaigns) thường được tập trung và coi trọng hơn.
Vấn đề là gì? Có phải vì chúng ta cần bán ngay lập tức, phải thế không? Chúng ta cần chuyển đổi để đáp ứng KPIs và chứng minh ROI cho những người ra quyết định.
Tuy nhiên, lợi ích của việc xây dựng thương hiệu cũng có thể được xếp ngang hàng nếu không muốn nói là đáng kể hơn theo thời gian. Nó chỉ phụ thuộc vào khoảng thời gian bạn có thể đo lường.
Để cung cấp thêm một số thông tin chi tiết về vấn đề này, Facebook gần đây đã hợp tác với Analytic Partners và GroupM để phân tích hơn 500 thương hiệu trên Facebook với những chiến dịch phản hồi trực tiếp được thực hiện bởi 21 doanh nghiệp trong khoảng thời gian 03 năm.
Nghiên cứu đã tính đến các phương pháp tiếp cận khác nhau nhằm xác định phương pháp hay loại chiến dịch nào thực sự mang lại nhiều giá trị hơn cho doanh nghiệp.
Theo giải thích của Facebook:
“Sự cân bằng thích hợp giữa các hoạt động marketing ở giai đoạn cuối cùng (BoFu) với các giai đoạn đầu tiên (ToFu) của phễu bán hàng trên trên Facebook là gì?
Liệu các thương hiệu có thể tối đa hóa chuyển đổi ngay bây giờ thông qua các chiến dịch ở cuối kênh tiếp cận trong khi đồng thời vẫn có thể thiết lập để tăng trưởng hơn nữa vào ngày mai không?
Đây là những câu hỏi mà tất cả những người làm marketing phải đối mặt và chúng thậm chí còn trở nên phức tạp hơn khi đối mặt với những thách thức trong thế giới thực chẳng hạn như tăng trưởng nhanh với ngân sách hạn chế.”
Vậy theo nghiên cứu, cách tiếp cận nào là tốt hơn?
Báo cáo của Facebook về cơ bản chia nhỏ sự so sánh thành ba biểu đồ.
Trong biểu đồ đầu tiên, chúng ta có thể thấy rằng các chiến dịch phản hồi trực tiếp đã tạo ra nhiều chuyển đổi hơn, điều này khá dễ hiểu.
Nhưng Facebook lưu ý rằng đây không phải là chỉ số duy nhất để xem xét – bạn cũng cần tính đến chi phí trên mỗi lần hiển thị, các chiến dịch phản hồi trực tiếp thường đắt hơn do nhắm mục tiêu theo đối tượng cụ thể hơn, từ đó có CPM cao hơn.
Như bạn có thể thấy ở đây, chi phí mỗi lần hiển thị cho các chiến dịch xây dựng thương hiệu (ToFu) thấp hơn nhiều bởi vì nhắm mục tiêu của bạn sẽ rộng hơn nhiều khi bạn muốn tiếp cận với nhiều đối tượng hơn.
Từ góc nhìn này, một khi bạn tính đến giá trên mỗi chuyển đổi, xây dựng thương hiệu thực sự trở thành một cách tiếp cận hiệu quả hơn nhiều.
“Dựa trên cơ sở mỗi lần chi tiêu, hiệu suất ROI của các chiến dịch marketing ở các giai đoạn đầu tiên của phễu bán hàng có hiệu suất cao hơn do cấu trúc chi phí ít tốn kém hơn.
Trên thực tế, cách tiếp cận marketing vào các giai đoạn này của hành trình khách hàng là một chiến lược luôn hoạt động tốt hơn để thúc đẩy doanh số bán hàng ngắn hạn trong các ngành cụ thể như thương mại điện tử và bán lẻ.”
Đó là một sự cân nhắc rất thú vị, đặc biệt là với sự tăng trưởng mạnh mẽ của thương mại điện tử trong năm qua.
Xây dựng thương hiệu và thiết lập để kết nối với nhiều đối tượng hơn thực sự có thể thúc đẩy kết quả bán hàng tương tự nếu không muốn nói là tốt hơn – nhưng bạn cần phải thực hiện thêm nhiều bước so sánh chi phí và chuyển đổi theo thời gian để thấy điều đó được phản ánh như thế nào trong dữ liệu của bạn.
Nghiên cứu thực sự làm nổi bật sự cần thiết của việc áp dụng phương pháp tiếp cận theo cấp độ đối với quảng cáo của bạn cũng như mức độ đầu tư cho phù hợp.
Cấu trúc của mỗi chiến dịch quảng cáo của bạn nên được chia thành 03 yếu tố:
Làm nổi bật các tiện ích sản phẩm và thương hiệu để tạo ra sự quan tâm ban đầu (nhắm mục tiêu theo đối tượng rộng hơn).
Làm nổi bật các lợi ích sản phẩm cụ thể hơn trong việc nhắm mục tiêu những người đã bày tỏ sự quan tâm ban đầu (những người đã phản hồi quảng cáo hoặc bài đăng hoặc đã truy cập website của bạn).
Nhắm mục tiêu lại những người đã bày tỏ sự quan tâm đến các sản phẩm cụ thể bằng cách chỉ rõ các lợi ích cụ thể (những người đã truy cập các trang sản phẩm hoặc xem qua trang thanh toán nhưng chưa chuyển đổi).
Phân khúc là chìa khóa và nghiên cứu của Facebook ở đây nhằm nhấn mạnh sự cần thiết phải đầu tư vào từng yếu tố để tối đa hóa kết quả.
Tham gia Cộng đồng We’re Marketer để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: Link
Đây là một công ty truyền thông và giải trí gia đình của Hoa Kỳ. Vào năm 2020, Disney đã phải chứng kiến sự sụt giảm 8% giá trị thương hiệu của mình.
Một số phân khúc kinh doanh của Disney là: Phân phối trực tiếp đến người tiêu dùng và quốc tế (DTCI); Công viên giải trí, Trải nghiệm và Sản phẩm; Studio Entertainment và Media Networks.
Disney có vốn hóa thị trường là 358,53 tỷ USD và có trụ sở chính tại Burbank, CA, Mỹ.
Đây là một công ty thức ăn nhanh của Mỹ. Vào năm ngoái, McDonald’s bị sụt giảm 6% giá trị thương hiệu. McDonald’s chủ yếu kinh doanh và nhượng quyền mảng nhà hàng.
McDonald’s có giá trị vốn hóa thị trường là 159,01 tỷ USD và có trụ sở chính tại Oak Brook, Illinois, Mỹ.
8. Mercedes (49 tỷ USD)
Đây là một công ty trong lĩnh vực ô tô của Đức. Năm 2020, thương hiệu này chứng kiến mức giá trị thị trường của mình giảm 3%. Về mặt cảm nhận thương hiệu, Mercedes gắn liền với sự sang trọng và lịch lãm.
Trung Quốc là thị trường lớn nhất của thương hiệu này, tiếp theo là Mỹ.
7. Toyota (52 tỷ USD)
Đây là công ty ô tô duy nhất đến từ Nhật Bản, đồng thời cũng là công ty ô tô lớn thứ hai thế giới trong danh sách này. Toyota đã chứng kiến giá trị thương hiệu của mình giảm 8% vào năm 2020.
Hãng chủ yếu sản xuất và bán các loại xe có động cơ và phụ tùng. Toyota có giá trị vốn hóa thị trường là 173,3 tỷ USD và có trụ sở chính tại Toyota, Nhật Bản.
Đây là một công ty Thực phẩm & Đồ uống F&B của Mỹ. Vào năm 2020, Coca-Cola đã chứng kiến giá trị thương hiệu của mình giảm 10%. Coca-Cola sản xuất, tiếp thị và bán đồ uống không cồn, bao gồm các loại nước ngọt, nước lọc, đồ uống thể thao, nước trái cây và hơn thế nữa.
Công ty sở hữu một số thương hiệu toàn cầu nổi tiếng như: Coca-Cola, Diet Coke, Fanta, Sprite, Minute Maid, Georgia… Coca-Cola có giá trị vốn hóa thị trường là 218,15 tỷ USD và có trụ sở chính tại Atlanta, GA, Mỹ.
Đây là công ty duy nhất nằm trong top 5 không thuộc Mỹ. Trong khi vào năm 2020 hầu hết các thương hiệu đều phải chứng kiến sự sụt giảm thì công ty công nghệ đến từ Hàn Quốc này đã tăng giá trị thương hiệu của mình lên đến 2%.
Samsung chủ yếu sản xuất, bán thiết bị điện tử và các thiết bị ngoại vi máy tính.
Công ty hoạt động thông qua 3 mảng chính: Giải pháp thiết bị, Công nghệ thông tin & truyền thông di động và Điện tử tiêu dùng. Samsung có giá trị vốn hóa thị trường là 278,7 tỷ USD và có trụ sở chính tại Suwon, Hàn Quốc.
Đó là một công ty công nghệ nổi tiếng khác của Mỹ. Vào năm 2020, Google đã chứng kiến giá trị thương hiệu của mình giảm ở mức 1%.
Gã khổng lồ tìm kiếm này cung cấp một loạt các dịch vụ cho người dùng, doanh nghiệp cũng như các nhà quảng cáo.
Google chủ yếu tập trung vào mảng tìm kiếm, hệ điều hành, quảng cáo, nền tảng, các sản phẩm phần cứng và doanh nghiệp. Google có vốn hóa thị trường là 1,41 nghìn tỷ USD và có trụ sở chính tại Mountain View, CA, Mỹ.
Đây tiếp tục là một công ty công nghệ từ Mỹ, thương hiệu duy nhất đã có thể tăng giá trị thương hiệu của mình lên đến 53% vào năm 2020. Microsoft phát triển và cung cấp phần mềm, dịch vụ, thiết bị và giải pháp.
Công ty chủ yếu hoạt động thông qua ba mảng kinh doanh chính: Đám mây thông minh, Hiệu suất & Quy trình kinh doanh và Máy tính cá nhân. Microsoft có vốn hóa thị trường là 1,77 nghìn tỷ USD và có trụ sở chính tại Redmond, WA, Mỹ.
Ấn Độ vừa ban hành quy định nghiêm ngặt nhằm vào các mạng xã hội đang hoạt động tại nước này, gồm Facebook, Twitter, YouTube.
Quy tắc mới yêu cầu các công ty truyền thông xã hội phải tạo ra ba vai trò ở Ấn Độ, gồm: “viên chức tuân thủ” – đảm bảo luôn tuân thủ pháp luật địa phương; “nhân viên khiếu nại” – giải quyết các khiếu nại từ người dùng Ấn Độ trên nền tảng; và “người liên lạc” – đóng vai trò cung cấp thông tin lập tức cho các cơ quan thực thi pháp luật của Ấn Độ.
Bên cạnh đó, các công ty truyền thông xã hội cũng phải tuân thủ việc báo cáo dữ liệu cho chính phủ hàng tháng, nêu chi tiết số lượng khiếu nại đã nhận được và giải pháp đã thực hiện.
Các công ty này cũng được yêu cầu xóa một số loại nội dung, như “ảnh khỏa thân toàn bộ hoặc một phần”, “hành động tình dục” cũng như “hành động mạo danh”.
Theo đại diện chính phủ Ấn Độ, các mạng xã hội lớn sẽ có ba tháng để tuân thủ các chính sách. Các mạng xã hội nhỏ hơn sẽ phải tuân thủ quy định lập tức. Việc đánh giá mạng xã hội lớn hay nhỏ được dựa trên số lượng người dùng đang hoạt động.
Quy định mới được chính phủ nước này đưa ra trong bối cảnh mối quan hệ của họ và Twitter đang trở nên căng thẳng.
Twitter đã khôi phục một số tài khoản mà chính phủ ra lệnh gỡ bỏ vì dùng các hashtag “vô căn cứ và gây xung đột”, chủ yếu liên quan đến việc nông dân phản đối các cải cách nông nghiệp mới.
Trước đó, mạng xã hội này đã gỡ bỏ hoặc hạn chế hàng trăm tài khoản, nhưng vẫn từ chối chặn một số tài khoản khác của nhà báo, nhà hoạt động xã hội và chính trị gia.
Theo đánh giá của giới quan sát, sau Ấn Độ, có thể nhiều quốc gia khác sẽ mạnh tay kiềm chế các công ty công nghệ lớn như Google, Facebook và Twitter.
Thời gian qua, những mạng xã hội này bị nhiều chính phủ lo ngại do nắm quá nhiều quyền lực nhưng lại ít chịu trách nhiệm về các nội dung trên nền tảng của mình.
Ravi Shankar Prasad, Bộ trưởng Bộ Công nghệ thông tin Ấn Độ, cho biết các mạng xã hội luôn được hoan nghênh khi kinh doanh tại Ấn Độ.
uy nhiên, ông lưu ý rằng chính phủ yêu cầu họ “cần phải làm nhiều hơn để ngăn chặn việc lạm dụng các phương tiện truyền thông xã hội”.
Đại diện Facebook hoan nghênh các quy định của Ấn Độ và cho biết sẽ “nghiên cứu kỹ lưỡng” các quy định mới. Twitter và Google, công ty sở hữu YouTube, chưa đưa ra bình luận.
Ấn Độ hiện là thị trường lớn của nhiều mạng xã hội Mỹ. Trong cuộc họp báo hôm 25/5, ông Prasad cho biết các nền tảng thuộc Facebook sở hữu có lượng người dùng lớn nhất:
Facebook có 410 triệu người dùng, Instagram có 210 triệu người dùng và WhatsApp có 530 triệu người dùng. YouTube và Twitter có khoảng 450 triệu và 17,5 triệu người dùng tương ứng.
Tham gia Cộng đồng We’re Marketer để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: Link
Úc đã thông qua luật mới yêu cầu các nền tảng kỹ thuật số như Facebook và Google phải trả phí cho các hãng truyền thông và nhà xuất bản địa phương để liên kết nội dung của họ trên nguồn cấp tin tức hoặc trong các kết quả tìm kiếm.
Động thái này được nhiều người mong đợi và chỉ diễn ra vài ngày sau khi chính phủ Úc đưa ra một số sửa đổi vào phút cuối đối với dự luật được đề xuất, được gọi chính thức là ‘Bộ luật Thương lượng Bắt buộc của Nền tảng Truyền thông và Kỹ thuật số’.
“Bộ quy tắc sẽ đảm bảo rằng các doanh nghiệp truyền thông tin tức Úc được trả phí cho nội dung mà họ tạo ra, giúp duy trì hoạt động báo chí vì lợi ích công chúng ở Úc”, Ông Josh Frydenberg và Bộ trưởng Truyền thông Paul Fletcher cho biết trong một tuyên bố chung.
Họ nói thêm rằng chính phủ Úc “vui mừng khi thấy sự tiến bộ của cả Google và gần đây là Facebook trong việc đạt được các thỏa thuận thương mại với các doanh nghiệp truyền thông báo chí Úc”.
Các quan chức cho biết bộ luật sẽ được Bộ Tài chính xem xét trong vòng một năm kể từ khi bắt đầu.
Google và Facebook đã làm gì?
Cả Facebook và Google đều đã đấu tranh chống lại bộ luật này kể từ năm ngoái.
Về cơ bản, Úc sẽ trở thành quốc gia đầu tiên mà một trọng tài viên do chính phủ chỉ định có thể quyết định mức giá cuối cùng mà một trong hai nền tảng sẽ phải trả cho các nhà xuất bản tin tức Úc.
Theo các chuyên gia, quyết định sẽ được đưa ra bởi một phán quyết có lợi cho một trong hai bên – là nền tảng kỹ thuật số hoặc nhà xuất bản chứ không có chỗ cho một thỏa thuận mang tính trung lập.
Trong các sửa đổi của tuần này, chính phủ Úc cho biết các bên liên quan sẽ có thời gian hòa giải hai tháng trước khi họ đưa ra trọng tài như là biện pháp cuối cùng.
Facebook đã thông báo hôm thứ Hai rằng họ sẽ khôi phục các trang tin tức ở Úc, đảo ngược quyết định trước đó là chặn quyền truy cập vào nội dung tin tức ở Úc để trả đũa cho dự luật được đề xuất sau đó.
Phó chủ tịch của Facebook về quan hệ đối tác tin tức toàn cầu, Bà Campbell Brown cho biết hôm 23/2: “Chính phủ Úc đã làm rõ rằng các công ty công nghệ sẽ giữ khả năng quyết định xem tin tức có xuất hiện trên nền tảng của mình hay không để không tự động bị thương lượng ép buộc”.
Ban đầu, Google đe dọa sẽ rút chức năng tìm kiếm của mình khỏi Úc. Tuy nhiên, trong những tuần gần đây, nền tảng này đã đạt được một số thỏa thuận thương mại nổi bật với các nhà xuất bản Australia, bao gồm cả tập đoàn truyền thông NewsCorp.
Tuyên bố chiến thắng
Trước khi dự luật được Quốc hội thông qua, cả cơ quan giám sát cạnh tranh Úc và Facebook đều mô tả động thái của tuần này là một chiến thắng.
Cựu Phó Thủ tướng Vương quốc Anh Nick Clegg, hiện là phó chủ tịch phụ trách các vấn đề toàn cầu của mạng xã hội đã giải thích về quyết định hạn chế và sau đó khôi phục tin tức ở Úc của Facebook trong một bài đăng dài trên blog của mình.
Theo Ông Johan Lidberg, phó giáo sư báo chí tại Đại học Monash của Úc, những điều chỉnh cuối cùng được thực hiện đối với dự luật là một biện pháp bảo vệ thể diện cho cả hai bên, nhưng chủ yếu dành cho phía Facebook.
Ông giải thích rằng mặc dù Facebook có thể quyết định loại bỏ News Feed khỏi Úc một lần nữa trong tương lai, nhưng nó sẽ phản ánh không tốt về thương hiệu của công ty này.
“Việc cần làm chính bây giờ là theo dõi sát sao các giao dịch đang được thực hiện với các công ty truyền thông,” Ông nói.
Đây là điều mà các chính phủ nên làm khi các lực lượng thị trường bị chênh lệch như trong trường hợp này.”
