Skip to main content

Thẻ: Bán lẻ

Doanh thu của Masan sẽ đạt mức 100.000 tỷ nhờ 3 chiến lược mới

Về kế hoạch năm 2023, doanh thu thuần hợp nhất dự kiến của Masan sẽ đạt mức từ 90.000 tỷ đồng đến 100.000 tỷ đồng, tăng trưởng lần lượt 18% và 31% so với mức 76.189 tỷ đồng vào năm 2022. Lợi nhuận sau thuế dự kiến khoảng 4.000 tỷ đồng và 5.000 tỷ đồng, đạt tốc độ tăng trưởng từ 4% đến 30% so với mức 3.852 tỷ đồng vào năm 2022.

doanh thu của masan
Doanh thu của Masan sẽ đạt mức 100.000 tỷ nhờ 3 chiến lược mới

Ngày 24/4, tại TPHCM, Công ty CP Tập đoàn Masan (HOSE: MSN) và hai công ty con Masan Consumer, Masan MEATLife đồng tổ chức đại hội đồng cổ đông thường niên năm 2023 với chủ đề “Consumer of Things – Kết nối vạn nhu cầu”.

Đại hội đã mang đến cho các cổ đông, đối tác và khách hàng của Masan cái nhìn tổng quan về hệ sinh thái độc đáo Tiêu dùng – Bán lẻ – Công nghệ của doanh nghiệp hướng tới mục tiêu gia tăng hiệu suất chuỗi giá trị tiêu dùng và phục vụ các nhu cầu liên tục thay đổi của người tiêu dùng Việt Nam một cách toàn diện hơn.

Phát biểu tại đây, ông Nguyễn Đăng Quang, Chủ tịch HĐQT Masan Group chia sẻ: “Năm 2022, Masan đã thay đổi tư duy cả về những điều chúng tôi đang làm và cách định vị chính mình. Đó là trở thành một công ty dịch vụ, trải nghiệm và thấu hiểu người tiêu dùng”.

Còn ông Danny Lê, Tổng Giám đốc Tập đoàn Masan cho biết, Masan sẽ phát triển nền tảng đa kênh, cung cấp thông tin, sản phẩm, dịch vụ và trải nghiệm, từ đó, đáp ứng vạn nhu cầu của khách hàng.

Tổng Giám đốc Tập đoàn Masan chỉ ra mô hình tăng trưởng của Masan gắn liền với việc hợp nhất mạng lưới và người tiêu dùng offline, số hóa và “trực tuyến hóa” người tiêu dùng tại các điểm chạm offline. Từ đó giúp mở rộng danh mục sản phẩm & dịch vụ để phục vụ người tiêu dùng.

Động cơ tăng trưởng chiến lược của Masan dựa trên ba trụ cột chính: Tăng trưởng mạng lưới, tăng trưởng hội viên và tăng trưởng thị phần chi tiêu.

Ba trụ cột này được củng cố bởi dịch vụ hậu cần xuyên suốt trên toàn quốc để giao hàng hóa cho người tiêu dùng mọi lúc, mọi nơi một cách kịp thời, tiết kiệm chi phí nhất. Trí tuệ nhân tạo (AI) và công nghệ là nền tảng giúp vận hành mạng lưới thương mại thông minh hơn, và tự động hơn với quy mô ngày càng lớn.

Năm 2022, Masan đạt nhiều cột mốc quan trọng. Cụ thể, về mạng lưới, tập trung phát triển cửa hàng bán lẻ hiện đại (Modern Retail), mở gần 2 cửa hàng mỗi ngày, giúp tăng thị phần mạng lưới siêu thị mini & CVS (cửa hàng tiện lợi) của Masan từ 40% vào năm 2021 lên gần 50% vào năm 2022.

Masan cũng đồng thời phát triển mô hình bán lẻ hiện đại mang tính đột phá, cửa hàng WIN, để củng cố mạng lưới và mở rộng quy mô giỏ hàng. Khái niệm trung tâm mua sắm mini này đã mở rộng giỏ hàng tiêu dùng từ 25% lên 68% với tạp hóa, F&B, chăm sóc sức khỏe, dịch vụ tài chính,…

Chương trình hội viên WIN cho phép Masan thiết lập kết nối trực tiếp với các thành viên của mình dù họ có ở cửa hàng hay không. Bên cạnh đó, các chi phí thu hút khách hàng thấp hơn nhiều so với các nền tảng khác trên thị trường.

Đây chính là bản chất của mô hình online to offline của Masan – số hóa để phục vụ người tiêu dùng tại các điểm offline với chi phí thu hút khách hàng thấp hơn và không tốn thêm chi phí  khuyến mãi thông thường.

Lộ trình tăng trưởng của Masan trong giai đoạn 2023 – 2025 vẫn được giữ vững với việc tiếp tục tập trung vào ba động lực tăng trưởng cốt lõi của công ty.

Theo đó, với kế hoạch tăng trưởng mạng lưới, Masan đặt mục tiêu chiếm lĩnh thị phần bán lẻ hiện đại MT & hợp tác với bán lẻ truyền thống GT để phục vụ 30 – 50 triệu hội viên WIN.

Tăng quy mô hội viên WIN ở cả offline và online lên 30-50 triệu; tận dụng mạng lưới online to offline, Masan đặt mục tiêu có 10 triệu thành viên vào năm 2023 và 30 triệu thành viên vào năm 2025. Masan cũng đặt mục tiêu cung cấp khả năng tiếp cận dịch vụ ngân hàng cho 5 triệu người tiêu dùng chưa được phục vụ đầy đủ trong vài năm tới.

Tại đại hội, ông Trương Công Thắng, Tổng giám đốc Masan Consumer, cho biết, tầm nhìn của Masan Consumer sẽ đưa 3 thương hiệu ra thế giới: Chin-su, Omachi và Vinacafe. Đến năm 2027, hoạt động kinh doanh thị trường toàn cầu sẽ đóng góp 15% tổng doanh thu của Masan Consumer Holdings.

Tổng Giám đốc của WinCommerce Nguyễn Thị Phương đưa ra lộ trình mở mạng lưới cửa hàng tạp hóa của WinCommerce: Để giành được thị phần cả ở thành thị và nông thôn, WinCommerce đã phát triển mô hình cửa hàng đa dạng để phục vụ các phân khúc người tiêu dùng từ trung thượng lưu đến đại chúng, từ thành thị đến nông thôn, và từ nhu cầu mua sắm hàng ngày đến các dịp họp mặt gia đình.

Trải nghiệm của khách hàng sẽ là điểm khác biệt chính của WinCommerce, công ty đang hợp tác với chuyên gia thiết kế cửa hàng Malherbe có trụ sở tại Paris để cải tiến hình ảnh của các siêu thị, minimart.

Ngoài ra, WinCommerce cũng đã đơn giản hóa, số hóa và tự động hóa hệ thống hoạt động để chuẩn bị cho việc mở rộng mạng lưới lên đến 10.000 cửa hàng.