Chủ tịch Microsoft Brad Smith đã cân nhắc về quyết định của Úc, gọi luật mới này là “một bước tiến lớn”. Ông nói trong một tweet rằng nó sẽ “đảm bảo các nhà xuất bản và nhà báo được trả một phần công sức công bằng hơn cho công việc của họ.”
Công cụ tìm kiếm Bing của Microsoft chỉ nắm giữ 3,6% thị phần ở Úc, một phần nhỏ so với 94,5% thị phần của Google, theo công ty phân tích web StatCounter.
Luật mới của Úc có thể tạo tiền lệ cho cách các quốc gia khác để điều chỉnh dự luật với các công ty công nghệ.
Các quốc gia như Pháp cũng đã thực hiện một số biện pháp để khiến các công ty công nghệ phải trả phí cho tin tức, trong khi những quốc gia khác như Canada và Anh thì cũng đang xem xét các bước tiếp theo của họ.
Tham gia Cộng đồng We’re Marketer để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: Link
Chưa đầy một tuần sau khi ngừng hiển thị tin tức từ Australia, Facebook đã rút lại quyết định trên.
Ngày 18/2, Facebook thông báo người dùng tại Australia không thể xem và chia sẻ tin tức của các hãng thông tấn địa phương lẫn quốc tế trên mạng xã hội này.
Tuy nhiên, chỉ chưa đầy 5 ngày sau, Facebook đã rút lại quyết định trên. Mạng xã hội này cho biết đã đạt thỏa thuận với chính phủ Australia và sẽ sớm hiển thị lại tin tức tại đây.
“Sau thời gian bàn thảo, chúng tôi đã thỏa mãn với việc Chính phủ Australia đồng ý một số thay đổi và hứa hẹn để giải quyết những lo ngại lớn nhất của chúng tôi”, mạng xã hội này thông báo.
“Chính phủ Australia nhận được thông tin từ Facebook rằng họ sẽ mở lại các trang tin tức trong thời gian tới”, văn phòng Bộ trưởng Truyền thông Australia Paul Fletcher thông báo.
Theo CNBC, Chính phủ Australia đã đưa ra những thay đổi vào phút chót đối với luật kiểm soát các mạng xã hội. Dự luật này sẽ được đưa ra Quốc hội Australia bàn luận trong thời gian tới.
Một trong những thay đổi quan trọng nhất ở dự luật là khoảng thời gian 2 tháng để các mạng xã hội và hãng thông tấn đàm phán về mức phí phải trả khi hiển thị tin tức. Nếu không thể đạt thỏa thuận, hai bên sẽ phải phân giải ở tòa trọng tài.
Ngoài ra, Chính phủ Australia cũng có thể chấp nhận các thỏa thuận mà 2 nền tảng đã đạt được với những công ty truyền thông trước đó.
Trước đó, dự luật yêu cầu các nền tảng như Google, Facebook đàm phán với các công ty truyền thông để trả tiền cho những tin tức và nội dung được chia sẻ trên nền tảng của họ.
Theo đề xuất của Australia, nếu các nền tảng như Google, Facebook không đồng ý trả tiền cho nội dung báo chí, một cơ quan phán quyết độc lập sẽ đứng ra giải quyết tranh chấp.
Dự luật của giới chức Australia sẽ hợp lý hóa quy trình cũng như củng cố vị trí của truyền thông truyền thống.
“Mục đích của bộ quy tắc là giải quyết tình trạng thương lượng không đồng đều giữa các doanh nghiệp truyền thông báo chí của Australia với các nền tảng trực tuyến lớn, vốn là những người có sức mạnh thị trường rõ ràng”, Rod Slims, Chủ tịch cơ quan quản lý bảo vệ người tiêu dùng của Australia, giải thích.
Các công ty công nghệ cho biết động thái của chính phủ Australia sẽ tạo động lực giúp các nhà xuất bản tin tức đẩy giá trị ấn phẩm báo chí.
Những nền tảng này cũng chỉ ra một báo cáo của chính phủ ước tính 75% cuộc đàm phán này sẽ kết thúc thông qua phán quyết của trọng tài.
Các nhà phê bình cho rằng Google và Facebook chỉ đơn giản đang cố gắng duy trì vị thế “cửa trên” của mình đối với giới truyền thông.
Tham gia Cộng đồng We’re Marketer để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: Link
Facebook đã chia sẻ một số insights mới về cách thức hoạt động của các thuật toán nội dung video, điều vốn ảnh hưởng đến phạm vi tiếp cận của các video được tải lên trên nền tảng.
Các mẹo này được chia sẻ từ Bà Mahncy Mehrotra, trưởng nhóm sản phẩm của Facebook, người đã tham gia một buổi phát trực tiếp gần đây trên Facebook Media Page.
Chia sẻ của Bà Mehrotra là một loạt các mẹo và một số lưu ý liên quan có thể giúp các nhà làm video marketing tối ưu hóa cách tiếp cận Facebook của họ.
Trước hết, khi giải thích thuật toán của Facebook được thiết kế để tối ưu hóa cho mục đích gì, Bà Mehrotra giải thích rằng tương tác vẫn là chìa khóa chính:
“Điều chúng tôi thực sự quan tâm là chúng tôi muốn đảm bảo rằng người dùng của chúng tôi đang có những khoảng thời gian vui vẻ, quý giá khi họ ở trên Facebook và xem video, vì vậy thực sự những gì thuật toán đang cố gắng làm là sự phù hợp với những gì người dùng quan tâm, đến nội dung họ sẽ thích, nội dung họ thực sự sẽ xem.”
Điều này nó phụ thuộc vào việc khán giả của bạn và những gì họ muốn xem, điều sẽ khác nhau trên từng thương hiệu và Trang.
Để hiểu khán giả của bạn – thông qua các công cụ Audience Insights của Facebook và các phương tiện khác – bạn cần đảm bảo rằng bạn đang tạo video gây được tiếng vang với người hâm mộ và sau đó, mức độ tương tác sẽ quyết định thêm phạm vi tiếp cận bài đăng video mở rộng của bạn.
Về các chi tiết cụ thể của thuật toán phân phối của Facebook, Bà Mehrotra nói rằng giữ cho người xem của bạn theo dõi xuyên suốt vẫn là chìa khóa:
“Có rất nhiều yếu tố, vì vậy thật khó để đi vào tất cả chúng, nhưng tôi nghĩ ở cấp độ cao hơn, điều tôi muốn nói là chúng tôi xem xét khả năng người dùng sẽ xem nội dung, vì vậy yếu tố chính thực sự vấn đề là xác suất người dùng tương tác với nội dung này và xem nội dung đó trong một khoảng thời gian dài hơn.
Và sau đó, chúng tôi cũng tính đến điều thứ hai, khả năng người dùng thực sự tương tác với nội dung này là bao nhiêu, nghĩa là họ có ‘Thích’ nội dung đó không, có chia sẻ nội dung đó không, có nhận xét về nội dung đó hay nói với bạn bè của họ không.”
Khả năng chia sẻ mở rộng đó là yếu tố giúp tối đa hóa phạm vi tiếp cận, do đó, việc tạo các bài đăng video hấp dẫn, có thể chia sẻ là chìa khóa.
Như đã lưu ý, có lẽ không đủ cụ thể để thúc đẩy hành động thực sự – nhưng nếu bạn muốn thấy hiệu suất tốt hơn, hãy tạo nội dung tốt hơn. Tuy nhiên, hiểu được các nguyên tắc chính có thể giúp ích trong cách tiếp cận của bạn.
Bà Mehrotra cũng chia sẻ cụ thể về các video lan truyền (viral video) và điều gì khiến video trở nên ‘lan truyền’ trên Facebook:
“Điều mở ra tính lan truyền quay trở lại cốt lõi của việc chúng tôi muốn người dùng thưởng thức nội dung mà họ đang xem và vì vậy, nếu có một video mà người dùng liên tục xem nội dung đó, tương tác với nó trong suốt thời gian đó, họ chia sẻ lại và lan truyền nó với bạn bè của họ, chúng tôi thu nhận tất cả những tín hiệu đó xung quanh video khi xem video đó và điều đó về cơ bản đã kích hoạt tính lan truyền.”
Vì vậy, các chìa khóa tương tự như chia sẻ video – giữ chân người xem của bạn trong suốt quá trình và thúc đẩy chia sẻ.
Về những điều không nên làm, Bà Mehrotra lưu ý rằng người sáng tạo cần đảm bảo rằng họ tuân thủ các nguyên tắc về tính toàn vẹn của nền tảng và các tiêu chuẩn cộng đồng.
Nếu nội dung của bạn không tuân thủ các quy tắc đó, nó sẽ bị giảm phân phối.
Bà Mehrotra cung cấp 05 bí quyết chính để tối đa hóa hiệu suất video trên Facebook:
Tạo Video thúc đẩy lượt xem có chủ định và trung thành – Một lần nữa, giữ chân người xem vẫn là điều quan trọng, đó không chỉ là trong mỗi video được tải lên, mà còn đối với nội dung Trang của bạn nói chung, đưa người dùng quay lại xem video tải lên tiếp theo của bạn và tiếp tục sau đó. “Nội dung đưa người dùng trở lại nền tảng là nội dung mà chúng tôi muốn tiếp tục phát triển trên nền tảng của mình”.
Tạo video xây dựng các tương tác có ý nghĩa và thúc đẩy chia sẻ chân thực – Không chỉ để giải trí, bạn cũng nên xem xét điều gì thúc đẩy mọi người chia sẻ video và tại sao họ có thể muốn nói với bạn bè họ về nội dung của bạn.
Tạo video có nội dung gốc của bạn – Bà Mehrotra lưu ý rằng Facebook rất quan tâm đến việc quảng bá tác phẩm gốc của Facebook. “Nội dung nguyên bản mà bạn đang tạo ra càng mang lại giá trị độc đáo cho Facebook và người dùng của chúng tôi là nội dung mà chúng tôi mong muốn.”
Tải lên các video sẽ khiến khán giả quay lại Trang của bạn – Duy trì kết nối đó là chìa khóa quan trọng, vì vậy các câu chuyện liên tục, nhiều tập có thể tốt cho việc xây dựng phạm vi tiếp cận video trên Facebook của bạn.
Tạo video dài hơn, chất lượng cao giúp người dùng luôn xem và tương tác – Đây là một lưu ý thiết thực hơn – theo Bà Mehrotra: “Nếu đó là nội dung chất lượng cao dài hơn ba phút và mọi người đang xem cũng như thu hút trong 60 giây cộng thêm”, đó là những gì Facebook đang tìm kiếm trong các video được tải lên.
Như đã lưu ý, một số mẹo ở đây hơi quá chung chung để có thể đưa ra định hướng thực sự, nhưng chúng đáng lưu ý khi bạn lập kế hoạch chiến lược video trên Facebook của mình.
Tham gia Cộng đồng We’re Marketer để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: Link
Động thái của Facebook mới đây dẫn đến nguy cơ mất thị trường hơn 20 triệu người dùng Internet của Australia, nơi mang lại doanh thu 673,9 triệu USD năm 2019, hoặc tệ hơn.
wired.
Facebook trước nguy cơ mất thị trường Australia
Việc Facebook chặn nội dung tin tức báo chí ở Australia có thể mang lại những hệ quả tồi tệ không lường trước được. Một trong những hệ quả thấy được ngay sau quyết định này, đó là lượng truy cập của các trang báo điện tử Australia giảm mạnh, khoảng 13% đối với bạn đọc nội địa và 30% nguồn nước ngoài, theo hãng nghiên cứu Chartbeat chia sẻ.
Cũng theo Chartbeat, lượng truy cập vào các trang báo Australia thông qua Facebook giờ chỉ còn vài phần trăm.
Thông số này chưa “về mo” vì vẫn còn một số nơi người dùng có thể tìm thấy link dẫn tới website báo Australia, chẳng hạn trong mục giới thiệu các fanpage; hay như tờ Guardian Australia vẫn có thể chia sẻ bài viết vì dùng tên miền toàn cầu theguardian.com.
Ở chiều ngược lại, Facebook cũng đứng trước nguy cơ thiệt hại nặng nề vì quyết định của chính mình.
Báo cáo mới nhất về hoạt động tài chính năm 2019 của Facebook ở Australia cho thấy, nền tảng mạng xã hội này đạt doanh thu quảng cáo lên đến 673,9 triệu USD, lợi nhuận đạt 22,7 triệu USD. Ước tính kết quả năm 2020, đại dịch Covid-19 không làm ảnh hưởng xấu đến Facebook.
Trong thông cáo, Facebook cho biết tin tức báo chí chỉ chiếm 4% nội dung xuất hiện trên bảng tin người dùng, nghĩa là họ sẵn sàng bỏ mảng này.
Tuy nhiên nếu căng thẳng tiếp tục gia tăng, động thái của Facebook dẫn đến viễn cảnh mất thị trường hơn 20 triệu người dùng Internet của Australia. Đó là chưa kể nhiều nước đang sẵn sàng ủng hộ Australia.
Người dùng rất quan trọng đối với Facebook. Vì thế mà khi bị chặn ở Trung Quốc, thị trường có gần 1 tỷ người dùng Internet, Facebook vẫn thường xuyên tìm cách quay trở lại bằng nhiều cách khác nhau.
Được biết, Facebook vẫn hợp tác với Xiaomi để phát triển công nghệ VR, CEO Mark Zuckerberg thì từng mua sách tìm hiểu về ông Tập Cận Bình…
Chặn Facebook là xong chuyện?
Một điều đáng chú ý là ngay cả khi bị cấm cửa ở Trung Quốc, Facebook vẫn có cách kiếm nguồn thu từ đất nước này.
Thậm chí doanh thu quảng cáo của Facebook ở Trung Quốc còn đứng thứ hai, chỉ sau thị trường Mỹ. Chuyên gia Brian Weiser của công ty Pivotal Research tiết lộ, Facebook thu về khoảng 5-7 triệu USD từ Trung Quốc trong năm 2018.
Điều kỳ lạ trên xảy ra khi mà các công ty Trung Quốc như TikTok, Huawei cũng cần tiếp cận lượng người dùng khổng lồ toàn cầu của Facebook, trong bối cảnh thị trường nội địa có phần bão hòa và tăng trưởng chậm lại.
Facebook tận dụng điều đó, bán quảng cáo cho các công ty Trung Quốc thông qua đại lý bán lẻ như MeetSocial, Cheetah Mobile, Papaya, và Powerin.
Facebook còn từng tuyên bố mong muốn “quyết tâm trở thành nền tảng marketing tốt nhất hỗ trợ các công ty Trung Quốc đi ra nước ngoài”.
Năm ngoái, Facebook cùng đội kỹ sư ở Singapore bắt tay vào phát triển công cụ mua bán quảng cáo dành riêng cho các công ty Trung Quốc.
Như vậy, việc chặn mạng xã hội Facebook, mảng hoạt động chính của gã khổng lồ công nghệ nước Mỹ, chưa phải biện pháp trừng phạt tận cùng.
Tham gia Cộng đồng We’re Marketer để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: Link
Facebook ngày 18/2 cho rằng trang mạng xã hội này buộc phải hạn chế chia sẻ các nội dung tin tức ở Australia vì dự luật mới của nước này không đưa ra hướng dẫn rõ ràng về định nghĩa nội dung tin tức.
Facebook ngày 18/2 cho rằng trang mạng xã hội này buộc phải hạn chế chia sẻ các nội dung tin tức ở Australia vì dự luật mới của nước này không đưa ra hướng dẫn rõ ràng về định nghĩa nội dung tin tức.
Bên cạnh đó, “gã khổng lồ” công nghệ cũng khẳng định cam kết của hãng với cuộc chiến chống thông tin sai lệch không thay đổi.
Theo người phát ngôn của Facebook, những hành động mà trang mạng này đang thực hiện tập trung vào việc hạn chế các hãng tin tức và người dân ở Australia chia sẻ hay xem những nội dung tin tức của Australia và quốc tế.
Vì luật không cung cấp chỉ dẫn rõ ràng về định nghĩa nội dung tin tức, Facebook buộc đưa ra định nghĩa rộng nhằm tôn trọng luật như dự thảo. Tuy nhiên, Facebook sẽ chuyển hướng bất kỳ trang nào vô tình bị ảnh hưởng.
Cùng ngày, Chủ tịch Hiệp hội truyền thông tin tức của Anh, ông Henry Faure Walker, cho rằng động thái của Facebook tại Australia cho thấy tại sao các nước trên thế giới cần thế giới cần có những quy định mạnh mẽ để ngăn chặn những hành động như vậy của các “gã khổng lồ công nghệ”.
Ông Walker cho rằng việc Facebook đưa ra động thái trên trong bối cảnh đại dịch viêm đường hô hấp cấp Covid-19 bùng phát trên phạm vi toàn cầu là một ví dụ điển hình cho thấy một thế lực độc quyền muốn bảo vệ sự thống trị của mình mà không cần bận tâm tới người dân và khách hàng.
Trước đó, ngày 17/2, Facebook thông báo sẽ hạn chế chia sẻ các nội dung tin tức ở Australia.
Chỉ trong một đêm, Facebook đã xóa toàn bộ nguồn cung cấp dữ liệu của hàng chục trang thông tin truyền thông của Australia, động thái được xem là phản ứng với kế hoạch của chính phủ Australia dự kiến thông qua dự luật buộc các nền tảng số phải trả phí cho những nội dung thông tin.
Một số dịch vụ khẩn cấp của Australia ngày 18/2 thông báo bị ảnh hưởng nghiêm trọng sau lệnh cấm của Facebook.
Đến chiều cùng ngày, Facebook đã khôi phục các trang dịch vụ của chính phủ, song vẫn còn các nhóm cộng đồng, doanh nghiệp nhỏ bị ảnh hưởng. Điều này đã dẫn đến nhiều lời kêu gọi người dùng xóa bỏ ứng dụng này.
Thủ tướng Australia Scott Morrison đã bày tỏ thất vọng trước việc Facebook hạn chế chia sẻ thông tin thiết yếu về các dịch vụ y tế và khẩn cấp của nước này.