Về kế hoạch năm 2023, Masan dự kiến doanh thu thuần hợp nhất đạt từ 90.000 tỷ đồng đến 100.000 tỷ đồng, tăng trưởng lần lượt 18% và 31% so với mức 76.189 tỷ đồng vào năm 2022. Lợi nhuận sau thuế dự kiến khoảng 4.000 tỷ đồng và 5.000 tỷ đồng, đạt tốc độ tăng trưởng từ 4% đến 30% so với mức 3.852 tỷ đồng vào năm 2022.

Kịch bản không thuận lợi, trong đó các điều kiện vĩ mô khó khăn hơn dự kiến và tâm lý thắt chặt tiêu dùng vẫn tồn tại, dự kiến lợi nhuận các mảng hàng đầu sẽ tăng từ 10% đến 15%.

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer

Hà Anh  | MarketingTrips   

Đế chế bán lẻ Bed Bath & Beyond nộp đơn phá sản

Nhà bán lẻ trực tuyến lẫn tại cửa hàng Bed Bath & Beyond có trụ sở tại Mỹ, vốn được mệnh danh là “cửa hàng có mọi thứ trong nhà của bạn” được thành lập từ năm 1971, đã nộp đơn xin phá sản.

Đế chế bán lẻ Bed Bath & Beyond nộp đơn phá sản
Đế chế bán lẻ Bed Bath & Beyond nộp đơn phá sản

Theo thông báo từ chính website của nhà bán lẻ, Bed Bath & Beyond viết: “Cảm ơn tất cả các khách hàng trung thành của chúng tôi. Chúng tôi đã phải đưa ra một quyết định khó khăn đó là bắt đầu thu hẹp hoạt động của mình.”

Tất cả các cửa hàng Bed Bath & Beyond và buybuy BABY vẫn sẽ vẫn mở cửa phục vụ cho đến khi có thông báo mới.

Bed Bath & Beyond là một trong số những công ty bán lẻ lâu đời có trụ sở tại Mỹ, được thành lập từ năm 1971 và hiện có khoảng 14.000 nhân viên tại các văn phòng ở một số quốc gia như Mỹ, Canada, hay Mexico.

Công ty này cho biết hiện họ sẽ tìm cách bán một phần hoặc toàn bộ hoạt động kinh doanh của mình. Nếu có thể tìm được người mua, Bed Bath & Beyond sẽ tạm dừng việc đóng cửa hàng. Nhưng nếu mọi thứ không thuận lợi, Bed Bath & Beyond có thể sẽ bị thanh lý hoàn toàn và ngừng kinh doanh.

Trước khi lâm vào trình trạng khó khăn như hiện tại, Bed Bath & Beyond từng là viên ngọc quý, là đế chế trong ngành hàng bán lẻ, với nhiều thương hiệu nổi tiếng.

Vốn được mệnh danh là “cửa hàng bán mọi thứ trong nhà của bạn”, Bed Bath & Beyond bán tất cả các sản phẩm gia dụng từ xoong nồi, khăn tắm đến giường ngủ. Các phiếu giảm giá của Bed Bath & Beyond đã trở thành một biểu tượng của văn hóa đại chúng tại Mỹ.

Trong hồ sơ phá sản, Bed Bath & Beyond cho biết nhà bán lẻ này hiện có khoản nợ 5,2 tỷ USD và tài sản ở mức 4,4 tỷ USD.

Kỷ nguyên của các siêu thị.

Được thành lập vào năm 1971 bởi Warren Eisenberg và Leonard Feinstein, với tên gọi ban đầu là Bed ‘n Bath, nhà bán lẻ này tập trung bán các sản phẩm giường ngủ có thiết kế, một xu hướng mới vào thời điểm đó. Khác với các cửa hàng bách hóa hay siêu thị khác, Bed ‘n Bath không dựa vào các sự kiện giảm giá để thu hút khách hàng.

Công ty đổi tên thành Bed Bath & Beyond vào năm 1987 với định hướng mới là sẽ bán nhiều danh mục sản phẩm hơn. Bed Bath & Beyond trở nên phổ biến vào những năm 1992 với 38 cửa hàng và doanh thu khoảng 200 triệu USD.

Đến năm 2000, số lượng cửa hàng đã tăng vọt lên con số 241 và doanh thu hàng năm đạt mức 1,1 tỷ USD, tức tăng hơn 500% so với năm 1992. Cửa hàng Bed Bath & Beyond thứ 1.000 được khai trương vào năm 2009, khi chuỗi đạt doanh thu hàng năm là 7,8 tỷ USD.

Không giống như nhiều nhà bán lẻ khác, Bed Bath & Beyond đầu tư rất ít ngân sách cho hoạt động quảng cáo, thay vào đó dựa vào các phiếu giảm giá được phát định kỳ trên các tờ báo tuần để thu hút khách hàng.

Làn sóng mua sắm trực tuyến.

Mặc dù là đế chế tỷ đô, nhưng khi các cửa hàng truyền thống bắt đầu nhường chỗ cho thương mại điện tử (e-commerce), Bed Bath & Beyond đã gặp phải khó khăn lớn khi chậm chân trong cuộc đua chuyển đổi số.

Nhà sáng lập của nhà bán lẻ này cho biết: “Chúng tôi đã bỏ lỡ con thuyền trên internet.”

Mua sắm trực tuyến theo đó cũng làm giảm sức hấp dẫn đối với các phiếu giảm giá vốn được người tiêu dùng rất yêu thích từ Bed Bath & Beyond, người tiêu dùng có thể tìm thấy nhiều lựa chọn thay thế rẻ hơn trên Amazon hoặc các nền tảng thương mại điện tử khác.

Tuy nhiên, không chỉ Amazon và mua sắm trực tuyến đã đánh chìm Bed Bath & Beyond.

Những cái tên như Walmart (WMT), Target (TGT) và Costco (COST) cũng đã phát triển không ngừng trong nhiều năm qua và đã giành lấy tập khách hàng của Bed Bath & Beyond với mức giá tốt hơn và nhiều chủng loại sản phẩm hơn.

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer

Hà Anh  | MarketingTrips   

Tương lai của ngành Bán lẻ: Top các xu hướng toàn cầu 2023

Google vừa công bố báo cáo mới, nêu bật tương lai của ngành bán lẻ (Retail) sẽ được định hình bởi 5 xu hướng chính.

Tương lai của ngành Bán lẻ: Top các xu hướng toàn cầu 2023
Tương lai của ngành Bán lẻ: Top các xu hướng toàn cầu 2023

Trong những năm vừa qua, nếu có một điều gì đó đáng nhớ nhất đã dạy cho các nhà bán lẻ, thì đó chính là cách duy trì khả năng phục hồi trong một môi trường kinh tế đầy biến động, trong thế giới VUCA.

Trong khi mọi thứ vẫn còn ở phía trước, sứ mệnh của Google là giúp các nhà bán lẻ và thương hiệu vượt qua những thời điểm bất ổn. Dưới đây là các xu hướng mua sắm chính sẽ định hình ngành bán lẻ trong năm 2023 và những năm tới.

Mua sắm đã trở thành một trải nghiệm đa chiều.

Người tiêu dùng ngày nay liên tục di chuyển trên các nền tảng kỹ thuật số, vật lý, ảo và cả mạng xã hội trong suốt quá trình tìm kiếm sản phẩm, nghiên cứu và mua hàng.