Nhà lãnh đạo Australia nhấn mạnh những hành động của Facebook sẽ chỉ xác nhận mối quan ngại của ngày càng nhiều nước về việc các công ty công nghệ lớn cho rằng mình có quyền hạn cao hơn chính phủ và các quy định không áp dụng với họ.
Tham gia Cộng đồng We’re Marketer để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: Link
Facebook âm thầm phát triển smartwatch có khả năng theo dõi sức khỏe, nhắn tin và kết nối trực tiếp với thiết bị thực tế ảo Oculus.
Theo The Information, Facebook tiếp tục hoàn thiện hệ sinh thái phần cứng với dự án đồng hồ thông minh. Thiết bị hoạt động trên nền tảng Android, tuy nhiên chưa rõ đó là Wear OS hay một phiên bản tùy biến.
Mạng xã hội này cũng tìm cách phát triển hệ điều hành dành riêng cho các phần cứng của mình trong tương lai.
Theo đó, smartwatch của Facebook có thể nhắn tin, theo dõi sức khỏe, hỗ trợ tập thể dục, đồng thời kết nối với thiết bị thực tế ảo không dây Oculus, trò chuyện video Portal.
Dự kiến sản phẩm sẽ có mặt trên thị trường từ năm 2022. Ngoài ra, Facebook còn phát triển kính thông minh dựa trên thương hiệu Ray-Ban.
Facebook không bình luận gì trước thông tin này.
Theo The Verge, từ lâu Facebook đã muốn chen chân vào lĩnh vực phát triển phần cứng. Tập đoàn này có hơn 6.000 nhân viên làm việc trong các dự án thực tế ảo (VR) và thực tế tăng cường (AR) khác nhau.
Họ đã cho ra đời các sản phẩm như Oculus và Portal, một số sáng kiến khác đang được thử nghiệm tại Facebook Reality Labs.
Mạng xã hội này đã mua lại CTRL-Labs vào năm 2019. Đây là start-up chuyên xây dựng các cơ chế nhập liệu không dây, bao gồm truyền tín hiệu điện từ não tới thiết bị mà không cần màn hình cảm ứng hoặc nút bấm vật lý.
Bằng sở hữu trí tuệ và các nghiên cứu đang triển khai của CTRL-Labs có thể liên quan đến thiết bị đeo Facebook xây dựng trong tương lai, bao gồm đồng hồ thông minh, kính thông minh hoặc tai nghe Oculus mới.
Nếu chen chân vào thị trường smartwatch, Facebook sẽ phải chịu áp lực cạnh tranh mạnh mẽ với các ông lớn đang chiếm lĩnh tại đây.
Theo Business Insider, riêng Apple Watch đang giữ 55% thị phần. Ngoài ra còn có sự hiện diện của Galaxy Watch (Samsung) và Fitbit – công ty chuyên sản xuất thiết bị đeo thông minh dành cho tập luyện thể thao vừa được Google mua lại.
Tham gia Cộng đồng We’re Marketer để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: Link
Sau khi tăng cường biện pháp an toàn cho Messenger với một số tính năng riêng tư và bảo mật vào năm ngoái, Facebook vừa tiết lộ các tính năng mới nhằm giúp người dùng an toàn hơn.
Theo Neowin, tính năng mới như là một phần kế hoạch của Facebook nhằm mừng lễ kỷ niệm Ngày Internet An toàn hơn. Về cơ bản, tính năng mới cho phép người dùng có thể xử lý các yêu cầu tin nhắn dễ dàng.
Ngoài ra, dịch vụ thêm một cách mới để xác định đâu là tin nhắn không mong muốn với ngữ cảnh bổ sung cũng như tùy chọn mới để xóa hàng loạt tin nhắn.
Công ty cũng đang thử nghiệm một phương pháp mới để cho phép người dùng báo cáo lạm dụng hoặc quấy rối. Messenger triển khai các cải tiến đối với cách gửi phản hồi cho các tin nhắn mà người dùng báo cáo trước đó.
Facebook cũng làm cho tùy chọn xem các tài khoản bị chặn trở nên minh bạch hơn trong menu cài đặt quyền riêng tư. Tùy chọn chặn tài khoản đã được chú ý nhiều hơn trong các yêu cầu tin nhắn và thông báo an toàn.
Trong nỗ lực cung cấp sự an toàn cho trẻ vị thành niên, Messenger đang nghiên cứu một khả năng mới để xác định những người dùng gửi một lượng lớn tin nhắn hoặc yêu cầu kết bạn cho người dùng dưới 18 tuổi.
Facebook lưu ý các biện pháp này nhằm ngăn chặn lạm dụng hoặc nội dung có hại trên Messenger.
Tham gia Cộng đồng We’re Marketer để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: Link
Giám đốc điều hành Amazon Jeff Bezos sẽ từ chức vào cuối năm nay và Sếp của nền tảng đám mây của Amazon, Ông Andy Jassy sẽ tiếp quản vị trí này.
Người kế nhiệm Jeff Bezos là Ông Andy Jassy, giám đốc điều hành lâu năm đảm nhiệm vai trò Giám đốc điều hành của mảng kinh doanh điện toán đám mây có lợi nhuận khủng của Amazon, Amazon Web Services.
Cựu Phó Chủ tịch Amazon, Tim Bray, nói trong một cuộc phỏng vấn ngày 3/2: “Andy là một chàng trai thông minh. Anh ấy là một nhà lãnh đạo tốt. Tôi tin anh ấy sẽ làm tốt. Nhưng chắc chắn, đó sẽ là một công việc hay nhiệm vụ không hề dễ dàng.”
Dưới đây là những vấn đề lớn nhất mà Jassy sẽ ‘thừa hưởng’ khi tiếp quản.
Amazon là mục tiêu trong các cuộc điều tra chống độc quyền từ chính phủ.
Amazon có thể là một mục tiêu tiếp theo cho các nhà quản lý hay các cơ quan chuyên trách của chính phủ, những người đang tăng cường giám sát chống độc quyền của họ đối với các công ty thuộc Big Tech.
Facebook và Google đã bị kiện ở Mỹ vào năm ngoái vì cáo buộc vi phạm chống độc quyền.
Nhưng Amazon có thể gặp phải trong năm nay khi các cuộc điều tra đang diễn ra trên khắp nước Mỹ và EU.
Về phía Jeff Bezos, ông vốn không còn hứng thú với các vụ kiện và điều trần trước quốc hội nữa. Ông sẽ để người kế nhiệm Jassy thực hiện thay ông các hoạt động này.
Ngay sau khi Amazon thông báo Jassy sẽ là Giám đốc điều hành mới, Hạ nghị sĩ Ken Buck, một thành viên của Hạ viện về chống độc quyền, đã tweet rằng ông muốn chất vấn Jassy.
Đây cũng là Hạ viện đã công bố báo cáo vào năm ngoái với cáo buộc vi phạm chống độc quyền của Amazon, Apple, Google và Facebook.
Các đơn vị bán hàng bên thứ 3 – Third-party sellers.
Phần lớn các cuộc điều tra chống độc quyền đối với Amazon tập trung vào mối quan hệ của họ với các đơn vị bán hàng bên thứ ba.
Những người bán này chiếm một tỷ lệ lớn trong tổng doanh số bán hàng trên Amazon, nhưng nhiều người đã phàn nàn và vật lộn với những ràng buộc mà Amazon đã đặt ra trên nền tảng này.
Đáng chú ý nhất là mối quan tâm chống độc quyền xung quanh việc Amazon quảng cáo các sản phẩm cạnh tranh của riêng mình, từ quần áo đến giấy vệ sinh trong kết quả tìm kiếm và vị trí trên trang web.
Amazon đã nhiều lần phủ nhận họ ủng hộ các sản phẩm của chính mình hơn các sản phẩm khác của các đơn vị bán hàng bên thứ 3.
Những công nhân kho đang lập liên đoàn.
Amazon phải đối mặt với những nỗ lực nhằm hợp nhất hóa lớn đầu tiên trong vài năm. Vào ngày 8 tháng 2, công nhân tại một trong những nhà kho của Amazon ở Alabama sẽ bắt đầu bỏ phiếu về việc có nên thành lập công đoàn hay không.
Amazon đã cố gắng hết sức trong giới hạn pháp lý của mình để dập tắt các nỗ lực hợp nhất và chúng ta sẽ biết kết quả khi các phiếu bầu được kiểm tra vào ngày 30 tháng 3.
AWS đối mặt với nhiều sự cạnh tranh về mảng điện toán đám mây.
AWS vẫn là nền tảng điện toán đám mây thống trị. Theo phân tích mới nhất từ công ty nghiên cứu Canalys, 33% chi tiêu trên nền tảng đám mây trong quý 4 năm 2020 là của Amazon.
Nhưng Microsoft cũng đã chứng kiến thị phần của mình tăng lên 20% chi tiêu cho điện toán trong quý và công bố mức tăng trưởng ấn tượng 50% so với cùng kỳ trong quý cho đám mây Azure của mình.
Google Cloud đang đứng thứ ba về thị phần và nó vẫn đang bị thua lỗ nặng mặc dù đã tăng trưởng. Google vẫn tiếp tục đạt được các giao dịch đám mây lớn, chẳng hạn như quan hệ đối tác gần đây với Ford.
AWS là ‘cỗ máy in tiền kỳ diệu’ của Amazon. Thách thức lớn của Ông Jassy sẽ là duy trì sự thống trị và lợi nhuận đó của AWS, điều này sẽ thúc đẩy đầu tư vào phần còn lại của đế chế Amazon.
Jeff Bezos vẫn là Sếp.
Jeff Bezos không làm CEO không có nghĩa là ông ấy sẽ biến mất hoàn toàn khỏi Amazon. Khi Jassy tiếp quản vào cuối năm nay, Bezos sẽ trở thành chủ tịch điều hành hội đồng quản trị của Amazon và Jassy sẽ phải báo cáo với ông.
Jeff Bezos vẫn là cổ đông lớn của Amazon và khối tài sản khổng lồ của ông gắn liền với hoạt động của cổ phiếu.
Vì vậy, mặc dù Jeff Bezos sẽ không quản lý Amazon hàng ngày, nhưng những ảnh hưởng của ông sẽ không mất đi khi Jassy lên phụ trách.
Tham gia Cộng đồng We’re Marketer để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: Link
Khi nhìn vào trang chủ của MeWe và bạn sẽ nghĩ ngay rằng “Điều này trái ngược với các nền tảng mạng xã hội mà tôi biết”.
Và đúng là như thế!
MeWe tự hào về việc có một mô hình kinh doanh coi mọi người là khách hàng chứ không phải dữ liệu. (Đó là cách mà Facebook vẫn đang làm!)
Dưới đây là năm điều bạn sẽ thích về mạng xã hội này:
Không có quảng cáo. Không có nội dung được tài trợ gây phiền nhiễu.
Nguồn cấp tin tức là của bạn, bạn có thể kiểm soát. Nó sẽ không bị thao túng theo bất kỳ cách nào để bán cho bạn bất cứ thứ gì.
Bạn nhận được một ứng dụng nhắn tin giống như Messenger.
Bạn không cần phải lo lắng về việc dữ liệu cá nhân của mình bị bán cho các doanh nghiệp lớn.
Nó cũng thú vị và thăng hoa như các nền tảng mạng xã hội khác, nhưng được xây dựng dựa trên niềm tin và tình yêu.
2. Ello
Ello khởi đầu là một nền tảng truyền thông mạng xã hội giống như Facebook, nhưng không có quảng cáo, vẫn có các mối đe dọa đối với bảo mật và quyền riêng tư.
Tuy nhiên, ứng dụng này đã dần trở thành một nền tảng giống như Pinterest dành cho những người sáng tạo và người hâm mộ quan tâm đến nghệ thuật, thời trang, nhiếp ảnh và văn hóa.
Tham gia nền tảng rất dễ dàng. Chỉ cần đăng ký bằng tên và địa chỉ email của bạn, và bạn đã sẵn sàng.
Điều bạn sẽ thích ở Ello:
Không có quảng cáo.
Bạn có thể cộng tác, làm việc hoặc thậm chí thuê những người sáng tạo khác.
Bạn không cần phải cung cấp tên thật của mình.
Có rất nhiều sáng tạo độc đáo, nguyên bản và đáng ngạc nhiên từ mọi người trên khắp thế giới.
3. BitChute
Lời hứa của BitChute là “đặt người sáng tạo lên hàng đầu và cung cấp cho họ một dịch vụ mà họ có thể sử dụng để phát triển và tự do thể hiện ý tưởng của mình”.
Nói một cách đơn giản, đó là một nền tảng truyền thông mạng xã hội dựa trên video giống như YouTube…
Bạn có thể nói bất cứ điều gì trên BitChute mà không sợ bị cấm.
Kể từ khi được thành lập vào năm 2017, BitChute đã phải hứng chịu nhiều lời chỉ trích.
Bởi vì không có quy tắc, ứng dụng này tự nhiên chứa đầy những người cực đoan và bình luận gây căm phẫn.
Nhưng bỏ qua những điều này, bạn có thể dễ dàng tìm thấy vô số nội dung thú vị trên nền tảng này.
Có tin tức, sự kiện hiện tại và một loạt các chủ đề như hoạt hình, kinh doanh, giáo dục, làm vườn, sức khỏe, v.v.
EyeEm là một nền tảng hình ảnh miễn phí và cũng là một nền tảng truyền thông mạng xã hội.
Nếu bạn là một nhiếp ảnh gia đang tìm cách tiếp cận và marketing dịch vụ của mình, thì đó là một nơi rất tuyệt vời.
Nhưng EyeEm không chỉ dành cho các nhiếp ảnh gia chuyên nghiệp.
Đây cũng là một nền tảng nơi bạn có thể tạo sự kiện với bạn bè, kết nối với những người sáng tạo nội dung và tăng mức độ tiếp cận cho thương hiệu của mình.
7. Nextdoor
Một điều chúng ta có thể yêu thích mạng xã hội này đó là nó cho phép chúng ta kết nối với mọi người từ mọi nơi trên thế giới.
Với gần 8 tỷ người trên hành tinh, có rất nhiều điều đang diễn ra với Facebook, Instagram và Twitter.
Đây là nơi Nextdoor xuất hiện.
Nextdoor là một nền tảng truyền thông mạng xã hội, nơi bạn có thể làm quen với những người hàng xóm của mình.
Bạn sẽ kết nối với những người dùng sống xung quanh khu vực cho dù họ là người dùng tư nhân, doanh nghiệp địa phương, tổ chức phi lợi nhuận.
Nếu bạn là chủ doanh nghiệp, tham gia Nextdoor là một cách tuyệt vời để mang lại lượng người ghé qua cửa hàng của bạn.
Ngay sau khi bạn đăng ký và xác minh địa chỉ của mình, bạn sẽ ngay lập tức được kết nối với những người trong vùng lân cận của bạn.
Tất cả những gì bạn cần làm là kiểm tra hồ sơ của họ và nói chuyện với họ!
Tham gia Cộng đồng We’re Marketer để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: Link
Sau khi Jeff Bezos của Amazon từ chức CEO, Mark Zuckerberg của Facebook hiện là người sáng lập kiêm CEO duy nhất còn lại tại Big Tech.
Mark Zuckerberg (R) is about to surpass Jeff Bezos as the world’s fifth richest man. Getty Images
Apple chuyển từ nhà sáng lập Steve Jobs sang Tim Cook vào năm 2011 khi Steve Jobs mắc bệnh nặng. Microsoft đã bổ nhiệm CEO Satya Nadella vào năm 2014, khi cựu CEO Steve Ballmer nghỉ hưu và người sáng lập Bill Gates rời vị trí Chủ tịch hội đồng quản trị.
Alphabet, công ty mẹ của Google, đã chuyển vị trí CEO từ người đồng sáng lập kiêm CEO Larry Page sang Sundar Pichai vào năm 2019.
Giờ đây, Amazon cũng đã chuyển vị trí này từ người sáng lập Bezos sang cho Ông Andy Jassy, một nhân viên lâu năm của Amazon, người đã xây dựng nên AWS, mảng kinh doanh điện toán đám mây của công ty này.
Mark Zuckerberg đã nắm quyền điều hành Facebook liên tục kể từ khi đồng sáng lập công ty này vào năm 2004. Anh cũng là người CEO cuối cùng của Big Tech.
Không giống như những nhà lãnh đạo khác – bao gồm cả Jeff Bezos – Mark Zuckerberg nắm giữ đa số quyền biểu quyết tuyệt đối đối với cổ phiếu Facebook.
Điều đó mang lại cho Anh khả năng lãnh đạo gần như toàn quyền tại công ty. Bất kỳ cổ đông nào không đồng ý với hướng đi của Mark Zuckerberg chỉ có một lựa chọn duy nhất: “Bán cổ phiếu của họ”.
Điều này cho phép Mark Zuckerberg bắt tay vào các dự án dài hạn và thực hiện chúng trong bất cứ thời điểm nào Anh cho là phù hợp.
Ngoại lệ duy nhất, đó là trường hợp của Oculus, một công ty thực tế ảo mà Facebook đã mua với giá 2 tỷ USD vào năm 2014. Sau 7 năm kể từ khi mua lại, Oculus vẫn chưa phát triển thành công việc kinh doanh mà Facebook đã hình dung khi mua lại.
Còn lại, từ việc phát minh ra News Feed vào năm 2006, thông qua việc mua lại Instagram và WhatsApp cũng như việc sao chép tính năng ‘Stories’ mà Snapchat đã đổi mới vào năm 2016 của Instagram, Zuckerberg đã đưa ra nhiều quyết định đúng hơn là sai.
Những gã khổng lồ công nghệ đã phát triển tốt sau khi thay thế người sáng lập.
Cả Apple, Microsoft và Alphabet đều đã chứng kiến doanh thu và giá cổ phiếu của họ tăng trưởng với các nhà lãnh đạo mới nhất của họ.
Apple.