Hành vi mua sắm đa kênh (Omni Channel) này sẽ tiếp tục phát triển khi người tiêu dùng có xu hướng chuyển từ tìm kiếm một sản phẩm cụ thể trên một kênh cụ thể trong một khoảng thời gian xác định, sang trải nghiệm đa kênh, đa chiều.

Mọi người sẽ không ngừng khám phá các sản phẩm và dịch vụ mới trong khi vẫn “lướt” xem nội dung trên các nền tảng mạng xã hội như Facebook hay TikTok, khi xem video phát trực tuyến (streaming) và khi chơi trò chơi điện tử (Game).

Điều này có nghĩa là, tương lai của ngành bán lẻ sẽ liên quan ít hơn đến việc nghiên cứu xem mọi người đang chọn kênh nào để tương tác, thay vào đó, doanh nghiệp cần quan tâm nhiều hơn đến mức độ gần gũi với người tiêu dùng, những nơi họ đang dành thời gian, những nơi diễn ra nhu cầu, khám phá, lựa chọn và tiêu dùng.

Những người mua sắm trẻ tuổi có khả năng mua sắm nhiều hơn từ 2 đến 3 lần thông qua các phương tiện truyền thông mới nổi.

Trong thế giới bán lẻ mới, ranh giới giữa cái gọi là thương mại (Commerce) và Nội dung (Content) sẽ ngày càng trở nên mờ nhạt hơn.

Các trải nghiệm được hỗ trợ bởi thực tế tăng cường (AR) và thực tế ảo (VR), cùng với các video có thể mua được, sẽ trở nên có ưu thế hơn hơn khi nhu cầu của người tiêu dùng đối với những trải nghiệm mua sắm có hỗ trợ công nghệ (tech-enabled shopping) tăng lên.

Những người mua sắm trẻ tuổi hiện là những người có khả năng chấp nhận xu hướng này cao nhất: Họ có khả năng mua sắm trên các phương tiện truyền thông mới nổi như mạng xã hội hay phát trực tiếp cao hơn gấp 2 đến 3 lần.

Để có thể truyền tải đúng thông điệp tới đúng khách hàng. Những người làm marketing nên dựa nhiều hơn vào AI (Trí tuệ nhân tạo) để duy trì sự nhanh nhẹn và thích ứng nhanh chóng với những thay đổi liên tục trong điểm tiếp xúc kênh (Touchpoints).

Các giải pháp như Performance Max Campaigns được hỗ trợ bởi AI của Google có thể cung cấp các giải pháp giúp nhà quảng cáo tối đa hóa hiệu suất trên tất cả các kênh của Google.

Khi lòng trung thành với thương hiệu ngày càng trở nên mờ nhạt, mối quan hệ đối tác lại trở nên có giá trị.

Lòng trung thành với thương hiệu (Brand Loyalty) sẽ ngày càng trở nên ít có giá trị hơn khi người mua sắm dần hình thành ý thức lựa chọn các doanh nghiệp và sản phẩm phù hợp hơn với các giá trị và nhu cầu cá nhân của họ.

Theo một số liệu nghiên cứu, kỳ vọng của người tiêu dùng xung quanh việc cá nhân hóa đang tăng lên, với 73% người mua sắm mong đợi các thương hiệu hiểu được nhu cầu và kỳ vọng riêng của họ.

Các nhà bán lẻ và thương hiệu nếu muốn có tỷ lệ giữ chân khách hàng tốt hơn nên đổi mới cách họ tương tác với khách hàng thông qua mối quan hệ đối tác và cộng tác.

Theo Allied Market Research, thị trường trực tuyến sẽ chiếm 45% đến 50% chi tiêu trực tuyến vào năm 2025.

Con số này nhấn mạnh lý do tại sao các nhà bán lẻ cần tìm kiếm các đối tác phù hợp có thể giúp họ tạo ra sự khác biệt và mang đến cho khách hàng những trải nghiệm mua sắm tốt hơn trong tương lai.

Gen Z là động lực mua sắm mới.

Gen Z hiện chiếm gần 30% tổng dân số toàn cầu và được dự báo rằng nhóm người tiêu dùng này sẽ chiếm khoảng 27% lực lượng lao động vào năm 2025.

Gen Z là thế hệ đầu tiên được nuôi dạy hoàn toàn trong thế giới kỹ thuật số (Digital Natives), dành nhiều thời gian trực tuyến hơn bất kỳ thế hệ nào khác như Gen X và Gen Y.

Các nhà bán lẻ cần thu hút các thói quen và sở thích cụ thể của Gen Z, chẳng hạn như cách họ tìm kiếm thông tin đầu vào từ các nguồn hay kênh trực tuyến đáng tin cậy.

Có đến 46% người tiêu dùng toàn cầu đã mua các sản phẩm trực tuyến thông qua thương mại phát trực tiếp (livestream commerce), nơi những người có ảnh hưởng (Influencer) vẫn thường tổ chức các buổi phát trực tiếp (live-streaming).

Thế hệ Z cho biết 42% chi tiêu của họ vẫn diễn ra thông qua các cửa hàng vật lý, so với Thế hệ Y (millennials) là khoảng 38%.

Để có thể tối đa hoá trải nghiệm mua sắm và doanh số, các nhà bán lẻ sẽ cần phải tạo ra những trải nghiệm mua sắm đa kênh và liền mạch hơn, từ việc tận dụng yếu tố kỹ thuật số tại cửa hàng để nâng cao trải nghiệm, đến các trải nghiệm mua sắm kiểu mới trên các nền tảng kỹ thuật số.

Người tiêu dùng có ý thức muốn nhận nhiều giá trị hơn và ít rủi ro hơn.

Sau nhiều năm bất ổn về kinh tế, sau những sự kiện như lạm phát hay suy thoái, người mua sắm đã trở nên có ý thức hơn về giá trị.

Trên thực tế, một nghiên cứu gần đây của Google đã chỉ ra rằng việc truyền tải những lợi ích của việc mua sắm chẳng hạn như giao hàng nhanh và đổi trả miễn phí, có thể có sức ảnh hưởng gần giống như việc giảm giá sản phẩm.

Kỳ vọng của người tiêu dùng cao hơn cũng đi kèm với sự xem xét kỹ lưỡng hơn đối với dữ liệu cá nhân. Theo Kantar’s Global Monitor, 79% người tiêu dùng toàn cầu cho biết họ đang lo ngại về chính sách bảo vệ dữ liệu và quyền riêng tư trên internet, và 72% tin rằng họ rất hoặc phần nào gặp rủi ro từ những doanh nghiệp lạm dụng dữ liệu cá nhân của họ.

Một yêu cầu đặt ra cho các thương hiệu hay marketer đó là, hãy tìm cách để thể hiện sự đảm bảo và minh bạch về cách họ thu thập dữ liệu hay cách dữ liệu của người tiêu dùng được sử dụng.

Khi sự bất ổn tục diễn ra trong một môi trường bán lẻ đầy biến động, các nhà bán lẻ và thương hiệu cần luôn linh hoạt và sẵn sàng cho tương lai bằng cách thích ứng với các trải nghiệm mua sắm đa chiều, hình thành mối quan hệ đối tác với người tiêu dùng, nỗ lực để thu hút người mua sắm Gen Z và cung cấp cho họ nhiều hơn giá trị (ít rủi ro hơn).

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer

Hà Anh  | MarketingTrips   

Thị trường F&B 2023: Số lượng cửa hàng Trà Sữa giảm, Cà Phê lại tăng

Vượt qua 2 năm khó khăn bởi ảnh hưởng của đại dịch Covid-19, những thương hiệu thức ăn và đồ uống (F&B) còn trụ lại trên thị trường đã tìm cách mở rộng số lượng cửa hàng, phát triển thị phần.

Thị trường F&B 2023: Số lượng cửa hàng Trà Sữa giảm, Cà Phê lại tăng
Thị trường F&B 2023: Số lượng cửa hàng Trà Sữa giảm, Cà Phê lại tăng

Cuộc cạnh tranh giữa các thương hiệu đồ uống càng thêm tăng nhiệt trong mùa nóng, khi chuỗi cà phê đang chiếm ưu thế so với chuỗi trà sữa qua việc liên tục mở thêm các cửa hàng mới.

Số lượng cửa hàng cà phê tăng lên nhanh chóng nhờ sự mở rộng mạnh mẽ của các thương hiệu Highlands, Phúc Long, Trung Nguyên E-Coffee.

Trong khi đó, số lượng cửa hàng trà sữa lại giảm mạnh thời gian qua, theo báo cáo Xu hướng cửa hàng bán lẻ hiện đại Việt Nam 2023 của Q&Me.

Thị trường F&B 2023: Số lượng cửa hàng Trà Sữa giảm, Cà Phê lại tăng
Thị trường F&B 2023: Số lượng cửa hàng Trà Sữa giảm, Cà Phê lại tăng

Từ năm 2019 đến năm 2023, số lượng cửa hàng cà phê đã tăng từ 816 lên 1.657 cửa hàng. Chỉ riêng trong 2 năm gần đây, từ tháng 3-2021 đến tháng 2-2023, 3 chuỗi cà phê dẫn đầu thị phần (Market Share) là Highlands Coffee, Phúc Long và Starbucks đã khai trương hơn 1.000 điểm bán.

Trong khi đó, số lượng cửa hàng trà sữa trong 4 năm qua không có nhiều biến động, thậm chí còn giảm từ 446 xuống còn 364 cửa hàng.

Theo Q&Me, các quán trà sữa từng là trào lưu vài năm trước nhưng giờ đây đã chững lại khi các chuỗi cà phê lớn phát triển thực đơn phong phú hơn.

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer

Hà Anh  | MarketingTrips   

Top 10 ngành hàng giúp tạo ra nhiều tỷ phú nhất năm 2023

Theo số liệu mới đây từ Forbes, năm 2023 cũng có một số thay đổi đáng kể về thứ tự của các tỷ phú gắn liền với từng ngành nghề kinh doanh cụ thể. Dưới đây là Top 10 ngành hàng giúp tạo ra nhiều tỷ phú nhất năm 2023.

Top 10 ngành hàng giúp tạo ra nhiều tỷ phú nhất năm 2023
Top 10 ngành hàng giúp tạo ra nhiều tỷ phú nhất năm 2023

Từ tài chính, công nghệ, thời trang đến thực phẩm và đồ uống, là những ngành nghề kinh doanh “ăn nên làm ra” nhất năm 2023.

Dưới đây là 10 ngành công nghiệp tạo ra nhiều tỷ phú nhất vào năm 2023:

#1. Tài chính & Đầu tư.

372 tỷ phú | 14% danh sách
Giàu nhất: Warren Buffett (106 tỷ USD), chủ tịch kiêm CEO của Berkshire Hathaway.

#2. Chế tạo (Sản xuất).

324 tỷ phú | 12% danh sách
Giàu nhất: Reinhold Wuerth & gia đình (29,7 tỷ USD), chủ tịch hãng sản xuất ốc vít và dây buộc Wuerth Group.

#3. Công nghệ.

313 tỷ phú | 12% danh sách
Giàu nhất: Jeff Bezos (114 tỷ USD), nhà sáng lập Amazon, chủ sở hữu của tờ Washington Post và công ty tên lửa Blue Origin.

#4. Bán lẻ thời trang (Retail & Fashion).

266 tỷ phú | 10% danh sách

Giàu nhất: Bernard Arnault & gia đình (211 tỷ USD), chủ tịch kiêm giám đốc điều hành của công ty hàng xa xỉ LVMH (sở hữu các thương hiệu đình đám như Louis Vuitton, Dior…) và là người giàu nhất thế giới (tính đến hiện tại).

#5. Thực phẩm & Đồ uống (F&B).

212 tỷ phú | 8% danh sách
Giàu nhất: Zhong Shanshan (68 tỷ USD), chủ tịch công ty nước đóng chai Nongfu Spring.

#6. Chăm sóc sức khỏe (Healthcare).

201 tỷ phú | 8% danh sách
Giàu nhất: Cyrus Poonawalla (22,6 tỷ USD), người sáng lập Viện Huyết thanh Ấn Độ, nhà sản xuất vắc xin lớn nhất thế giới (tính theo liều lượng).

#7. Bất động sản.

193 tỷ phú | 7% danh sách
Giàu nhất: Donald Bren (17,4 tỷ USD), chủ tịch công ty bất động sản Irvine Co.

#số 8. Đa ngành..

187 tỷ phú | 7% danh sách
Giàu nhất: Mukesh Ambani (83,4 tỷ USD), chủ tịch Reliance Industries, chuyên kinh doanh hóa dầu, dầu khí, bán lẻ và viễn thông.

#9. Năng lượng.

100 tỷ phú | 4% danh sách
Giàu nhất: George Kaiser (13,3 tỷ USD), người tiếp quản Công ty Dầu mỏ Kaiser-Francis của gia đình vào những năm 1960.

10. Truyền thông & Giải trí.

91 tỷ phú, 3% trong danh sách
Giàu nhất: Michael Bloomberg (94,5 tỷ USD), đồng sáng lập công ty truyền thông và thông tin tài chính Bloomberg LP.

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer

Hà Anh  | MarketingTrips   

Quản trị giá bán trên thương mại điện tử nhìn từ “Case” Dược phẩm Hoa Linh

Phân phối trên sàn thương mại điện tử và mạng xã hội hiện được xem là những xu hướng phát triển bắt buộc của ngành bán lẻ. Tuy nhiên, đi kèm với đó, các doanh nghiệp đang gặp rất nhiều khó khăn trong việc quản trị giá trên những kênh này, theo ghi nhận của giải pháp phân tích dữ liệu thương mại điện tử YouNet ECI.

Mới đây, một sự kiện bán hàng phát trực tiếp (livestream) trên TikTok – sự hợp tác giữa Dược phẩm Hoa Linh với sản phẩm dầu gội Nguyên Xuân và Võ Hà Linh, một người nổi tiếng vì các clip đánh giá, nhận xét các sản phẩm mỹ phẩm, đã thu hút lượng lớn sự quan tâm, khi các kỷ lục mới về lượt xem được thiết lập.