Dưới thời Tim Cook, giá cổ phiếu của Apple đã tăng hơn mười lần, từ 13,44 USD vào tháng 8 năm 2011 lên 134,99 USD vào thời điểm hiện tại, trong khi doanh thu đã tăng hơn 153% từ 108,2 tỷ USD năm 2011 lên 274,5 tỷ USD vào năm 2020.
Microsoft.
Giá cổ phiếu của Microsoft dưới thời Nadella đã tăng hơn bảy lần, từ 36,25 USD vào tháng 2 năm 2014 lên 239,51 USD vào thời điểm hiện tại trong khi doanh thu tăng gần 62% từ 77,8 tỷ USD năm 2014 lên 125,8 tỷ USD vào năm 2020.
Alphabet.
Pichai mới hơn rất nhiều, nhưng giá cổ phiếu của Alphabet đã tăng 48% từ 1.294,74 USD vào tháng 12 năm 2019 lên 1.919,12 USD vào thời điểm hiện tại trong khi doanh thu tăng gần 13% từ 161,9 tỷ USD năm 2019 lên 182,5 tỷ USD vào năm 2020.
Pichai đã không có quá nhiều thời gian để đổi mới kể từ khi bước vào vai trò CEO và thay vào đó, phần lớn trọng tâm của ông là xoa dịu lực lượng lao động ngày càng có nhiều phản đối và biến động, đối phó với hậu quả từ đại dịch Covid-19 và quản lý các cuộc chiến pháp lý của công ty này.
Tham gia Cộng đồng We’re Marketer để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: Link
Facebook nói rằng họ sẽ sớm bắt đầu thử nghiệm các biện pháp kiểm soát nhằm loại trừ các chủ đề không mong muốn, điều này sẽ cho phép các nhà quảng cáo ngừng quảng cáo của họ xuất hiện bên cạnh các chủ đề nhất định trong ‘Bảng tin’ (News Feed) dựa trên tùy chọn về mức độ phù hợp với thương hiệu của họ.
Theo giải thích của Facebook:
“Chúng tôi đang có kế hoạch thử nghiệm một giải pháp cho phép nhà quảng cáo chọn một chủ đề nâng cao, chẳng hạn như ‘Tội ác và bi kịch”.
Lựa chọn đó sẽ giúp xác định cách chúng tôi hiển thị quảng cáo trên Facebook, bao gồm cả ‘Bảng tin’. Ví dụ: với việc bán đồ chơi trẻ em, công ty có thể muốn tránh nội dung liên quan đến một tội ác nào đó, vì vậy họ có thể chọn chủ đề “Tội ác và bi kịch”.
Nói rõ hơn, Facebook đã cung cấp các công cụ loại trừ tương tự cho một số sản phẩm quảng cáo của mình. Ví dụ: vào tháng 9 năm ngoái, Facebook đã thêm các loại trừ mới cho phép các nhà quảng cáo ngăn quảng cáo của họ hiển thị trong các video tải lên liên quan đến các chủ đề đã chọn.
Như bạn có thể thấy ở đây, Facebook hiện cung cấp các loại trừ cho nội dung “tin tức”, “chính trị”, “trò chơi” và “tôn giáo và tâm linh” cho các chiến dịch video.
Thử nghiệm mới này liên quan đến một loạt danh mục hoàn toàn khác và đối với nội dung xuất hiện trong ‘Nguồn cấp dữ liệu tin tức’ của người dùng, đây là một giải pháp khá phức tạp dựa trên khả năng thay đổi và cá nhân hóa.
Với những phức tạp đó, Facebook dự đoán rằng việc thử nghiệm sẽ mất một thời gian:
“Việc phát triển sản phẩm này cũng như thử nghiệm và học hỏi trong News Feed sẽ mất nhiều thời gian trong năm. Đây là những biện pháp kiểm soát mới và điều quan trọng là chúng tôi xây dựng chúng với các biện pháp bảo vệ để bảo vệ quyền riêng tư của mọi người khi chúng tôi tiếp tục phát triển.”
Với những lo ngại ngày càng tăng xung quanh việc sử dụng Facebook liên quan đến những bất ổn, nền tảng này đã liên tục khám phá những cách mới để cung cấp các biện pháp kiểm soát bổ sung cho các thương hiệu, nhằm giúp họ tránh được các vị trí và liên kết tiêu cực tiềm ẩn.
Hiện tại, các biện pháp kiểm soát mới này chỉ đang được thử nghiệm với một số ít nhà quảng cáo nên bạn có thể không tìm thấy tính năng này trong tài khoản của mình.
Tham gia Cộng đồng We’re Marketer để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: Link
Tuần trước, Facebook đã đăng bản cập nhật hiệu suất hàng năm mới nhất của mình, cho thấy rằng nền tảng đã thêm tổng cộng 299 triệu người dùng tích cực hơn trong suốt năm 2020.
Nhưng trong các điểm dữ liệu khác nhau, có một dấu hiệu tiềm ẩn có thể chỉ ra những thách thức trong tương lai đối với đế chế mạng xã hội của Zuckerberg.
Trong khi Facebook tiếp tục phát triển và thêm nhiều người dùng tích cực hơn trong suốt cả năm, hãy xem đặc biệt số liệu thống kê người dùng hoạt động hàng ngày ở Mỹ và Canada.
Mặc dù về tổng thể, Facebook đã bổ sung 5 triệu DAU vào năm 2019, nhưng nó thực sự đánh mất thời lượng hoạt động hàng ngày ở Mỹ trong cả năm.
Facebook hiện tiếp cận khoảng 70% dân số Mỹ, trong trường hợp này, khi nhiều người tìm cách để duy trì kết nối trong COVID-19, đáng lẽ ra mức sử dụng hàng ngày của Facebook tăng lên.
Nhưng điều đó đã không xảy ra.
Về mặt doanh thu, Facebook vẫn còn nhiều tiềm năng để mở rộng – doanh thu trung bình trên mỗi người dùng của Facebook là 53 USD trong quý 4 tại thị trường Mỹ, cao hơn bất kỳ khu vực nào khác.
Do đó, bạn có thể mong đợi rằng Facebook sẽ tiếp tục kiếm được hàng tỷ USD trong tương lai gần, dường như không có rủi ro thực sự nào đối với triển vọng kinh doanh của nó.
Nhưng câu hỏi dành cho các nhà marketers Bắc Mỹ sẽ là: “Liệu Facebook có phải là trọng tâm tốt nhất cho các chiến dịch của chúng tôi hay không?”
Ngay bây giờ, điều đó có thể là ‘có’, tùy thuộc vào chi tiết kinh doanh cụ thể của bạn. Nhưng với việc thời lượng sử dụng Facebook hàng ngày giảm, có thể đáng để xem xét tại sao lại như vậy và điều đó có thể có ý nghĩa gì đối với xu hướng sử dụng trong tương lai.
Biểu đồ cho thấy thời gian sử dụng hằng ngày của Facebook đang sụt giảm.
Đối với một số thương hiệu, điều đó đã gợi ý rằng các nền tảng khác có thể mang lại kết quả tốt hơn, tùy thuộc vào cách tiếp cận của bạn. Ví dụ như TikTok, theo báo cáo, hiện đang cho thấy mức độ sử dụng và thời gian tương tác nhiều hơn so với Facebook.
Có nhiều cân nhắc khác nhau trong vấn đề này, nhưng dữ liệu dường như chỉ ra rằng Facebook có thể đang suy thoái. Từ từ, đều đặn.
Facebook, tất nhiên, biết điều này. Ứng dụng đang tìm cách phân nhánh sang các lĩnh vực khác như AR và VR nhằm hướng đến giai đoạn tiếp theo của kết nối kỹ thuật số, đồng thời cũng đang nỗ lực xây dựng một mạng lưới -đa-nhắn-tin (messaging mega-network) để tạo điều kiện cho một loạt các chức năng đang phát triển ở các thị trường đang phát triển.
Đó là lý do tại sao cuộc tranh cãi gần đây về WhatsApp đã làm rung chuyển công ty này- sau khi cập nhật các điều khoản của WhatsApp, hàng triệu người dùng bắt đầu chuyển sang các nền tảng nhắn tin thay thế, điều này khiến Facebook ‘sợ hãi’ đến mức họ phải tăng cường quảng cáo để trấn an mọi người dùng rằng dữ liệu của họ vẫn an toàn.
Tác động lớn nhất ở đây là ở Ấn Độ, nơi ước tính rằng khoảng 10% trong số 400 triệu người dùng Ấn Độ của WhatsApp sẽ chuyển khỏi ứng dụng này.
Đó không phải là một con số đáng kể trong kế hoạch rộng lớn của Facebook, nhưng những phân khúc đối tượng nhỏ đó có thể ảnh hưởng đến bạn bè và gia đình của họ, điều này có thể làm ảnh hưởng đến kế hoạch thống trị thị trường địa phương rộng lớn hơn của ứng dụng này.
Facebook, có khả năng, đã đạt đến đỉnh cao và hiện có thể đang trên đà bão hoà, khi đặc biệt là người dùng trẻ tuổi đang tìm cách để đến với các nền tảng khác.
Đó chưa phải là một xu hướng quan trọng, nhưng chắc chắn là một xu hướng cần xem xét trong tương lai cũng như cân nhắc trong chiến lược digital marketing của bạn.
Tham gia Cộng đồng We’re Marketer để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: Link
Facebook Inc sẽ chịu thiệt hại cho hoạt động kinh doanh quảng cáo cốt lõi của mình khi Apple Inc thực hiện các thay đổi mới về quyền riêng tư.
Các chuyên gia trong ngành quảng cáo cho biết, vì các công ty truyền thông mạng xã hội ngày càng khó thu thập dữ liệu người dùng và chứng minh rằng quảng cáo trên nền tảng của họ hoạt động nên những thay đổi này dường như là ‘hình phạt’ đối với họ.
Facebook đã cảnh báo rằng tính năng mới của Apple, dự kiến sẽ ra mắt trong quý này, sẽ gây ra rủi ro cho hoạt động kinh doanh quảng cáo của họ, nhưng công ty này cũng chưa nêu chi tiết cách thức hoạt động của nó.
Các động lực của thị trường sẽ thay đổi.
Một phần sức mạnh của hoạt động kinh doanh quảng cáo của Facebook là cách ứng dụng này thu thập dữ liệu từ các ứng dụng dành cho thiết bị di động — những gì mọi người làm trên ứng dụng, những gì họ tìm kiếm, những gì họ mua và hơn thế nữa.
Theo công ty phân tích MightySignal, hơn 85.000 ứng dụng iOS đã cài đặt mã Facebook để chuyển dữ liệu trở lại công ty này tính đến tháng 12.
Dữ liệu thường được kết hợp với một mã định danh Apple duy nhất cho người dùng ứng dụng — một chuỗi số và chữ cái giúp Facebook xác định các cá nhân, cho phép Facebook thêm dữ liệu đó vào hồ sơ thông tin của họ hoặc “biểu đồ nhận dạng”.
Theo ước tính của ông Poulton, dữ liệu từ ứng dụng chiếm khoảng 15% hồ sơ thông tin người dùng Facebook.
Thay đổi về quyền riêng tư theo kế hoạch của Apple sẽ có nghĩa là các ứng dụng không thể chuyển mã nhận dạng đó mà không có sự cho phép của người dùng, do đó hạn chế những gì Facebook có thể thu thập được.
Các nhà quảng cáo cho biết thông tin chi tiết của Facebook về việc sử dụng ứng dụng là một phần trong đề xuất giá trị của Facebook.
Dữ liệu đó cho phép Facebook tối ưu hóa quảng cáo tốt hơn cho những người có nhiều khả năng trở thành khách hàng sinh lợi nhất, giúp nhà quảng cáo tiết kiệm tiền về lâu dài.
Ví dụ: một trò chơi di động phụ thuộc vào việc mua hàng trong ứng dụng có thể nhắm mục tiêu quảng cáo đến những người dùng có ‘tiền sử’ chi tiêu nhiều cho trò chơi.
Nhiều ứng dụng phụ thuộc vào các quảng cáo được nhắm mục tiêu nâng cao để tăng lượt tải xuống.
Các hạn chế của Apple cũng sẽ ảnh hưởng đến khả năng của Facebook trong việc hiển thị quảng cáo của họ hoạt động tốt như thế nào.
Facebook cung cấp cho các nhà quảng cáo các số liệu chẳng hạn như số người đã xem quảng cáo trong tuần qua tiếp tục mua sản phẩm được quảng cáo.
Công ty dựa vào mã định danh của Apple để lấy thông tin này trên thiết bị di động iOS — chiếm một phần đáng kể trong hoạt động của Facebook: Trong số người dùng điện thoại thông minh ở Mỹ, có 45,3% đã sử dụng iPhone vào năm 2020, theo Statista.
Ông Madan Bharadwaj, giám đốc công nghệ và đồng sáng lập của Measured, công ty chuyên về đo lường trong marketing, ước tính rằng Facebook sẽ có thể bị giảm 50% doanh số bán hàng hiện tại do sự thay đổi này.
Ông nói: “Nó sẽ có tác động rất lớn đến tổng doanh thu hoặc chuyển đổi mà Facebook có thể có ở hiện tại, về cơ bản đây là tín hiệu mà tất cả các nhà quảng cáo sử dụng để đưa ra quyết định đầu tư”. “Các chỉ số hiệu suất của họ sẽ giảm đáng kể.”
Động thái của Apple là một phần trong việc thắt chặt hơn các quy tắc bảo mật trong hệ sinh thái quảng cáo kỹ thuật số, từ các quy định của chính phủ ở Châu Âu và California đến các kế hoạch đã công bố của Google nhằm loại bỏ “cookie” của bên thứ ba, các đoạn mã được sử dụng để theo dõi người dùng trên trình duyệt máy tính để bàn.
Facebook đã cảnh báo các đối tác của mình rằng “các sáng kiến bảo mật kỹ thuật số sắp tới ảnh hưởng đến nhiều trình duyệt từ đó hạn chế khả năng của các doanh nghiệp trong việc đo lường các tương tác của người dùng trên các tên miền và thiết bị”, theo The Wall Street Journal.
Tham gia Cộng đồng We’re Marketer để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: Link
Tính năng mới trên iPhone sẽ hạn chế khả năng Facebook thu thập dữ liệu từ các ứng dụng và cũng như cách mà các quảng cáo sẽ hoạt động.
Facebook Inc sẽ chịu thiệt hại cho hoạt động kinh doanh quảng cáo cốt lõi của mình khi Apple Inc thực hiện các thay đổi mới về quyền riêng tư.
Các chuyên gia trong ngành quảng cáo cho biết, vì các công ty truyền thông mạng xã hội ngày càng khó thu thập dữ liệu người dùng và chứng minh rằng quảng cáo trên nền tảng của họ hoạt động nên những thay đổi này dường như là ‘hình phạt’ đối với họ.
Facebook đã cảnh báo rằng tính năng mới của Apple, dự kiến sẽ ra mắt trong quý này, sẽ gây ra rủi ro cho hoạt động kinh doanh quảng cáo của họ, nhưng công ty này cũng chưa nêu chi tiết cách thức hoạt động của nó.
Vào tháng 8, Facebook đã chỉ ra một góc nhỏ trong hoạt động kinh doanh của mình là tạo điều kiện cho các vị trí đặt quảng cáo trên các website và ứng dụng của bên thứ ba. Nó cũng cho thấy sự thay đổi sẽ ảnh hưởng đến các nhà phát triển nhỏ như thế nào.
Cốt lõi hoạt động kinh doanh của Facebook và cả Instagram, cũng sẽ phải chịu áp lực.
Thay đổi của Apple sẽ yêu cầu các ứng dụng dành cho thiết bị di động phải xin phép người dùng trước khi theo dõi hoạt động của họ, hạn chế luồng dữ liệu mà Facebook ‘tự ý’ lấy từ các ứng dụng để giúp xây dựng ‘chân dung’ của người dùng.
Những ‘chân dung’ đó cho phép các nhà quảng cáo của Facebook nhắm mục tiêu quảng cáo của họ một cách hiệu quả hơn bao giờ hết.
Phương án đo lường.
Thay đổi này cũng sẽ khiến các nhà quảng cáo khó đo lường lợi nhuận mà họ nhận được cho các quảng cáo mà họ chạy trên Facebook — chẳng hạn như bao nhiêu người xem những quảng cáo đó trên điện thoại di động và thực hiện các hành động như cài đặt một ứng dụng gì đó.
Simon Poulton, Phó chủ tịch mảng trí tuệ kỹ thuật số tại WPromote, một digital marketing agency, cho biết: “Động lực của thị trường ở đây sẽ thay đổi mạnh mẽ. “Nếu bạn đang làm marketing trên Facebook và kết quả giảm sút vì hiệu quả giảm, bạn sẽ từ chối điều đó.”
Các giám đốc điều hành của cả Facebook và Apple đã trao đổi công khai trong tuần này về sự thay đổi.
Facebook đã mạnh mẽ chống lại kế hoạch của Apple. Trong một cuộc họp ngày 27/1 vừa qua, Giám đốc điều hành Facebook, Mark Zuckerberg cho biết, “Apple có mọi động lực để sử dụng vị trí nền tảng thống trị của họ để can thiệp vào cách các ứng dụng của chúng tôi và các ứng dụng khác hoạt động”.
Apple đã bảo vệ chính sách của mình, nói rằng họ đang ưu tiên cho quyền riêng tư của người dùng. Người phát ngôn của Apple từ chối bình luận thêm.
Không trực tiếp nêu đích danh Facebook, CEO Tim Cook của Apple đã lên án “các thuyết âm mưu bị ép buộc bởi các thuật toán” và gắn tình trạng bất ổn xã hội gần đây với lập luận rằng các công cụ theo dõi ứng dụng đang biến người tiêu dùng thành các sản phẩm quảng cáo thay vì là người dùng thông thường.
Các động lực của thị trường sẽ thay đổi.