Theo số liệu lắng nghe mạng xã hội (social listening) do YouNet Group thu thập, chỉ trong 3 ngày 3, 4, 5 tháng 4 đã xuất hiện hơn 35.100 thảo luận về thương hiệu dầu gội Nguyên Xuân trên các nền tảng mạng xã hội, tăng gấp 46 lần so với 3 ngày liền trước đó.

Xét về mặt tạo sự chú ý trên mạng xã hội, livestream này có thể xem là một thành công. Tuy nhiên, YouNet Group cũng ghi nhận có 36,6% trong 35.100 thảo luận này mang xu hướng tiêu cực, chủ yếu xoay quanh vấn đề chính sách giá của doanh nghiệp.

Điều này gióng lên một hồi chuông cảnh báo cho các doanh nghiệp về tầm quan trọng của việc xây dựng và tuân thủ chính sách giá bán lẻ trên kênh thương mại điện tử (eCommerce).

Chính sách giá bán lẻ (retail pricing policy) được xây dựng dựa trên định vị và vai trò của từng kênh trong mô hình phân phối. Trong đó, đảm bảo tỷ suất lợi nhuận giữa các kênh và giữ vững mức độ cạnh tranh với các nhãn hàng đối thủ là các yếu tố quan trọng.

Phần tảng băng chìm của chính sách giá bán lẻ là những hoạt động kiểm tra, giám sát và điều chỉnh giá bán liên tục của nhà sản xuất nhằm đảm bảo các đối tác tuân thủ khung giá bán lẻ.

Ông Nguyễn Phương Lâm, Giám đốc Bộ phận Market Insights – giải pháp YouNet ECI, nhấn mạnh: “Mỗi ngày hệ thống của YouNet ECI đang soát xét trung bình 100 – 150 triệu sản phẩm trên hai sàn Shopee và Lazada.

Số lượng sản phẩm cực lớn này trên các sàn đang khiến cho các hoạt động kiểm tra, giám sát giá bán của các doanh nghiệp gặp không ít trở ngại.”

Thực tế, trong quá trình thu thập và phân tích số liệu giá bán và doanh thu của các sàn TMĐT, giải pháp phân tích dữ liệu TMĐT của YouNet – YouNet Ecommerce Intelligence (YouNet ECI) phát hiện nhiều trường hợp phá giá diễn ra trên kênh trực tuyến.

Điển hình là trường hợp của dòng sản phẩm sữa bột công thức X. Trong thời gian tháng 10/2022, YouNet ECI ghi nhận một gian hàng mall trên sàn Shopee đăng bán dòng sản phẩm X với mức giá giảm sâu 35% trên giá bán lẻ chính thức.

Với một mức giá quá hấp dẫn so với mức ưu đãi trung bình 7,7% của thị trường, một mình gian hàng này chiếm 65% thị phần doanh thu tháng của toàn dòng sản phẩm X.

YouNet ECI ghi nhận tình trạng tương tự xảy ra ở nhiều thương hiệu khác, đặc biệt thường thấy ở các ngành hàng tiêu dùng nhanh hoặc hàng thiết yếu.

Ông Lâm giải thích thêm: “Việc mở một gian hàng trên sàn TMĐT hoặc trên mạng xã hội đơn giản hơn nhiều so với mở một cửa hàng offline.

Ví dụ chỉ một ngành hàng sữa rửa mặt, trung bình một tháng đã có gần 6.000 gian hàng phát sinh doanh thu và 800.000 sản phẩm bán trên 2 sàn Lazada và Shopee, 90% trong đó là các nhà bán hàng tự do (online sellers). Điều này tạo ra nhiều khó khăn cho các nhãn hàng trong việc kiểm soát và điều chỉnh giá kịp thời”.

“Thêm nữa, khác với kênh truyền thống, giá bán trên kênh trực tuyến có thể thay đổi rất nhanh. Chỉ với vài thao tác là một chương trình ưu đãi cực kỳ hấp dẫn đã có thể tiếp cận được hàng trăm ngàn khách hàng, đặc biệt trong mùa “Siêu Sale”.

Những điều kiện đặc biệt này đang dẫn đến thực trạng bán phá giá ngoài tầm kiểm soát của doanh nghiệp trên kênh TMĐT.

Hệ lụy nhiều mặt.

Việc giảm giá sâu so với mặt bằng chung tuy mang lại hiệu quả doanh thu trong ngắn hạn, nhưng về lâu dài có thể dẫn đến nhiều hệ lụy cho nhãn hàng.

Theo ông Lâm, dễ thấy nhất là nguy cơ gây ảnh hưởng đến “mức giá kỳ vọng” và thói quen mua sắm của người tiêu dùng trên TMĐT.

Khách hàng sau khi mua được giá giảm sâu sẽ mang tâm lý chờ khuyến mãi, hoặc thậm chí thấy giá bán bình thường của sản phẩm là quá đắt.

Trong trường hợp của dòng sản phẩm sữa bột X, tháng 12/2022, sau khi quay trở lại mức giá bình thường thì theo ghi nhận của YouNet ECI, GMV trên sàn Shopee của dòng sản phẩm này giảm 34,7% so với tháng 10 (dù tháng 12 có sự kiện Siêu Sale 12/12).

Hệ lụy thứ hai là gây ra tình trạng backdoor sale (bán hàng không qua kênh chính thống). Một ví dụ cụ thể là nhãn hàng nước rửa tay Y tung ra dòng sản phẩm dung tích lớn giá ưu đãi dành riêng cho đối tác nhà hàng khách sạn. Nhưng sau một thời gian, YouNet ECI phát hiện dòng sản phẩm này bị các đối tác đưa lên bán trên sàn TMĐT với giá cực rẻ.

Trên bề nổi, doanh số của dòng sản phẩm tăng vọt trong thời gian ngắn, nhưng về thực chất, sức mua và lợi nhuận của nhãn hàng Y bị sụt giảm do khách hàng đã tích trữ được số lượng lớn sản phẩm giá rẻ nhờ kênh TMĐT.

Hệ lụy thứ ba là giá bán bất hợp lý tạo ra mâu thuẫn giữa các kênh phân phối.

“Giảm giá quá sâu trên TMĐT làm giảm doanh thu của các đối tác bán lẻ truyền thống, gây ảnh hưởng đến mối quan hệ hợp tác lâu dài giữa nhà sản xuất và các đối tác.

Nghiêm trọng hơn nữa là dẫn đến cuộc chiến về giá giữa các kênh, làm tổn thương hình ảnh của thương hiệu (Brand Image)”, ông Lâm cho biết.

Giải pháp.

Theo vị chuyên gia, giải pháp căn cơ trong ngắn hạn đối với các doanh nghiệp là phải có biện pháp phát hiện được các hành vi bán phá giá trên kênh TMĐT.

Nếu đơn thuần kiểm tra bằng sức người (như đối với kênh bán lẻ truyền thống), thì đây gần như là một yêu cầu bất khả thi do tính chất rộng lớn và thay đổi cực nhanh của sàn TMĐT.

“Đây là chỗ mà một giải pháp phân tích dữ liệu TMĐT sử dụng các công nghệ trí tuệ nhân tạo (AI) và dữ liệu lớn (big data) sẽ phát huy sức mạnh.

Một giải pháp như vậy sẽ có khả năng liên tục quét và phân tích chiến lược giá bán trên tất cả các kênh TMĐT và ngay lập tức báo động cho nhãn hàng nếu phát hiện mức ưu đãi vượt quá khung giá quy định”, ông Lâm nhận định.

Tuy nhiên, về dài hạn, TMĐT Việt Nam cần hướng đến một tư duy bán lẻ hiện đại và bền vững hơn, tránh lạm dụng các chương trình “Giảm giá sốc”, “Giảm giá dọn kho”. Thay vào đó, thu hút và giữ chân khách hàng bằng sự tiện lợi cao, dịch vụ khách hàng tốt.

Một dấu hiệu tích cực là theo dữ liệu của YouNet ECI, trên Shopee và Lazada, có 62,4% GMV ngành hàng sữa bột trẻ em trong thời gian cuối năm 2022 là đến từ các ngày không có sự kiện Siêu Sale. Điều này có nghĩa rằng ngành hàng sữa bột trẻ em hiện đã xây dựng được một tập khách hàng trung thành, mua sắm thường xuyên.

Để tiếp tục giữ chân và phát triển tập khách hàng này, các thương hiệu cần chú ý cải thiện trải nghiệm mua sắm trực tuyến bao gồm chất lượng dịch vụ khách hàng, thời gian vận chuyển và cơ cấu danh mục sản phẩm bày bán, YouNet ECI kết luận.

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer

Hà Anh  | Theo The Leader

Thương hiệu cần tận dụng AI để tăng hiệu quả chuỗi bán hàng đa kênh

Nhằm thích ứng nhanh chóng với những thay đổi của thị trường, các doanh nghiệp bán lẻ đã tận dụng những giải pháp công nghệ như AI để cắt giảm chi phí vận hành cũng như tối đa hóa chi phí hàng hóa và dịch vụ.

Tận dụng AI để tăng hiệu quả chuỗi bán hàng đa kênh
Tận dụng AI để tăng hiệu quả chuỗi bán hàng đa kênh

Người tiêu dùng nói chung thường “nhạy cảm” với giá cả. Đặc biệt, trong bối cảnh giá dịch vụ và hàng hóa liên tục biến động, người tiêu dùng sẽ thường xuyên tìm kiếm các phương cách tiết kiệm, so sánh giá cả giữa các cửa hàng hoặc kênh bán hàng để có được mức giá tốt nhất.

Đơn cử như sau vài lần giá xăng dầu lập “đỉnh”, nhiều nền tảng cung cấp dịch vụ giao hàng đã tăng phí dẫn đến những thay đổi về cách thức mua sắm.

Người tiêu dùng có xu hướng quay lại với hình thức mua sắm trực tiếp tại các cửa hàng tiện lợi (Convenience Store) hoặc siêu thị, vậy nên việc trữ một lượng hàng tồn kho lớn ở mức chi phí phải chăng trở nên rất cần thiết.

Nhằm thích ứng nhanh chóng với những thay đổi trên và cả những thay đổi khác nữa, các doanh nghiệp bán lẻ đã tận dụng những giải pháp công nghệ như tự động hóa (robotic), máy học (machine learning) và trí tuệ nhân tạo (AI) để cắt giảm chi phí vận hành cũng như tối đa hóa chi phí hàng hóa và dịch vụ.

Các công nghệ này có thể cung cấp dữ liệu khách quan với độ chính xác cao để giảm thiểu tác động của gián đoạn thị trường đến các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.

AI giúp dự đoán ảnh hưởng của những yếu tố tác động đến nhu cầu tiêu dùng như khuyến mãi, giá cả, cách thức trưng bày hàng hóa và dữ liệu thời tiết để đưa ra những dự đoán nhu cầu chính xác và tối ưu hóa quá trình bổ sung hàng hóa.

Trong hoạt động vận hành bán lẻ, điều này cũng giúp nhà bán lẻ điều phối nhân sự hiệu quả hơn cũng như tránh được nhiều thất thoát đối với những hàng hóa bán chậm.

Trong khi lượng khách hàng mua sắm trực tiếp tại các cửa hàng được dự đoán sẽ tăng, các kênh bán hàng trực tuyến vẫn sẽ chiếm tỷ lệ quan trọng nhờ sự tiện lợi cùng các ưu đãi về giá thông qua các chiến dịch quảng cáo kỹ thuật số (Digital Ads).

Với việc nhu cầu bán hàng đa kênh (Omni Channel) gia tăng, các hãng bán lẻ tập trung đồng bộ hóa giữa thương mại điện tử và các cửa hàng truyền thống, bắt đầu tiến hành quản lý các mô hình này như một thể thống nhất và liền mạch.

Sự chuyển đổi này là nhiệm vụ đòi hỏi nhiều nguồn lực, yêu cầu cao về độ chính xác, cần có dữ liệu trong thời gian thực để có thể đáp ứng được mong đợi của người tiêu dùng; do đó việc các thương hiệu bán lẻ tích hợp các giải pháp được phát triển dựa trên công nghệ AI và tự động hóa là vô cùng cần thiết.

Các công cụ phù hợp sẽ giúp đảm bảo quản lý hiệu quả đơn đặt hàng trực tuyến từ các cửa hàng, đơn hàng dự trữ (backorder), hỗ trợ hiệu quả cho việc dự đoán cũng như lên kế hoạch về hàng tồn kho, thậm chí cả khi hàng hóa bị buộc phải chuyển hướng giữa các trung tâm thực hiện đơn hàng.

Nếu các nhà bán lẻ bị hết hàng, họ có thể mất đi doanh số và thậm chí cả khách hàng. Mức độ hiệu quả của hoạt động bổ sung hàng hóa là hết sức quan trọng trong việc đảm bảo sự hài lòng của khách hàng và duy trì lợi nhuận.

Một nghiên cứu gần đây của RELEX Solutions – công ty đi đầu trong lĩnh vực quản trị chuỗi cung ứng toàn cầu chỉ ra rằng gần 50% các nhà bán lẻ không nắm bắt được số lượng hàng hóa trong mỗi cửa hàng. Điều này cho thấy, lỗ hổng trong cách tiếp cận việc quản lý đơn đặt hàng từ các cửa hàng để đạt được sự chính xác và hiệu quả.

Để luôn là lựa chọn hàng đầu của khách hàng, các nhà bán lẻ cần phải ưu tiên phát triển hệ thống bổ sung đơn hàng hiệu quả, có thể đáp ứng nhu cầu của khách hàng mà không tốn nhiều tài nguyên.

Với việc khách hàng có thể mua sắm ở bất cứ đâu và bất cứ khi nào, công nghệ AI và máy học giúp các thương hiệu duy trì số lượng hàng hóa phù hợp trong kho, dự đoán các thay đổi về nhu cầu và điều chỉnh việc bổ sung đơn hàng, nhằm thúc đẩy cải thiện dịch vụ, doanh thu cùng với mức độ hài lòng của khách hàng.