Không rõ ràng về mức độ ảnh hưởng tài chính tiềm tàng đối với Facebook, công ty vốn đã tạo ra doanh thu 86 tỷ USD vào năm ngoái. Facebook cho biết họ vẫn kỳ vọng doanh thu sẽ ổn định trong hai quý tới.
Trong năm qua, hoạt động kinh doanh của Facebook đã phát triển mạnh bất chấp đại dịch Covid-19 và một số nhà quảng cáo tẩy chay vì những ‘phát ngôn gây thù hận’ trên nền tảng của mình.
Cuộc chiến này của Apple và Facebook đang diễn ra khi Facebook và những gã khổng lồ công nghệ khác đang bị giám sát chống độc quyền về sự thống trị của họ.
Các công ty này đang tìm cách ngăn cản hành động của các cơ quan quản lý trong những tình huống như vậy thường cho rằng họ phải đối mặt với các mối đe dọa cạnh tranh đáng kể trên thị trường.
Người phát ngôn của Facebook cho biết: “Như chúng tôi đã nói nhiều lần, chúng tôi tin rằng Apple đang hành xử phản đối cạnh tranh bằng cách sử dụng quyền kiểm soát của họ đối với App Store để mang lại lợi nhuận cho các nhà phát triển ứng dụng và các doanh nghiệp nhỏ khác. Điều này tạo ra rất nhiều bất lợi cho chúng tôi.”
Hết phần 1 !
Tham gia Cộng đồng We’re Marketer để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: Link
Mạng xã hội Facebook sẽ gỡ bỏ tính năng hiển thị đề xuất các nhóm liên quan đến chính trị cho người dùng trên toàn thế giới.
Ngày 27/1, Giám đốc điều hành Facebook Mark Zuckerberg cho biết mạng xã hội này sẽ gỡ bỏ tính năng hiển thị đề xuất các nhóm liên quan đến chính trị cho người dùng trên toàn thế giới. Biện pháp này trước đó đã được Facebook áp dụng ở Mỹ do những căng thẳng liên quan cuộc bầu cử của nước này.
Facebook đang nỗ lực cải thiện uy tín sau một loạt vụ bê bối liên quan đến chính trị trong thời gian qua, trong đó có các bài đăng của cựu Tổng thống Mỹ Donald Trump về kết quả cuộc đua vào Nhà Trắng hồi tháng 11/2020.
Phát biểu tại một cuộc họp trực tuyến báo cáo tình hình tài chính, ông Zuckerberg cho biết Facebook có kế hoạch loại các nhóm chủ đề chính trị và dân sự ra khỏi danh sách gợi ý, đề xuất cho người dùng trong dài hạn và mở rộng phạm vi áp dụng chính sách này ra toàn cầu.
Ông cho biết Facebook cũng sẽ hạn chế hiển thị nội dung liên quan đến chính trị trên bảng tin của người dùng nhằm “hạ nhiệt các cuộc tranh luận mang tính chia rẽ”.
Quyết định hủy tính năng hiển thị đề xuất nhóm liên quan đến chính trị là biện pháp mới nhất của Facebook trong dài hạn nhằm tránh việc nền tảng này trở thành nơi tuyên truyền các nội dung bạo lực hoặc gây hiểu lầm liên quan cuộc bầu cử Mỹ.
Nhà sáng lập Facebook cho biết quyết định trên được đưa ra xuất phát từ phản hồi của người dùng không muốn các nội dung về chính trị và bạo lực xuất hiện tràn lan trên mạng xã hội này.
Tham gia Cộng đồng We’re Marketer để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: Link
Làm thế nào để AI nguồn cấp dữ liệu tin tức của Facebook quyết định bài đăng nào sẽ hiển thị cho bạn và khi nào chúng hiển thị? Facebook đã đưa ra một lời giải thích đầy đủ cho bạn.
Nếu bạn muốn nghe quan điểm của nhóm kỹ sư công nghệ Facebook, bạn sẽ tìm hiểu thêm về cách mã thuật toán nhiều lớp của Facebook được xây dựng.
“Việc thiết kế một hệ thống xếp hạng được cá nhân hóa cho hơn 2 tỷ người (tất cả đều có sở thích khác nhau) và rất nhiều nội dung để lựa chọn đưa ra những thách thức phức tạp và đáng kể. Đây là điều chúng tôi phải giải quyết hàng ngày với xếp hạng News Feed.”
Nhóm công nghệ và nội dung của Facebook đã làm rất tốt việc giải thích phương pháp thuật toán và hệ thống xếp hạng nguồn cấp tin tức từ cấp độ cao hơn.
Bạn sẽ thấy trong video, cách thuật toán phân tích hành vi và hoạt động của chúng ta, liên tục thu nhận thông tin mới và tính toán lại, để xác định xem chúng ta muốn xem gì tiếp theo.
Mọi thứ đều được cá nhân hóa và nhóm xây dựng thuật toán này đang tiến hành phỏng vấn và thực hiện nhiều nghiên cứu để hiểu rõ hơn hành động của chúng ta thực sự có ý nghĩa gì với các bộ máy của Facebook.
Tất cả những điều này thật thú vị để suy nghĩ và nghiên cứu, nhưng nó có ý nghĩa gì từ góc độ người làm marketing? Tìm hiểu cách hoạt động của thuật toán sẽ giúp bạn lập chiến lược tốt hơn, chắc chắn rồi.
Không có bất kỳ thủ thuật nào bạn có thể học để gian lận hệ thống ở đây, nhưng thuật toán được thiết kế để mang lại giá trị.
Facebook xác định giá trị này và cung cấp ngược lại thông qua News Feed bằng cách tìm hiểu những gì mọi người thích và không thích thông qua các tương tác của họ với nội dung.
Điều đó có nghĩa là chỉ có một cách thực sự để đưa nội dung của bạn đến với đối tượng trên Facebook (và Instagram).
Biết đối tượng của bạn và những gì họ cho là có giá trị: Điều này cần thời gian, lắng nghe, nghiên cứu và phân tích kỹ lưỡng về đối tượng mục tiêu của bạn.
Cung cấp giá trị đó: Khi bạn thực sự hiểu khán giả của mình muốn gì, đã đến lúc cung cấp cho họ nội dung hấp dẫn, chất lượng cao.
Tham gia Cộng đồng We’re Marketer để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: Link
Chuyên gia an ninh mạng Zak Doffman đã chia sẻ các mẹo của mình cho người dùng để bảo vệ dữ liệu của họ tốt hơn trên WhatsApp, Signal và cả Telegram.
Sau khi WhatsApp công bố cập nhật chính sách chia sẻ dữ liệu với Facebook, hàng triệu người dùng đã chuyển sang các ứng dụng nhắn tin khác.
Hai ứng dụng được yêu thích nhất là Telegram và Signal, dường như đã mang lại sự riêng tư cao hơn. Tuy nhiên, không có ứng dụng nào trong số ba cái tên đó là hoàn toàn đáng tin cậy, trừ khi bạn thay đổi các cài đặt bảo mật nhất định để bảo vệ thông tin của mình tốt hơn.
Chuyên gia an ninh mạng Zak Doffman tuyên bố rằng Telegram và Signal hứa hẹn nhiều quyền riêng tư hơn các nền tảng truyền thống khác. Tuy nhiên, cũng giống như WhatsApp, chúng có các cài đặt quan trọng không được cài mặc định trước và điều đó phải được sửa đổi từ bây giờ.
Giờ đây, các nền tảng này đang trở nên phổ biến, chuyên gia này đã chia sẻ các đề xuất của mình để cấu hình thiết bị sao cho dữ liệu của chúng ta ít bị truy cập hơn.
WhatsApp
Trong ứng dụng này, tin nhắn được mã hóa đầu cuối và chỉ người dùng mới có quyền truy cập vào nội dung. Tuy nhiên, Doffman nói rằng “vấn đề là siêu dữ liệu: ai, khi nào và ở đâu liên quan đến tin nhắn của bạn, cũng như danh bạ và thông tin về thiết bị của bạn.”
“WhatsApp vẫn có thể được sử dụng. Tuy nhiên, bạn cần phải thay đổi cấu hình cơ bản này để giữ an toàn”.
Tránh nội dung độc hại mà bạn nhận được, chẳng hạn như các liên kết và tệp đính kèm không xác định.
Tắt tùy chọn tự động lưu hình ảnh đã nhận vào thư viện điện thoại.
Sử dụng bảo mật 2 lớp ‘two-step verification’ để ngăn tin tặc chiếm đoạt tài khoản của bạn bằng cách lừa dối.
Tắt các bản sao lưu. Trong khi các tin nhắn được bảo vệ khi chúng được gửi đi, “nếu bạn sử dụng tùy chọn WhatsApp để sao lưu lịch sử trò chuyện của mình lên đám mây của Apple hoặc Google, thì những bản sao đó không được bảo vệ bằng mã hóa đầu cuối đó.
Telegram
Như trong WhatsApp và Signal, khi bạn truy cập Telegram lần đầu tiên trên một thiết bị, bạn phải nhập số điện thoại. Sau đó, họ yêu cầu bạn viết tin nhắn xác nhận được gửi bằng SMS. Vấn đề là nếu ai đó đánh cắp mã đó “họ có thể chiếm đoạt tài khoản của bạn và truy cập nội dung của bạn”, Doffman chỉ ra trong một bài báo khác của Forbes.
Để an toàn trên Telegram, nhà phân tích khuyến nghị những thay đổi sau:
Kích hoạt ‘xác minh hai bước’ (2FA). Vào cài đặt, nhập phần ‘quyền riêng tư và bảo mật’, thêm mật khẩu và thế là xong!
Thay đổi cài đặt quyền riêng tư của bạn. Trong phần ‘quyền riêng tư’, hãy chọn rằng chỉ những người liên hệ của bạn mới có thể liên lạc với bạn và không ai khác.
Sử dụng ‘mã khóa’. Nếu những người khác ngoài bạn có quyền truy cập vào thiết bị của bạn, điều quan trọng là phải bảo vệ các cuộc trò chuyện của bạn.
Định kỳ xem lại các phiên hoạt động trong tài khoản của bạn. Bằng cách này, bạn có thể đảm bảo rằng không có ai đã nhập từ thiết bị khác.
Trò chuyện bí mật và mã hóa đầu cuối. Telegram cung cấp ‘cuộc trò chuyện bí mật’, cung cấp mã hóa từ thiết bị này sang thiết bị khác, nhưng nó không hoạt động cho các nhóm. Để bắt đầu một cuộc trò chuyện bí mật, hãy chuyển đến cuộc trò chuyện bình thường với liên hệ của bạn, nhấp vào ba dấu chấm trên Android hoặc ‘thêm’ trên iOS và chọn ‘bắt đầu trò chuyện bí mật’.
Kích hoạt trình tự hủy. Một điểm hấp dẫn khác của ứng dụng này là nó có tùy chọn hủy tin nhắn ngay sau khi được xem.
Signal
Ứng dụng này ít nhiều có những ưu điểm và hạn chế giống như Telegram, với sự khác biệt mà chính Elon Musk đã khuyến nghị sử dụng Signal. Tất nhiên, ứng dụng này không phải là không có rủi ro và bạn cũng nên sửa đổi một số cài đặt:
Kích hoạt ‘khóa đăng ký’. Điều này sẽ ngăn người khác có quyền truy cập vào lịch sử trò chuyện của bạn trong trường hợp tài khoản của bạn bị đánh cắp hoặc bị xâm nhập.
Đặt ‘khóa màn hình’ bằng bảo mật sinh trắc học hoặc mật mã.
Tắt bản xem trước. Bằng cách này, các thông báo sẽ không xuất hiện trên màn hình chính của thiết bị.
Tắt ảnh chụp màn hình bên ngoài ứng dụng.
Đặt nó làm ứng dụng nhắn tin SMS mặc định của bạn. Doffman đã chia sẻ thủ thuật này cho người dùng Android, vì làm như vậy, tin nhắn sẽ được mã hóa và an toàn hơn, không giống như cách thông thường.
Chuyên gia này cũng cảnh báo rằng “có một vấn đề lớn hơn nhiều”, đề cập đến kế hoạch tích hợp WhatsApp với Messenger và Instagram của Facebook.
Ông giải thích trong cùng một bài đăng: “Ý tưởng là tạo ra một gã khổng lồ nhắn tin có khả năng tương tác tuyệt vời để tập hợp tất cả khách hàng của mình. Điều đó sẽ “nghiêm trọng hơn nhiều” đối với quyền riêng tư của người dùng so với bản cập nhật gần đây.
Tham gia Cộng đồng We’re Marketer để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: Link
Cơ sở dữ liệu khổng lồ, chứa thông tin cá nhân, trong đó có số điện thoại của 533 triệu người dùng Facebook, bị rao bán thông qua một bot trên Telegram.
Chuyên gia bảo mật Alon Gal – người đầu tiên phát hiện việc mua bán cơ sở dữ liệu trên Telegram, cho biết kẻ đứng sau bot này tuyên bố đang nắm trong tay dữ liệu của hơn nửa tỷ người dùng mạng xã hội nhờ khai thác một lỗ hổng bảo mật của Facebook từ năm 2019.
Thông thường với lượng dữ liệu lớn như vậy, người mua cần một năng nhất định để tìm được thông tin hữu ích. Hơn nữa, quá trình mua bán dữ liệu cũng đòi hỏi sự tương tác giữa hai bên. Việc tạo ra một bot Telegram sẽ giải quyết được cả hai vấn đề này.
Bot tự động trên Telegram cho phép một người có thể nhập số điện thoại để tra cứu xem số đó gắn với ID Facebook nào và ngược lại.
Quyền truy cập cơ sở dữ liệu được bán theo điểm tín dụng, trong đó mỗi điểm tín dụng có giá 20 USD hoặc có thể mua 10.000 điểm tín dụng với giá 5.000 USD. Bot này, bắt đầu hoạt động từ tháng 1, giống một máy bán hàng tự động, bất kỳ ai cũng có thể trả tiền để mua thông tin.
Trang Vice đã thử nhập một vài số điện thoại và xác nhận đúng là số đang hoạt động của người dùng Facebook, dù những người này đều thiết lập quyền riêng tư với số điện thoại của họ. Người bán tuyên bố khối dữ liệu chứa thông tin của người dùng Facebook chủ yếu từ Mỹ, Canada, Anh, Australia và 15 quốc gia khác.
Bot Telegram được sử dụng để bán dữ liệu Facebook. Ảnh: Vice
“Việc tồn tại một lượng dữ liệu lớn như vậy trên cộng đồng tội phạm mạng có thể gây tổn hại nghiêm trọng đến quyền riêng tư của người dùng. Thông tin khai thác được chắc chắn sẽ bị kẻ xấu lợi dụng vào hoạt động lừa đảo hoặc gian lận”, chuyên gia Alon Gal nhận định.
Đại diện của Facebook xác nhận sự việc, đồng thời khẳng định lỗ hổng gây ra vụ lộ thông tin này đã được nền tảng khắc phục từ tháng 8/2019.
Dù dữ liệu đã được thu thập từ gần 2 năm trước, nguy cơ tiềm ẩn của nó tới an ninh và quyền riêng tư vẫn rất đáng lo ngại bởi người dùng thường ít thay đổi số điện thoại của họ.
Kể từ 2012, nền tảng Facebook bắt đầu khuyến khích người dùng đăng ký tính năng xác thực hai bước thông qua số điện thoại. Tuy nhiên, đến 2018, nền tảng này bị nhiều chuyên gia phát hiện sử dụng dữ liệu số điện thoại cho mục đích quảng cáo.
“Facebook cần thông báo cho người dùng biết về sự cố, giúp họ hạn chế khả năng trở thành nạn nhân của các cuộc tấn công mạng”, Gal nói.
Tham gia Cộng đồng We’re Marketer để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: Link
Google đang chống lại luật pháp của Úc để không trả phí cho các nhà xuất bản tin tức trong khi lại ký một thỏa thuận khác đồng ý trả phí cho các nhà xuất bản Pháp. Đâu là sự khác biệt ở đây.
Sự nhầm lẫn xảy ra sau đó khi Google tiếp tục không đồng ý với bộ luật đang chờ xử lý buộc họ phải trả phí cho các nhà xuất bản Úc để được giới thiệu nội dung của họ trong SERPs, đồng thời ký một thỏa thuận đồng ý thanh toán cho các nhà xuất bản Pháp cho nội dung của họ.
Tuy nhiên, khi bạn nhìn vào hai bản thoả thuận, có một sự khác biệt rõ ràng.
Câu chuyện đằng sau thoả thuận với Pháp
Vào năm 2020, độc giả Pháp đã thấy kết quả tin tức từ các nhà xuất bản châu Âu được lấy từ SERPs (trang kết quả tìm kiếm trên Google) để đáp trả lại luật bản quyền đã được thông qua.
Vào tháng 10, Google thông báo rằng họ đang đầu tư 1 tỷ USD trong ba năm để trả phí cho các nhà xuất bản cho nội dung được giới thiệu trên Google News Showcase.
Thỏa thuận với Pháp cho phép Google đàm phán các giấy phép riêng lẻ, theo đó khoản thanh toán sẽ dựa trên các chỉ số cụ thể và có thể đo lường được.
Điều này bao gồm việc Google thay mặt người đọc thanh toán cho bất kỳ nội dung nào được xuất bản, cho phép người dùng truy cập vào nội dung mà họ sẽ không thể xem trừ khi họ thanh toán.
Câu chuyện đằng sau thoả thuận với Úc
Sự khác biệt chính giữa thỏa thuận với Pháp và xung đột của Úc là thỏa thuận này không chỉ liên quan đến việc Google sẽ phải trả phí liên kết đến nội dung của họ trong SERPs mà còn yêu cầu phía Google phải thông báo về “những thay đổi thuật toán có chủ ý” sẽ ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh truyền thông cho các nhà xuất bản và chính phủ Úc.
Trong phiên điều trần tại Thượng viện diễn ra vào thứ Sáu ngày 22 tháng 1, Giám đốc điều hành của Google Australia, Bà Mel Silva, đã nêu ra các vấn đề với Bộ luật thương lượng trên phương tiện truyền thông tin tức (News Media Bargaining Code) và đưa ra ba sửa đổi kỹ thuật giúp Bộ luật này “khả thi” hơn đối với họ.
“Đầu tiên, thay vì thanh toán cho các liên kết và trích dẫn, Bộ quy tắc có thể chỉ định News Showcase và cho phép Google đạt được các thỏa thuận thương mại để trả giá trị cho các nhà xuất bản tin tức của Úc các lưu lượng truy cập có giá trị mà chúng tôi đã cung cấp thông qua công cụ tìm kiếm.”
Về cơ bản, Bà Mel Silva đã cung cấp cùng một thỏa thuận đã được ký kết với Pháp, theo đó khoản thanh toán sẽ được thực hiện cho các nhà xuất bản đồng ý hoạt động thông qua ứng dụng News Showcase của Google.
Điều này sẽ mang lại cho Úc hai miếng bánh, một là nội dung của họ sẽ có sẵn trong kết quả tìm kiếm tự nhiên và hai là xuất hiện trong Google News Showcase.
Tuy nhiên, sẽ không có khoản thanh toán nào được thực hiện cho nội dung hiển thị trong kết quả tìm kiếm tự nhiên, chỉ những tin tức xuất hiện trong News Showcase mới nhận được khoản thanh toán.
“Thứ hai, các điều khoản trong Bộ luật hiện có mang lại rủi ro hoạt động và tài chính không thể quản lý được cho Google. Nếu điều này được thay thế bằng trọng tài thương mại tiêu chuẩn, điều này sẽ khuyến khích các cuộc đàm phán thiện chí và đảm bảo chúng tôi phải chịu trách nhiệm bằng cách giải quyết tranh chấp mạnh mẽ.”
Điểm này cũng đã được thảo luận trong một bài đăng trên blog do Google xuất bản, trong đó nêu ra 08 lý do khiến Bộ luật thương lượng này của Úc không thể thực hiện được.
“Cuối cùng, điều khoản thông báo thuật toán cần được điều chỉnh để Google chỉ thông báo về những thay đổi quan trọng có thể hành động đối với thuật toán của Google, để đảm bảo nhà xuất bản có thể phản hồi với những thay đổi ảnh hưởng đến họ. Còn lại những thứ về thuật toán chuyên sâu thì chúng tôi không thể chia sẻ”.
Tại sao Google tranh chấp với bộ luật
Ngoài ba điểm được nêu trong tuyên bố mở đầu của Bà Mel Silva tại phiên điều trần tại Thượng viện, Google tiếp tục giải thích lý do tại sao họ phản đối bộ luật đang đàm phán nhưng lại ủng hộ một bộ luật công bằng trong một bài đăng trên blog.
Các điểm bổ sung chỉ rõ rằng bộ luật về cơ bản sẽ phá vỡ ‘Google Tìm kiếm’ và dẫn đến việc Google không còn lựa chọn nào khác ngoài việc rút các dịch vụ của họ khỏi Úc.
Google cũng đã tham khảo những người dùng cùng các đơn vị khác và cũng được đồng ý rằng tìm kiếm tự nhiên vẫn nên là một tính năng miễn phí, nơi mà không có bên nào yêu cầu phải thanh toán mới được cấp quyền tìm kiếm.
Gã khổng lồ công nghệ nhắc lại rằng họ sẵn sàng trả phí cho các nhà xuất bản tin tức nhưng chỉ khi họ hoạt động thông qua Google News Showcase và thực hiện ‘các sửa đổi hợp lý đối với bộ luật; còn lại, các nội dung nếu có được xuất hiện trong các trang tìm kiếm tự nhiên thì sẽ không được trả phí vì bản thân Google cũng không tính phí cho người dùng những tính năng này.
Cuối cùng, Google chỉ ra rằng họ không hiển thị các bài báo đầy đủ mà sử dụng thuật toán để liên kết người dùng với các bài báo, họ không chịu trách nhiệm về việc sụt giảm doanh thu của tờ báo và việc công cụ tìm kiếm phải đóng góp cho Úc hàng năm.
Tham gia Cộng đồng We’re Marketer để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: Link
Facebook và Google đều bị ảnh hưởng doanh thu do nhu cầu quảng cáo trực tuyến toàn cầu sụt giảm. Hàng loạt cáo buộc độc quyền cũng khiến họ đối mặt với nguy cơ chia rẽ cao.
Facebook – “người khổng lồ” vào tầm ngắm
Đế chế mạng xã hội của Mark Zuckerberg những năm qua vướng phải không ít lùm xùm liên quan tới thương vụ thâu tóm hai nền tảng Instagram và WhatsApp. Vụ kiện buộc tội Facebook có hành vi độc quyền do Ủy ban Thương mại Liên bang tiến hành sẽ không kết thúc sớm.
Tuy nhiên, đây không phải là cái kết dành cho Facebook. Thậm chí, nếu bị buộc phải thoái vốn khỏi Instagram và WhatsApp, Facebook vẫn kiếm được một khoản lợi nhuận kếch xù.
Năm ngoái, dù có doanh số bán quảng cáo sụt giảm nghiêm trọng trong khoảng thời gian đầu năm, Facebook đã chứng kiến doanh thu phục hồi vào những tháng sau đó nhờ nhu cầu tiếp cận khách hàng tăng cao của các doanh nghiệp nhỏ.
Cụ thể, trong quý III/2020, doanh thu quảng cáo của Facebook tăng 22% so với cùng kỳ năm trước. Trong chín tháng đầu năm, tổng doanh thu cao hơn gần 17% so với cùng kỳ năm 2019.
Bất chấp khoản chi phí khổng lồ để cập nhật biện pháp kiểm soát quyền riêng tư và tuân thủ các yêu cầu khác của cơ quan quản lý, dòng tiền tự do của Facebook vẫn đạt 13,8 tỷ USD trên doanh thu 57,9 tỷ USD.
Tỷ suất lợi nhuận dòng tiền tự do đạt 24%. Dòng tiền tự do được xem là thước đo hoạt động của doanh nghiệp và được tính bằng hiệu số giữa dòng tiền hoạt động và chi tiêu vốn.
Theo báo cáo công bố vào cuối tháng 9/2020, Facebook nắm khoảng 55,6 tỷ USD tiền mặt, đầu tư nhiều loại chứng khoán ngắn hạn và có khoản nợ bằng không.
Nếu phải bán bớt Instagram và WhatsApp, “kho vũ khí” của hãng sẽ lớn hơn, tạo điều kiện cho Facebook triển khai mạnh hoạt động kinh doanh kính thực tế ảo Oculus và tiền kỹ thuật số.
Hiện tại, 99% doanh thu của Facebook là từ quảng cáo, nhưng một thập kỷ tới, công ty này sẽ hoàn toàn khác.
Google – tìm kiếm không phải mục đích duy nhất
Google cũng không thể tránh khỏi kiểm soát gắt gao của các cơ quan quản lý. Công ty cũng bị Bộ Tư pháp Mỹ cáo buộc có hành vi chống cạnh tranh trong các hoạt động kinh doanh quảng cáo và tìm kiếm trên Internet.
Tuy nhiên, vụ việc sẽ không được đưa ra xét xử cho đến năm 2023 và trong thời gian chờ đợi, Google buộc phải đa dạng hóa lĩnh vực kinh doanh để thoát khỏi sự phụ thuộc vào quảng cáo số.
Google năm qua đã làm rất tốt việc này. Dù quảng cáo vẫn chiếm 80% tổng doanh thu trong quý III/2020, dịch vụ lưu trữ đám mây Google Cloud đã đạt được bước tiến vượt bậc với mức doanh thu tăng 45% so với cùng kỳ năm ngoái, đạt 3,4 tỷ USD, chiếm 7,5% doanh thu tổng.
Google Other, bao gồm cửa hàng ứng dụng, dịch vụ YouTube và dòng thiết bị Pixel, tăng 35% – lên 5,5 tỷ USD, chiếm 12% doanh thu.
Tiếp đó là danh mục đầu tư vào nhiều công ty khởi nghiệp, như Waymo trong lĩnh vực ôtô tự lái hay Verily chuyên về khoa học đời sống. Google đang rót một lượng vốn lớn vào các doanh nghiệp này nhằm chiếm lĩnh các thị trường mới.
Nói về tiền mặt, Google thực sự không thiếu tiền. Ngay cả sau khi đầu tư rất nhiều vào các startup, trong chín tháng đầu năm 2020, công ty nãy vẫn tạo ra được dòng tiền tự do đạt 25,6 tỷ USD trên doanh thu 125,6 tỷ USD. Tỷ suất lợi nhuận dòng tiền tự do là 20%.
Cũng giống Facebook, nhiều chuyên gia dự đoán cơ quan quản lý sẽ giám sát chặt chẽ hoạt động kinh doanh của “gã khổng lồ” tìm kiếm. Nhưng với lượng tiền mặt gần 132,6 tỷ USD, cùng khoản nợ chỉ 13,9 tỷ USD, Google là một trong những tổ chức có túi tiền “sâu” nhất trên thế giới.
Công ty nào mạnh hơn?
Facebook, Google và ngành công nghệ nói chung sẽ phải đối mặt với các hành động quản lý cứng rắn của chính quyền Mỹ trong những năm tới, nhưng cả hai đều không dễ bị lật đổ.
Theo nhà đầu tư Nicholas Rossolillo của trang Money Fool, Google trong năm tới sẽ sẵn sàng phục hồi tốt hơn trong hoạt động kinh doanh quảng cáo.
Công ty này cũng có nguồn thu đa dạng hơn, các mảng tăng trưởng cao như Google Cloud có thể thành công khi đạt được quy mô sinh lời.
Facebook, một mặt nào đó, khó bằng được Google khi xét về lòng tin trong nội bộ nhân viên công ty lẫn kết quả xử lý khủng hoảng tin giả vừa qua.
Tham gia Cộng đồng We’re Marketer để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: Link
Facebook News là một phần dành riêng trong ứng dụng Facebook có các tin tức được tuyển chọn và cá nhân hóa từ hàng trăm ấn phẩm quốc gia, địa phương.
Facebook đã thông báo rằng họ sẽ bắt đầu tung ra sản phẩm Facebook News tại Vương quốc Anh và sẽ trả phí cho các nhà xuất bản cho nội dung của họ.
Facebook News là một phần dành riêng trong ứng dụng Facebook có các tin tức được tuyển chọn và cá nhân hóa từ hàng trăm ấn phẩm quốc gia cũng như địa phương.
Sản phẩm này cạnh tranh với Apple News của Apple, được ra mắt tại Mỹ vào tháng 6 năm ngoái và Vương quốc Anh là quốc gia thứ hai có quyền truy cập vào sản phẩm này.
Facebook tuyên bố sản phẩm sẽ cung cấp “tin tức đáng tin cậy và phù hợp” cho người dùng “đồng thời làm nổi bật về các chủ đề cấp bách đang diễn ra”.
Ông Jesper Doub, giám đốc đối tác tin tức tại Châu Âu của Facebook, cho biết trong một bài đăng trên blog: “Đây là sự khởi đầu của một loạt các khoản đầu tư quốc tế vào tin tức”.
Ông nói thêm: “Sản phẩm là khoản đầu tư kéo dài nhiều năm giúp ngành báo chí truyền thống tiếp cận với khán giả mới cũng như cung cấp cho các nhà xuất bản nhiều cơ hội đăng ký và quảng cáo hơn để xây dựng doanh nghiệp bền vững cho tương lai.”
Facebook đã công bố sự ra mắt của Facebook News tại Vương quốc Anh vào tháng 11, cho biết họ sẽ giới thiệu nội dung từ các đối tác truyền thông bao gồm Conde Nast, Hearst, The Economist và Guardian Media Group.
Facebook cho biết họ hiện đã đăng ký Channel 4 News, Daily Mail Group, DC Thomson, Financial Times, Sky News và Telegraph Media Group.
Ông Doub cho biết: “Chúng tôi sẽ tiếp tục học hỏi, lắng nghe và cải thiện Facebook News khi nó được triển khai trên khắp Vương quốc Anh và các thị trường khác, bao gồm cả Pháp và Đức, nơi chúng tôi đang đàm phán tích cực với các đối tác”.
Những gã khổng lồ công nghệ như Facebook và Google đang chịu áp lực ngày càng tăng trong việc trả phí cho các công ty truyền thông cho nội dung của họ.
Người phát ngôn của Facebook nói rằng công ty sẽ trả phí cho một số ấn phẩm của Vương quốc Anh để giới thiệu nội dung của họ trên Facebook News, nhưng ông không thể tiết lộ số tiền bao nhiêu.
“Chúng tôi sẽ trả phí cho một số nhà xuất bản để tham gia vào Facebook News,” ông nói. “Chúng tôi đang trả phí cho các nội dung chưa có trên nền tảng của chúng tôi để đạt được mức độ phù hợp đa dạng trên nhiều lĩnh vực và chủ đề.”
Cuộc đấu tranh của Google
Tuần trước, Google đã ký một thỏa thuận trả phí cho các công ty xuất bản và hãng thông tấn của Pháp cho nội dung của họ.
Thỏa thuận được đưa ra sau nhiều tháng đàm phán giữa Google Pháp và các nhóm truyền thông, được đại diện bởi tổ chức vận động hành lang Alliance de la Presse d’Information Generale của Pháp.
Năm ngoái, gã khổng lồ tìm kiếm này cho biết rằng họ sẽ trả phí cho các nhà xuất bản tin tức, một sự thay đổi của gã khổng lồ internet mà trong nhiều năm đã từ chối làm như vậy.
Công ty này đã đồng ý với một loạt các giao dịch ban đầu ở Đức, Úc và Brazil, và hiện dường như đang mở rộng điều đó sang Pháp.
Nhưng khi Chính phủ Australia đề xuất một luật mới buộc Google và Facebook phải trả phí cho các nhà xuất bản tin tức để có quyền liên kết đến nội dung của họ, Google đã đe dọa rút công cụ tìm kiếm được sử dụng rộng rãi của mình khỏi đất nước này.
Ông Scott Morrison, Thủ tướng Úc nói trong một cuộc họp báo “chúng tôi sẽ không ngại đúng chạm với các mối đe dọa.”
Tham gia Cộng đồng We’re Marketer để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: Link
Theo HolonIQ, thị trường EdTech hay công nghệ giáo dục toàn cầu đang tăng trưởng 16,3% và sẽ tăng 2,5 lần từ năm 2019 đến năm 2025, đạt tổng chi tiêu toàn cầu là 404 tỷ USD.
Trên hết, dự kiến sẽ có hơn 100 công ty giáo dục có vốn hóa thị trường trên 1 tỷ USD vào năm 2025.
Dữ liệu xác nhận rằng thị trường EdTech có tiềm năng lớn và một trong những cách tốt nhất để phát triển công ty của bạn là thâm nhập vào các thị trường mới và mở rộng sự hiện diện kinh doanh của bạn.
Dưới đây là 07 mẹo bạn có thể tham khảo cho doanh nghiệp của mình (Phần 2).
5. Digital Marketing định hướng dữ liệu (Data-driven)
Nếu sử dụng marketing có trả phí, bạn nên thu thập càng nhiều điểm dữ liệu có liên quan càng tốt: đối tượng mục tiêu của bạn là ai, sở thích của họ là gì, kênh truyền thông họ sử dụng và các trang web họ hay truy cập.
Sau đó, bắt đầu chạy các chiến dịch của bạn và tối ưu hóa mọi giai đoạn của kênh bán hàng, đi từ đầu đến cuối kênh.
Về các kênh cụ thể, bạn nên sử dụng Facebook trước (dành cho các doanh nghiệp D2C) vì thuật toán của nó tiên tiến hơn nhiều và CPA trung bình thấp hơn so với Google Ads.
Trong mọi giai đoạn của kênh, bạn nên thu thập tương tác thông qua pixel (Facebook Pixel, TikTok Pixel), đăng ký, chuyển đổi, v.v. Khi bạn có đủ số lượng tương tác ở mỗi giai đoạn (lý tưởng là từ 500-1000n), bạn sẽ tiến hành tối ưu hóa từng bước.
Sau khi tiếp cận hơn 1.000 khách hàng tiềm năng, bạn tải tập dữ liệu lên Facebook và Instagram và cố gắng tìm những người tương tự để tối ưu hóa quy trình. (Thường mất 2-4 tuần để có được khách hàng chất lượng nhất).
Lưu ý rằng tại thời điểm này, bạn phải sẵn sàng mất tiền trong vài tháng vì bạn sẽ phải kiểm tra các giả thuyết của mình và thu thập các điểm dữ liệu về đối tượng của mình.
Hãy suy nghĩ theo cách này: nếu bạn không trả tiền cho khách hàng tiềm năng ngay lập tức, bạn đang trả tiền cho thông tin sẽ giúp bạn mang lại nhiều khách hàng tiềm năng hơn.
6. Độ nhận biết thương hiệu và điểm tin cậy
Đừng bao giờ đánh giá thấp tầm quan trọng của nhận thức về thương hiệu và việc tạo ra các điểm tin cậy vì chúng là chìa khóa để phù hợp với thị trường.
Khi bạn bước vào một thị trường mới, không ai biết về bạn, sản phẩm của bạn hoặc khái niệm của nó.
Đó là lý do tại sao bạn cần sử dụng đủ các kênh để nâng cao nhận thức về thương hiệu. Điều này có thể được thực hiện theo nhiều cách, bao gồm quan hệ đối tác địa phương, người có ảnh hưởng, PR, đại sứ địa phương và phản hồi trên trang web của bạn.
Điều này rất quan trọng vì những người bạn đang cố gắng để tiếp cận cần nhìn thấy bạn theo nhiều cách – cách lý tưởng là khi người khác giới thiệu bạn với họ.
Một cách tuyệt vời khác là khuyến khích mọi người cung cấp phản hồi trung thực và chân thành về sản phẩm của bạn.
7. Tăng trưởng tiềm năng
Có được những doanh số bán hàng ban đầu là rất tốt. Tuy nhiên, bạn phải ghi nhớ tốc độ mà bạn có thể phát triển trong thị trường này.