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer

Hà Anh  | MarketingTrips   

Xu hướng tiêu dùng năm 2023 và cách phản hồi của doanh nghiệp FMCG

Xanh hóa hoạt động sản xuất kinh doanh là mục tiêu không thể tách rời với các cam kết phát triển bền vững của các doanh nghiệp ngành hàng tiêu dùng nhanh (FMCG).

Xu hướng tiêu dùng năm 2023 và cách phản hồi của doanh nghiệp FMCG
Xu hướng tiêu dùng năm 2023 và cách phản hồi của doanh nghiệp FMCG

Xu hướng tiêu dùng và phản ứng của doanh nghiệp.

Thế giới tiếp tục phải đối mặt với nhiều thách thức trong năm 2023. Nền kinh tế toàn cầu bắt đầu có dấu hiệu suy thoái.

Người tiêu dùng đang điều chỉnh chi tiêu để dự phòng cho một giai đoạn đầy khó khăn phía trước khi tối đa hóa giá trị của mọi thứ và tiêu tiền khôn ngoan hơn, nhưng vẫn dành nhiều sự quan tâm cho những doanh nghiệp tạo ra tác động tích cực cho con người, xã hội và môi trường bởi người tiêu dùng ngày càng nhận thức rõ hơn về vai trò của phát triển bền vững.

Theo một chia sẻ trên Tạp chí Forbes, tính bền vững là một trong năm xu hướng nổi bật của xu hướng tiêu dùng trong năm 2023 là việc nhận thức của người tiêu dùng đang ngày được nâng cao.

Một báo cáo cho thấy 82% người mua hàng, chiếm phần lớn trong đó là thế hệ Gen Z, mong muốn các thương hiệu thực hiện những hoạt động bền vững và đặt con người làm ưu tiên hàng đầu.

Tại Việt Nam, một doanh nghiệp đã tương đối thành công khi nắm bắt xu hướng trên là Unilever Việt Nam.

Theo đó, doanh nghiệp này đã phát triển và đưa ra thị trường các sản phẩm với chất lượng và giá cả phù hợp cho người tiêu dùng thông qua nhiều kênh phân phối như cửa hàng bán lẻ, kênh bán hàng số trực tiếp đến người tiêu dùng (digital direct-to-consumers), thương mại điện tử, bán hàng đa kênh (omni channel)…

Ngoài ra, doanh nghiệp này cũng đẩy mạnh việc đổi mới sản phẩm nhằm tạo ra những tác động tích cực hơn với con người và hành tinh, cũng như thúc đẩy một loạt các chương trình phát triển bền vững trong hoạt động kinh doanh tại Việt Nam, với sự tham gia của các nhãn hàng theo đuổi mục tiêu bền vững.

Các chương trình này tập trung vào quản lý rác thải nhựa, giảm phát thải carbon, cải thiện sức khỏe và sự hạnh phúc cho mọi người, cũng như trao quyền cho phụ nữ vì một xã hội hòa nhập.

Có thể dẫn chứng ví dụ tại mảng kinh doanh các sản phẩm chăm sóc nhà cửa của doanh nghiệp này đang ghi nhận sự tăng trưởng mạnh mẽ khi chương trình Tương lai Xanh được triển khai. Chương trình này nhằm mang đến cho người tiêu dùng những sản phẩm hiệu suất cao, và có tác động tích cực hơn đến môi trường.

Cơ hội và thách thức trong năm 2023.

Thực tế cho thấy xanh hóa hoạt động sản xuất kinh doanh là mục tiêu không thể tách rời với các cam kết phát triển bền vững của các doanh nghiệp. Theo các chuyên gia, Mô hình Kinh tế Tuần hoàn sẽ là động lực chính để công ty thực hiện mục tiêu đưa nhựa vào vòng tuần hoàn.

Tuy nhiên, vẫn còn rất nhiều việc mà khối công và tư cần phải thúc đẩy hơn nữa để hiện thực hóa những mục tiêu phát triển ưu tiên tính bền vững.

Một trong những thách thức lớn nhất chính là nhựa, và việc xây dựng vòng tuần hoàn của nhựa. Đây không chỉ là vấn đề về ý thức của người dân trong phân loại, thu gom rác thải nhựa, mà còn là vấn đề về tính đồng bộ và hoàn chỉnh của hệ thống phân loại và thu gom rác thải trên toàn quốc.

Thực tế triển khai triển khai các chương trình thu gom, phân loại rác vì cộng đồng mà các doanh nghiệp đang tham gia vẫn còn nhiều thách thức. Chẳng hạn như chương trình tuyên truyền, vận động phân loại rác tại nguồn của Unilever Việt Nam, dù người dân đã nhận thức được vai trò của việc phân loại rác tại nguồn.

Tuy nhiên, mặc dù họ đã phân loại rác tại nhà, nhưng tất cả các loại rác đều được thu gom vào một thùng duy nhất sau đó – điều này chủ yếu là do sự phát triển không nhất quán của hệ thống quản lý rác thải nhựa.

Do đó, những thách thức cần được giải quyết không chỉ là nâng cao nhận thức của người dân và biến nhận thức đó thành hành động, mà còn cần thiết lập một hệ thống về phân loại rác tại nguồn và thu gom rác thải nhựa để đưa nhựa trở lại nền kinh tế và tạo ra một vòng tuần hoàn nhựa.

Điều này đòi hỏi sự hợp tác từ Chính phủ, các tổ chức và doanh nghiệp để xây dựng một tương lai không có rác thải nhựa ra môi trường.

Thời gian qua, cũng đã có một số mô hình kết hợp công tư trong việc bảo vệ môi trường như mô hình Hợp tác Công – Tư do Bộ Tài nguyên & Môi trường và Unilever Việt Nam khởi xướng là một trong những sáng kiến tiên phong đặt nền tảng và tạo điều kiện hiện thực hóa tầm nhìn này.

Bà Lê Thị Hồng Nhi, Giám đốc Truyền thông và Đối ngoại Unilever Việt Nam chia sẻ: “Chúng ta thường cho rằng phải đánh đổi giữa phát triển bền vững và hiệu quả kinh doanh. Tuy nhiên, chúng tôi có niềm tin mãnh liệt rằng mô hình kinh doanh bền vững có thể thúc đẩy hiệu suất kinh doanh vượt trội.

Người tiêu dùng có xu hướng ủng hộ và mua sản phẩm từ các thương hiệu tạo ra tác động tích cực đến xã hội và môi trường. Hướng tới phát triển bền vững cũng thúc đẩy doanh nghiệp tăng cường cải tiến sản phẩm không chỉ góp phần vào mục tiêu bền vững mà còn đảm bảo chất lượng và nâng cao giá trị của sản phẩm.

Ngoài ra, về lâu dài, mô hình kinh doanh bền vững có thể giúp doanh nghiệp tiết kiệm chi phí, điển hình là cắt giảm chi phí năng lượng.