Bạn có thể tăng gấp ba ngân sách của mình, nhưng bạn cũng có thể thấy mình bị mắc kẹt ở bất kỳ thời điểm nào nếu thị trường chưa sẵn sàng.
Khi đang trong giai đoạn tăng trưởng, bạn nên ưu tiên các yếu tố giúp bạn phát triển với tốc độ cần thiết. Bạn nên chọn 1 quốc gia, 1 kênh và tăng gấp đôi ngân sách để xem nó diễn ra như thế nào.
Đừng mong đợi doanh số bán hàng trực tiếp ngay lập tức vì giai đoạn thích ứng có thể mất thời gian và hãy nhớ rằng nếu bạn đạt mức trần ở giai đoạn đầu, bạn có thể không tăng trưởng.
Đừng cố gắng hiểu thị trường một cách thụ động vì bạn sẽ không bao giờ có được lực kéo đáng kể ngay lập tức.
Nếu bạn hỏi tôi công thức chiến thắng là gì, tôi sẽ phải nói rằng đó là sự cởi mở và linh hoạt, một tư duy tăng trưởng đột phá và cuối cùng nhưng không kém phần quan trọng.
Đây là những chìa khóa để bạn có thể thâm nhập thị trường mới và xây dựng một sản phẩm toàn cầu thực sự.
Tham gia Cộng đồng We’re Marketer để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: Link
LinkedIn đang giới thiệu các kiểm soát cho từng bài đăng cho phép người dùng hạn chế ai có thể xem và nhận xét về chúng.
LinkedIn cung cấp cho người dùng khả năng kiểm soát những ai có thể xem và nhận xét trên các bài đăng riêng lẻ, cho phép chia sẻ nội dung với một số đối tượng được chọn.
Ngoài ra, những thay đổi sắp diễn ra sẽ cho phép người dùng điều chỉnh tùy chọn nội dung của họ trong nguồn cấp dữ liệu chính.
Dưới đây là thông tin chi tiết về mọi thứ được LinkedIn công bố ngày hôm nay.
Giới hạn đối tượng cho từng bài đăng riêng lẻ
Theo mặc định, các bài đăng trên LinkedIn được hiển thị bởi tất cả các kết nối và người theo dõi của người dùng, trừ khi họ đã thay đổi cài đặt hiển thị ở cấp tài khoản.
Giờ đây, người dùng có thể chỉ định đối tượng mà họ muốn tiếp cận khi tạo bài đăng.
Các giới hạn có thể được đặt ở cấp độ bài đăng, điều này cho phép người dùng linh hoạt chia sẻ bài đăng với mọi người và chia sẻ bài đăng khác đến các đối tượng cụ thể.
Khi tạo một bài đăng, người dùng có thể chọn người sẽ xem bài đăng đó bằng cách chọn từ các tùy chọn sau:
Bất kỳ ai: Bất kỳ người dùng web nào trên hoặc ngoài LinkedIn
Twitter: Chia sẻ với bất kỳ ai và cũng đăng lên Twitter
Kết nối: Những người bạn được kết nối trực tiếp trên LinkedIn
Thành viên nhóm: Thành viên của nhóm mà bạn tham gia
Sự kiện: Những người tham dự một sự kiện mà bạn trả lời
Dựa trên các ví dụ được cung cấp, dường như không có tùy chọn để tạo đối tượng tùy chỉnh cho bài đăng hoặc chế độ ‘only me’.
Giới hạn bình luận cho từng bài đăng riêng lẻ
Người dùng hiện có khả năng hạn chế nhận xét về các bài đăng công khai.
Khi tạo một bài đăng, người dùng có thể quyết định xem họ chỉ muốn các kết nối phản hồi hay mọi người có thể phản hồi. Ngoài ra còn có một tùy chọn để cho phép không ai phản hồi.
Điều này tương tự như cách hạn chế bình luận hoạt động trên Twitter, nơi tất cả người dùng có thể xem một tweet cụ thể nhưng không phải ai cũng có thể trả lời nó.
Việc hạn chế bình luận đôi khi có thể hữu ích khi có nội dung bạn muốn mọi người xem nhưng mong muốn nhận được phản hồi từ những người bạn biết và tin tưởng.
Những người không có quan hệ kết nối có thể phản ứng với bài đăng bằng cách thích hoặc chia sẻ bài đăng đó, tính năng bình luận sẽ bị hạn chế.
Cài đặt bình luận có thể được thay đổi bất kỳ lúc nào.
Quản lý nguồn cấp dữ liệu của riêng bạn
Người dùng LinkedIn hiện có nhiều quyền kiểm soát hơn đối với những gì họ muốn xem trong nguồn cấp dữ liệu chính với sự ra đời của các công cụ quản lý.
Người dùng có thể báo hiệu cho LinkedIn những gì họ muốn xem nhiều hơn hoặc ít hơn bằng cách nhấp vào biểu tượng menu ba chấm trên từng bài đăng.
Thao tác này sẽ mở ra một danh sách các cài đặt như trong ví dụ bên dưới.
Các cài đặt này phổ biến trên các ứng dụng như Facebook, Instagram và Twitter. LinkedIn hiện đang bắt kịp và cung cấp cho người dùng các tùy chọn tương tự.
Tham gia Cộng đồng We’re Marketer để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: Link
Sự tập trung vào quyền riêng tư và mối lo ngại về việc các ông lớn công nghệ biết quá nhiều về thói quen trực tuyến của mọi người đã đưa DuckDuckGo chạm đến cột mốc người dùng mới.
DuckDuckGo, cung cấp giải pháp tìm kiếm như Google nhưng đề cao quyền riêng tư của người dùng, đã đạt 102.251.307 truy vấn tìm kiếm vào ngày 11/1, đánh dấu lần đầu tiên công cụ tìm kiếm này vượt qua mốc 9 con số trong một ngày.
Công ty cho biết vào năm 2020, DuckDuckGo có tổng cộng hơn 1,5 tỷ truy vấn tìm kiếm. Các tìm kiếm hàng ngày đã tăng 62% vào năm ngoái, điều mà DuckDuckGo cho rằng sự gia tăng nhận thức về quyền riêng tư là động lực thúc đẩy điều này.
Trong vài năm qua, các gã khổng lồ công nghệ trực tuyến như Google, Facebook và nhiều công ty khác đã bị chỉ trích vì thu thập nhiều dữ liệu hơn mức họ cần và kiếm tiền từ người dùng bằng cách kết hợp thông tin thu thập được vào các hồ sơ ngày càng phức tạp.
Nó trở thành một cơ hội kinh doanh quan trọng cho các công ty, đó là lý do tại sao khi Apple thực hiện những động thái yêu cầu chính sách bảo mật của mạng quảng cáo trở nên minh bạch hơn đã vấp phải sự giận dữ từ Facebook.
DuckDuckGo ra mắt vào năm 2008 hoạt động bằng cách tổng hợp dữ liệu từ nhiều nguồn khác nhau cho kết quả tìm kiếm của mình nhưng cách xử lý dữ liệu người dùng lại khác.
Nhật ký tìm kiếm được lưu giữ nhưng không theo cách có thể nhận dạng cá nhân, trong khi địa chỉ IP và thông tin người dùng cũng không được lưu trữ. Mặc dù công ty chủ yếu dựa vào các quảng cáo tìm kiếm
Mặc dù công ty chủ yếu dựa vào các quảng cáo tìm kiếm dựa trên từ khóa nhưng lịch sử đó không được đối chiếu với các tìm kiếm khác mà người dùng có thể đã thực hiện.
Mặc dù không được biết đến rộng rãi như Google, Bing và các công cụ tìm kiếm khác nhưng DuckDuckGo vẫn nhận được sự quan tâm từ cộng đồng, đặc biệt khi nó có sẵn trên các chợ ứng dụng dành cho iOS lẫn Android.
Kamyl Bazbaz, Phó Chủ tịch phụ trách truyền thông của DuckDuckGo, chia sẻ: “Mọi người đến với chúng tôi vì họ muốn có nhiều quyền riêng tư hơn và nó thường lan truyền qua truyền miệng.
Mọi người đang tìm kiếm các giải pháp thay thế cho phương thức kinh doanh công nghệ giám sát”.
Trước đó, DuckDuckGo đã có những chỉ trích nhắm vào các công ty kinh doanh sản phẩm như loa thông minh và các thiết bị Internet of Things, thường có micro luôn lắng nghe và kết nối dữ liệu, bao gồm cả Alexa của Amazon.
DuckDuckGo lo ngại rằng người dùng đang giao dịch quá nhiều thông tin cá nhân để đổi lấy những thứ như dịch vụ trợ lý ảo.
Không chỉ DuckDuckGo, nhiều dịch vụ đề cao quyền riêng tư khác hiện cũng đang thu hút nhiều sự chú ý từ người dùng.
Gần đây, những lo ngại về việc WhatsApp chia sẻ dữ liệu trò chuyện với Facebook đã khiến hàng triệu người dùng tìm kiếm đến các công cụ khác cho hoạt động nhắn tin của họ, với Telegram và Signal báo cáo có lượng đăng ký mới tăng đáng kể./.
Tham gia Cộng đồng We’re Marketer để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: Link
Các công ty công nghệ đã tiết lộ chi tiêu vận động hành lang của họ cho quý 4 năm 2020, tiết lộ sự thay đổi lớn trong chi tiêu từ năm 2019 đến năm 2020.
Trong một năm, khi việc kiểm tra sức mạnh của các công ty công nghệ lớn trở thành chủ đề chính của chính phủ liên bang, 05 công ty lớn hàng đầu đã chi hàng triệu USD để vận động hành lang Quốc hội về các vấn đề từ bầu cử đến nhập cư.
Các công ty công nghệ đã tiết lộ chi tiêu vận động hành lang của họ cho quý 4 năm 2020, tiết lộ sự thay đổi lớn trong chi tiêu từ năm 2019 đến năm 2020.
Tuy nhiên, kết hợp lại, 05 công ty Big Tech gồm Amazon, Apple, Facebook, Google và Microsoft có chi tiêu ít hơn một chút vào Năm 2020 so với năm trước là 61,09 triệu USD, giảm 1,8%.
Vào năm 2020, tất cả các công ty đó ngoại trừ Microsoft đều bị tiểu ban Tư pháp Hạ viện thăm dò về chống độc quyền, kết luận rằng mỗi công ty đều nắm quyền độc quyền.
Facebook và Google đều đã chứng kiến các vụ kiện chống độc quyền mới từ các cơ quan thực thi liên bang, Amazon và Apple đều đang bị các cơ quan liên bang điều tra.
Trong khi đó, cuộc bầu cử và đại dịch đã đặt lên hàng đầu những câu hỏi khác về hoạt động của các công ty công nghệ, bao gồm cách họ kiểm duyệt nội dung, hiển thị quảng cáo và bảo vệ quyền riêng tư của người dùng.
Theo CNBC
Trong cả năm 2020, Facebook đã chi nhiều hơn bất kỳ công ty Big Tech nào khác ở mức 19,68 triệu USD. Chi phí này đã tăng chi tiêu vận động hành lang lên 17,8% so với năm 2019 khi Ủy ban Thương mại Liên bang và các vùng lãnh thổ khác đệ đơn khiếu nại chống độc quyền đối với công ty này.
Trong quý 4, Facebook đã vận động hành lang về các vấn đề bao gồm cải cách bản quyền, tính toàn vẹn của cuộc bầu cử, chính sách nội dung, nhập cư và chính sách thuế quốc tế.
Amazon đã chi nhiều thứ hai trong số các công ty cùng ngành của Big Tech vào năm 2020 với 17,86 triệu USD, tăng 10,7% so với năm trước.
Trong quý 4, Amazon đã vận động hành lang về các vấn đề bao gồm mở rộng băng thông, sở hữu trí tuệ, cải cách bưu chính, chăm sóc sức khỏe.
Đáng chú ý, Google đã chi ít hơn 36,2% cho vận động hành lang vào năm 2020 so với năm 2019, với tổng số tiền là 7,53 triệu USD.
Công ty này đã giảm chi tiêu vận động hành lang của mình hơn 44% từ năm 2018 đến năm 2019 khi giảm tải một số công ty vận động hành lang bên ngoài.
Trong quý 4 năm 2020, Google đã tham gia vào Quốc hội về các chủ đề bao gồm quy định quảng cáo trực tuyến, quyền riêng tư kỹ thuật số của sinh viên và luật cạnh tranh.
Chủ sở hữu TikTok ByteDance, một công ty Trung Quốc, đáng chú ý là đã tăng chi tiêu vào năm 2020 khi chính quyền Donald Trump cố gắng cấm ứng dụng này hoạt động ở Mỹ và yêu cầu bán TikTok cho một chủ sở hữu mới.
Tình trạng của nỗ lực đó vẫn đang chờ xử lý của tòa án, nhưng có thể chính quyền Biden có thể thực hiện một cách tiếp cận khác đối với doanh nghiệp này.
ByteDance chi ít hơn 300.000 USD trong năm, đã chi 2,58 triệu USD vào năm 2020 cho các nỗ lực của mình, tăng 855,6%. Ứng dụng này đã vận động hành lang về các vấn đề bao gồm dự luật cấm TikTok khỏi các thiết bị thuộc sở hữu của chính phủ, kiểm duyệt nội dung và thương mại.
Lyft cũng đã tăng chi tiêu vận động hành lang lên đáng kể lên mức 2,19 triệu USD vào năm 2020, tăng 135,5% so với năm trước.
Công ty là một phần của liên minh bao gồm Uber và DoorDash vận động hành lang để thông qua Dự luật 22 ở California, cho phép họ tiếp tục thuê tài xế với tư cách là người lao động độc lập chứ không phải nhân viên. Các biện pháp cuối cùng đã được thông qua.
Ở cấp liên bang, Lyft tập trung nỗ lực trong quý IV vào các vấn đề tương tự, bao gồm “tương lai của công việc và lợi ích di động”, các vấn đề về khai thuế cho các nhà thầu độc lập và phân loại công việc.
Uber cũng đã vận động hành lang về các vấn đề bao gồm “công việc linh hoạt”. Nhưng thực tế nó đã chi ít hơn một chút cho vận động hành lang liên bang trong năm nay so với năm 2019 là 2,33 triệu USD, giảm 1,3%.
Tham gia Cộng đồng We’re Marketer để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: Link
Facebook đang triển khai trang tổng quan cập nhật ‘Chất lượng tài khoản’ trong Trình quản lý doanh nghiệp, được thiết kế để giúp quản trị viên Trang và nhân viên hỗ trợ theo dõi bất kỳ quảng cáo bị tạm ngưng hoặc bài đăng bị ảnh hưởng nào do vi phạm quy tắc.
Như bạn có thể thấy, trang tổng quan mới cung cấp tổng quan về mọi vấn đề liền quan đến tài khoản của bạn có thể ảnh hưởng đến hiệu suất quảng cáo.
Theo mô tả tại đây, quản trị viên Trang có thể:
“Xem xét các tài khoản và nội dung gần đây nhất cần chú ý do không tuân thủ chính sách quảng cáo của chúng tôi hoặc các tiêu chuẩn khác.”
Bản thân màn hình không hoàn toàn mới – tab ‘Chất lượng Tài khoản’ đã có sẵn trong Trình quản lý doanh nghiệp một thời gian, trong khi người quản lý Trang cũng có thể xem danh sách các vấn đề tương tự trong Tab ‘Chất lượng Trang’ trong công cụ Trang kinh doanh của họ.
Danh sách ở đây có thể sẽ chứa thông tin giống như tab ‘Chất lượng trang’, tức cung cấp tổng quan đầy đủ về:
Các vi phạm tiêu chuẩn cộng đồng gần đây.
Nội dung do Trang của bạn chia sẻ đã được người kiểm tra thông tin của bên thứ ba đánh giá.
Vi phạm quyền sở hữu trí tuệ.
Nội dung do Trang của bạn chia sẻ đã được xác định là chiêu dụ.
Vi phạm vì chia sẻ quá nhiều nội dung từ các nguồn khác.
Sự kiện đang diễn ra.
Các tin tuyển dụng do Trang của bạn chia sẻ đã được xác định là gây hiểu lầm, lừa đảo hoặc gian lận.
Nội dung do Trang của bạn chia sẻ không đủ điều kiện để nhận đề xuất.
Mặc dù trọng tâm của tab mới này sẽ hướng đến quảng cáo nhiều hơn, điều đó có nghĩa là một số trong số này không được bao gồm.
Do thông tin này đã có sẵn, trang tổng quan được cập nhật không phải là một bản cập nhật lớn, nhưng nó sẽ giúp quản trị viên Trang dễ dàng nắm bắt các vấn đề về quảng cáo hơn một chút để giúp đảm bảo chiến dịch của họ được tối đa hóa, trong khi hiển thị và bố cục được cải thiện cũng sẽ giúp theo dõi các mối quan tâm dễ dàng hơn.
Tháng trước, Bloomberg báo cáo rằng nhiều nhà quảng cáo nhỏ đã phải đối mặt với những thách thức liên tục trong việc xử lý các hệ thống quảng cáo của Facebook, với mối lo ngại chính là thiếu công cụ hỗ trợ và việc tạm ngưng tài khoản tùy tiện hoặc không chính xác.
Theo giải thích của Bloomberg:
“Một phần lớn của vấn đề, theo các nhà quảng cáo Facebook, là công ty không có một bộ hệ thống dịch vụ khách hàng mạnh mẽ dành cho các nhà quảng cáo nhỏ hơn.
Facebook khoe rằng họ có 10 triệu nhà quảng cáo, nhưng phần lớn trong số họ không có người liên hệ thường xuyên để giải quyết các vấn đề.
Công ty cung cấp tính năng trò chuyện tự động cho các nhà quảng cáo, nhưng bạn cần có tài khoản Facebook đang hoạt động để sử dụng, điều đó có nghĩa là tính năng này không khả dụng cho những người dùng vô tình bị khóa.”
Bảng điều khiển theo dõi được cập nhật này có thể cung cấp cái nhìn tổng quan hơn về các mối quan tâm hiện có, nhưng nó sẽ không giải quyết vấn đề chính này – điều mà với 10 triệu nhà quảng cáo, Facebook gần như không thể khắc phục được, trong việc cung cấp hỗ trợ cá nhân trên quy mô lớn.
Nhưng có thể, bằng cách theo dõi các vấn đề tốt hơn, nó có thể giúp các doanh nghiệp luôn nhận biết để giải quyết nó một cách kịp thời hơn.
Tham gia Cộng đồng We’re Marketer để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: Link
Google dọa sẽ vô hiệu hóa công cụ tìm kiếm tại Australia nếu bị ép phải trả tiền tin tức cho các nhà xuất bản địa phương.
Trong phiên điều trần trước Quốc hội Australia hôm 22/1, Mel Silva, Giám đốc quản lý Google Australia và New Zealand, phản đối yêu cầu Google trả tiền cho các hãng thông tấn vì hiển thị một phần bài báo trên kết quả tìm kiếm.
Theo nhà chức trách, ít nhất 94% tìm kiếm trên mạng tại Australia đều thông qua Google.
Trả lời trước hội đồng nghị sỹ, bà Silva cho biết: “Nếu bộ quy tắc này trở thành luật, chúng tôi không còn lựa chọn nào khác ngoài dừng cung cấp Google Search tại Australia”. Bà miêu tả dự luật là “tiền lệ hoạt động và tài chính không thể chấp nhận được”.
Thủ tướng Australia Scott Morrison khẳng định: “Chúng tôi không phản hồi với các lời đe dọa. Australia tạo ra quy định cho những việc bạn có thể làm tại Australia. Nó do Quốc hội và Chính phủ của chúng tôi thực hiện. Đó là cách mà mọi thứ hoạt động tại Australia”.
Facebook, một công ty khác là đối tượng của dự luật, cũng lên tiếng phản đối. Tại phiên điều trần, mạng xã hội lặp lại ý định xem xét cấm người Australia chia sẻ tin tức trên nền tảng nếu dự luật được thông qua.
Dự luật của Australia được thiết kế nhằm hỗ trợ ngành công nghiệp truyền thông trong nước, vốn gặp khó khăn trong thích ứng với nền kinh tế số. Lập trường cứng rắn của Google hứng chịu sự chỉ trích của các nhà lập pháp tham dự điều trần.
Thượng Nghị sỹ Andrew Bragg tố cáo công ty cố gắng “tống tiền” người Australia và các nhà hoạch định chính sách.
Trong khi đó, hôm 21/1, Google vừa ký thỏa thuận với các nhà xuất bản Pháp sau khi nhà chức trách thúc giục công ty trả tiền nội dung.
Google đã ngừng hiển thị kết quả tìm kiếm của các nhà xuất bản châu Âu trên Google Search đối với người dùng Pháp từ năm 2020 để tuân thủ luật bản quyền.
Tham gia Cộng đồng We’re Marketer để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: Link
Mạng xã hội MeWe chứng kiến lượng thành viên tăng mạnh, khi nhiều người dùng trên thế giới tìm cách rời bỏ Facebook, Twitter, trong tuần qua.
Tại Mỹ, MeWe trở thành ứng dụng được tải về nhiều thứ 3, chỉ sau Signal và Telegram. Trong tuần trước, nền tảng này thu hút được 2,5 triệu thành viên mới, nâng số thành viên lên thành 15,5 triệu người, trong đó khoảng 50% là người dùng bên ngoài khu vực Bắc Mỹ.
MeWe hiện có giao diện với 20 thứ tiếng và đây cũng là ứng dụng được tải về nhiều nhất tại Hong Kong.
Theo Zdnet, người dùng tìm đến MeWe sau khi đã “phát ngán” với Facebook và Twitter. Hai nền tảng mạng xã hội nói trên liên tục vi phạm về quyền riêng tư , đồng thời bị đánh giá là là thiên vị chính trị, thao túng bảng tin của người dùng.
Trong khi đó, MeWe khi sinh ra đã được định vị là “mạng xã hội chống lại Facebook”. Nền tảng này được sáng lập và điều hành bởi Mark Weinstein, với sự cố vấn từ Tim Berners-Lee – người phát minh ra World Wide Web.
Đại diện MeWe tuyên bố mạng xã hội này sẽ có đầy đủ các tính năng mà người dùng yêu thích, đồng thời là mạng xã hội không quảng cáo, không nhắm thị trường mục tiêu, không thao túng bảng tin, cũng như không nhận dạng khuôn mặt hay khai thác dữ liệu.
Ra đời năm 2016, MeWe chứng kiến kiến sự tăng trưởng theo cấp số nhân, với lượng người dùng gấp đôi sau mỗi năm, trong ba năm liên tiếp. Hồi tháng 10/2020, mạng xã hội này đạt mốc 9 triệu người dùng, và đến nay, sau ba tháng, con số này tăng thêm hơn 70%.
Không thu thập dữ liệu người dùng và bán quảng cáo, nguồn thu của MeWe đến từ bán gói Premium. Trên App Store, các gói này cho người dùng Việt Nam có giá từ 22.000 đồng đến 119.000 đồng, để mở các tính năng như Dark Theme, Page, Secret Chat, Premium Promotion…
Theo đánh giá của các chuyên gia, với các gói trung bình giá 1,99 USD/tháng, MeWe hoàn toàn có thể cạnh tranh hiệu quả và thu hút người dùng trong năm 2021.
Người dùng mạng xã hội là những người mong muốn được tôn trọng như khách hàng, chấp nhận trả tiền để không phải xem quảng cáo cũng như có trang newsfeed không bị thao túng.
Tuy nhiên hiện tại, giao diện bảng tin của MeWe bị đánh giá là quá nhiều thông tin, khiến người dùng cần phải học cách tập trung vào những thông tin mình muốn xem.
Nền tảng này có thể cũng sắp phải đối mặt với thách thức mở rộng quy mô để đáp ứng nhu cầu khi người dùng tăng đột biến.
Tham gia Cộng đồng We’re Marketer để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: Link
Các tổ chức chống độc quyền từ Facebook và Google có thể có thêm một số động lực mới.
New York Times cho biết họ đã thu được tài liệu từ vụ kiện chống độc quyền của Texas trình bày chi tiết về thoả thuận mà Google đã trao cho Facebook vào năm 2018, điều bị cáo buộc là làm giảm cạnh tranh quảng cáo.
Có nickname là “Jedi Blue”, cho phép Facebook được ủng hộ trong việc đặt giá thầu tiêu đề quảng cáo, nơi các trang web có thể thu hút giá thầu không gian quảng cáo từ nhiều nền tảng cùng một lúc, đổi lại họ ủng hộ phương pháp đặt giá thầu mở của Google để bán những quảng cáo đó.
Các điều khoản đã mang lại cho Facebook những lợi thế vốn có, theo Times. Facebook có nhiều thời gian hơn để đặt giá thầu cho quảng cáo, giao dịch thanh toán trực tiếp với các trang web lưu trữ quảng cáo và sự trợ giúp từ Google để hiểu đối tượng quảng cáo.
Là một phần của thỏa thuận, Facebook cho biết họ sẽ đấu giá ít nhất 90% các cuộc đấu giá quảng cáo khi có thể xác định được người dùng và hứa hẹn mức chi tiêu tối thiểu lên đến 500 triệu USD mỗi năm.
Nó cũng yêu cầu Google tránh sử dụng thông tin giá thầu để làm lệch các phiên đấu giá quảng cáo có lợi cho mình.
Các đối tác quảng cáo khác của Google không kiếm được món hời gần như ngọt ngào này, theo các đối tác nói chuyện với tờ New York Times.
Đơn khiếu nại của Texas đã buộc tội Google đảm bảo một số chiến thắng quảng cáo cho Facebook và khiến các đối thủ gặp bất lợi. Phía Facebook và Google đã bác bỏ quan điểm cho rằng ‘Jedi Blue’ là phản cạnh tranh.
Người phát ngôn của Facebook tuyên bố rằng các giao dịch như vậy với Google “giúp tăng tính cạnh tranh” trong giá thầu quảng cáo và những lập luận ngược lại điều đó đều là “vô căn cứ”.
Trong khi đó, người phát ngôn của Google nói rằng vụ kiện của Texas “trình bày sai” thỏa thuận và các khía cạnh khác của hoạt động kinh doanh quảng cáo của nó.
Google đã xuất bản một bài đăng trên blog trình bày những phản đối của họ. Tuy nhiên, điều đó không nhất thiết phải làm lung lay các cơ quan quản lý và thậm chí còn có ý kiến cho rằng hai gã khổng lồ công nghệ đã nhận thức được tiềm năng bị giám sát.
Một điều khoản trong thỏa thuận yêu cầu cả hai “hợp tác và hỗ trợ” nếu có cuộc điều tra về hoạt động của họ và thỏa thuận đã đề cập đến “chống độc quyền” ít nhất 20 lần.
Tham gia Cộng đồng We’re Marketer để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: Link
Thổ Nhĩ Kỳ áp đặt lệnh cấm quảng cáo trên Twitter, Periscope và Pinterest do các nền tảng mạng xã hội này không chỉ định đại diện tại Thổ Nhĩ Kỳ theo quy định của luật mới.
Thổ Nhĩ Kỳ đã áp đặt lệnh cấm quảng cáo trên Twitter, Periscope và Pinterest do các nền tảng mạng xã hội này không chỉ định đại diện tại Thổ Nhĩ Kỳ theo quy định của luật mới.
Theo luật mới của Thổ Nhĩ Kỳ, các nền tảng mạng xã hội có hơn 1 triệu lượt người dùng phải chỉ định đại diện tại Thổ Nhĩ Kỳ phụ trách thực hiện các lệnh của tòa án.
Luật mới cho phép nhà chức trách dỡ bỏ các nội dung gây tranh cãi khỏi những nền tảng này thay vì chặn người dùng như trước đây.
Với quy định mới ban hành, Twitter, Periscope và Pinterest sẽ bị cấm quảng cáo ngay từ ngày 19/1.
Trong một tuyên bố đăng trên Twitter, Bộ Giao thông và Cơ sở hạ tầng Thổ Nhĩ Kỳ Omer Fatih Sayan cho biết băng thông của Twitter và Pinterest sẽ bị cắt giảm 50% trong tháng 4 và 90% trong tháng 5.
Ông khẳng định nhà chức trách Thổ Nhĩ Kỳ sẽ làm mọi điều cần thiết để bảo vệ dữ liệu, quyền riêng tư cũng như các quyền khác của đất nước, cũng như không cho phép việc vi phạm các quy định diễn ra ở nước này.
Hiện các nền tảng xã hội trên chưa đưa ra bình luận nào về thông tin trên. Tháng trước, Twitter cho biết sẽ đóng ứng dụng Periscope của mạng xã hội này do lượng người dùng giảm.
Tháng 11/2019, Thổ Nhĩ Kỳ thông báo phạt Facebook, Instagram, Twitter, Periscope, YouTube và TikTok 10 triệu lira (1,2 triệu USD) vì không chỉ định đại diện tại quốc gia này.
Chính quyền Ankara cũng quy định các công ty này nếu không mở các văn phòng đại diện tại Thổ Nhĩ Kỳ trong vòng 1 tháng thì khoản phạt tăng thêm 30 triệu lira và bị cấm quảng cáo nếu tiếp tục vi phạm tới đầu tháng 1/2021.
Trong trường hợp các nền tảng xã hội này vẫn không thực hiện yêu cầu của nhà chức trách sau 3 tháng kể từ thời điểm bị cấm quảng cáo thì sẽ bị giảm 50% băng thông, tiến tới giảm tối đa 90%.
Ngày 18/1 vừa qua, Facebook và các công ty khác cho biết sẽ cử đại diện tại Thổ Nhĩ Kỳ. Trước đó, YouTube cũng tuyên bố sẽ tuân thủ luật mới của Thổ Nhĩ Kỳ.
Tổng thống Thổ Nhĩ Kỳ Tayyip Erdogan thường xuyên sử dụng mạng xã hội và có tới 17 triệu lượt người theo dõi. Ông đã nhiều lần cảnh báo sẽ cấm hoạt động tại Thổ Nhĩ Kỳ đối với những trang mạng cho đăng tải những thông tin không phù hợp.
Tham gia Cộng đồng We’re Marketer để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: Link
Việc Facebook ngầm bắt tay với Google đang làm các tập đoàn công nghệ lo ngại. Những ông lớn có thể xây dựng một liên minh để độc bá thị trường quảng cáo trực tuyến.
Trong thị trường quảng cáo trực tuyến, khi các công ty muốn hiển thị quảng cáo trên trang web, họ phải tổ chức một phiên đấu thầu vị trí (trên website, bộ máy tìm kiếm…).
Công ty nào đưa ra mức giá cao nhất, quảng cáo của họ sẽ được hiển thị. Ước tính đến năm 2016, hơn 70% nhà đầu tư đã áp dụng phương thức này.
Google đang là dịch vụ thương mại thống trị đa phần máy chủ và sàn giao dịch quảng cáo trên thế giới. Vì vậy, số tiền tại hầu hết phiên đấu thầu đều chạy vào “túi” của ông lớn này.
Năm 2017, Facebook nổi lên như một đối thủ thách thức sự thống trị của Google trong thị trường quảng cáo trực tuyến. Công ty này cho biết họ đang thử nghiệm một phương thức đấu thầu quảng cáo mới với mục tiêu dẫn đầu thị trường.
Tuy nhiên, chưa đầy hai năm sau, Facebook bất ngờ hủy bỏ dự án của mình không rõ lý do.
Sau đó, những CEO đang hợp tác với Google đã đưa đơn khiếu nại về việc Facebook đang mua quảng cáo trên YouTube với giá rẻ hơn.
Những tài liệu từ văn phòng Bộ trưởng Tư pháp cho thấy, Google đang có những “đặc quyền” dành cho Facebook. Điều này khiến các nhà quảng cáo khác đặt ra nghi vấn Google ưu ái Facebook hơn để đổi lại mạng xã hội này không cạnh tranh nền tảng quảng cáo với họ.
Giao dịch bí mật giữa Facebook và Google khiến các tập đoàn lớn không khỏi lo ngại. Họ sợ rằng cả 2 ông lớn này sẽ cùng nhau độc chiếm giao dịch tại các phiên thầu giá quảng cáo, quyết định người thắng cuộc trong thị trường dịch vụ và chi phối các sản phẩm công nghệ.
Trước những cáo buộc trên, Google và Facebook khẳng định các giao dịch tương tự rất phổ biến trong ngành quảng cáo và chúng không cản trở cạnh tranh.
“Đây là những cáo buộc sai sự thật, hoạt động kinh doanh quảng cáo của chúng tôi còn liên quan đến nhiều khía cạnh. Facebook là một trong nhiều công ty tham gia vào chương trình do Google tổ chức và tất cả đều bình đẳng”, Julie Tarallo McAlister, đại diện phát ngôn của Google, cho biết.
Quảng cáo kỹ thuật số không còn là “chiếc bánh” chung
Theo Wall Street Journal, sự gia tăng của các vụ kiện chống độc quyền nhằm vào Google và Facebook đã khiến những giao dịch ngầm giữa các Big Tech rơi vào tầm ngắm của giới truyền thông.
Vào tháng 10/2020, Bộ Tư pháp đã kiện Google vì một thỏa thuận với Apple. Cụ thể, Google đã yêu cầu Apple để công cụ tìm kiếm của họ xuất hiện ưu tiên trên iPhone và các thiết bị khác.
“Các nền tảng công nghệ lớn đang liên minh với nhau, điều này sẽ củng cố sức mạnh độc quyền của họ trên thị trường”, Sally Hubbard, cựu trợ lý của Bộ trưởng Tư pháp tại Cục Cạnh tranh New York, hiện làm việc tại Tổ chức Thị trường mở cho biết.
Đến năm 2019, tổng doanh thu quảng cáo của Google và Facebook đã chiếm hơn một nửa thị phần. Phần lớn quảng cáo được hiển thị trên các nền tảng như công cụ tìm kiếm Google và trang chủ của Facebook.
Trước đây, Facebook từng gọi Google là bên “chỉ biết độc chiếm và ngụy tạo sự thật”. Ám chỉ việc Google đang thống lĩnh sàn đấu giá tại hậu hết công ty quảng cáo. Tuy nhiên, trước những thử thách phải chi hàng tỷ đô, thuê hàng trăm kỹ sư để cạnh tranh với Google, Facebook đã chọn ký vào thỏa thuận.
Những nhà đầu tư cho biết họ vui mừng khi Facebook trở thành đối thủ của Google. Họ sẵn sàng hợp tác với Facebook để đưa ra những chính sách thỏa đáng hơn nhằm cạnh tranh với Google Ads. Tuy nhiên, hy vọng của họ đã bị dập tắt.
Theo đơn khiếu nại, Google đã cho Facebook quyền được đấu giá trực tiếp với các chủ trang web. Bên cạnh đó, Google còn cung cấp cho Facebook thông tin của 80% người dùng di động và 60% người dùng web.
Đối với những đối tác khác, Google sẽ kiểm soát thông tin về giá cả, che giấu số tiền mà các trang web trúng thầu nhận được, nhằm cản trở các phiên giao dịch.
Nghiêm trọng nhất, tuyên bố trong đơn khiếu nại đã cáo buộc cả 2 công ty này tự ý quyết định tỷ lệ thắng thầu quảng cáo cố định của Facebook.
Điều này có nghĩa không cần là người đưa ra mức giá cao nhất, Facebook vẫn thắng thầu với tỉ lệ có trước. Nhiều đối tác của Google cho biết họ không nhận được sự trợ giúp tương tự.
“Facebook đang tham gia vào một cuộc đua, nhưng họ đã ở sẵn vạch đích”, Adam Heimlich, CEO của Chalice Custom Algorithm, công ty tư vấn tiếp thị và dữ liệu khoa học, chia sẻ.
Tham gia Cộng đồng We’re Marketer để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: Link