Doanh nghiệp theo đuổi mô hình phát triển bền vững sẽ tạo được động lực và niềm tin cho nhân viên của mình, duy trì và thu hút được nhân tài – đặc biệt là những người trẻ tài năng – mong muốn phát triển sự nghiệp tại các công ty có tầm nhìn và mục đích tốt đẹp, nơi họ có thể tạo ra tác động tích cực đến môi trường, xã hội và con người.”

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer

Theo Lê Sáng | Markettimes

Hàng tiêu dùng nhanh (FMCG) là gì? Gồm những mặt hàng nào?

Trong phạm vi bài viết này, chúng ta sẽ cùng tìm hiểu một số thông tin về thuật ngữ hàng tiêu dùng nhanh (FMCG) như: hàng tiêu dùng nhanh là gì, ngành hàng tiêu dùng nhanh bao gồm những mặt hàng nào và hơn thế nữa.

Hàng tiêu dùng nhanh là gì
Hàng tiêu dùng nhanh (FMCG) là gì? Gồm những mặt hàng nào?

Với giá trị thị trường (Market Size) được dự kiến sẽ vượt mức 15000 tỷ USD vào năm 2025 và tăng thêm hơn 300 tỷ USD trong giai đoạn từ 2022 đến 2026, ngành hàng tiêu dùng nhanh (FMCG) được xem là một trong những ngành hàng có giá trị lớn nhất toàn cầu.

Các nội dung sẽ được MarketingTrips phân tích trong bài bao gồm:

  • Hàng tiêu dùng nhanh là gì?
  • Hàng hoá đóng gói là gì?
  • Sự khác biệt giữa hàng tiêu dùng nhanh và hàng hoá đóng gói là gì?
  • Sự khác biệt giữa hàng tiêu dùng nhanh và bán lẻ là gì?
  • Một số lưu ý về khái niệm hàng tiêu dùng nhanh mà bạn nên hiểu.
  • Mô hình hàng tiêu dùng nhanh là gì?
  • Thuật ngữ hàng tiêu dùng nhanh nên được hiểu như thế nào.
  • Các kiểu hay danh mục hàng tiêu dùng nhanh chính là gì?
  • Ngành công nghiệp hàng tiêu dùng nhanh.
  • Toàn cảnh về thị trường hàng tiêu dùng nhanh tại Việt Nam.
  • Mối quan hệ giữa hàng tiêu dùng nhanh và thương mại điện tử là gì?
  • Hàng tiêu dùng nhanh trong bức tranh lớn hơn là hàng hoá tiêu dùng.
  • Các doanh nghiệp hay thương hiệu có giá trị nhất toàn cầu trong ngành hàng hàng tiêu dùng nhanh.
  • Một số câu hỏi thường gặp liên quan đến ngành hàng hàng tiêu dùng nhanh là gì?

Bên dưới là nội dung chi tiết.

Hàng tiêu dùng nhanh là gì?

Hàng tiêu dùng nhanh hoặc ngành hàng hoá tiêu dùng nhanh trong tiếng Anh có nghĩa là FMCG, thuật ngữ đề cập đến các sản phẩm được bán hay tiêu thụ trong một khoảng thời gian tương đối ngắn với chi phí thấp.

Thông thường, các sản phẩm thuộc hàng tiêu dùng nhanh có thời hạn sử dụng tương đối ngắn do nhu cầu của người tiêu dùng cao hoặc vì chúng dễ hư hỏng.

Vì bản chất là những mặt hàng được mua thường xuyên, tiêu thụ nhanh (hàng ngày), giá bán thấp và được bán với số lượng lớn, các sản phẩm thuộc ngành hàng tiêu dùng nhanh có doanh số rất cao.

Các sản phẩm thuộc ngành hàng tiêu dùng nhanh chủ yếu được phân phối tại những nơi mà người tiêu dùng tiện mua sắm chẳng hạn như các cửa hàng tạp hoá, siêu thị, chợ (truyền thống), hay các cửa hàng tiện lợi.

Theo thống kê từ Statista, dung lượng thị trường của ngành hàng tiêu dùng nhanh sẽ đạt giá trị khoảng hơn 15000 tỷ USD vào năm 2025 và tăng thêm hơn 300 tỷ USD trong giai đoạn từ 2022 đến 2026.

Hàng hoá đóng gói là gì?

Hàng hoá đóng gói (CPG), có nghĩa là hàng hoá đóng gói tiêu dùng hoặc hàng đóng gói tiêu dùng, khái niệm đề cập đến các sản phẩm mà người tiêu dùng mua sắm thường xuyên như mỹ phẩm, quần áo, đồ ăn hay thức uống.

Sự khác biệt giữa hàng tiêu dùng nhanh và hàng hoá đóng gói là gì?

Trong khi cả hàng tiêu dùng nhanh và hàng đóng gói đều là những thuật ngữ đề cập đến các hàng hoá được tiêu dùng (Consumer Goods) một cách thường xuyên và với giá bán thấp, giữa chúng cũng có những sự khác biệt nhất định. Vậy sự khác biệt lớn nhất giữa hàng tiêu dùng nhanh và hàng đóng gói là gì?

Hàng tiêu dùng nhanh là một tập con của hàng hoá đóng gói.

Về mặt tổng thể, hàng hoá đóng gói hay hàng đóng gói mang ý nghĩa bao quát hơn và bao gồm luôn cả hàng tiêu dùng nhanh.

Trong khi hàng đóng gói, tức hàng tiêu dùng đóng gói bao gồm tất cả các sản phẩm được người tiêu dùng tiêu thụ một cách thường xuyên với số lượng lớn, hàng tiêu dùng nhanh chỉ bao hàm các sản phẩm được tiêu thụ nhanh.

Mức tiêu thụ nhanh (rất nhanh) và chậm chính là sự khác biệt lớn nhất giữa các sản phẩm thuộc hàng tiêu dùng nhanh và hàng hoá đóng gói.

Ví dụ: Trong khi bạn có thể mua khẩu trang một cách thường xuyên nhưng lại không mua nó hàng ngày, ngược lại, các sản phẩm như giấy vệ sinh hay kem đánh răng bạn cần sử dụng hàng ngày.

Khẩu trang chính là sản phẩm thuộc hàng đóng gói còn kem đánh răng hay giấy vệ sinh lại thuộc ngành hàng tiêu dùng nhanh.

Hàng tiêu dùng nhanh và hàng đóng gói khác nhau về cách đạt được doanh số bán hàng.

Ở khía cạnh người làm marketing và kinh doanh, một sự khác biệt khác giữa các sản phẩm thuộc hàng tiêu dùng nhanh và hàng đóng gói đó là vì các sản phẩm tiêu dùng nhanh được tiêu thụ nhanh hơn và thường xuyên hơn, số lượng các sản phẩm được bán cũng như cách đạt được doanh số sẽ dễ dàng hơn so với các sản phẩm đóng gói tiêu dùng.

Sự khác biệt giữa ngành hàng tiêu dùng nhanh và bán lẻ là gì?

Sự khác biệt giữa hàng tiêu dùng nhanh và bán lẻ là gì?
Sự khác biệt giữa hàng tiêu dùng nhanh và bán lẻ là gì?

Trong khi bán lẻ đề cập đến phương thức bán hàng mà cụ thể ở đây là bán lẻ các sản phẩm cho tiêu dùng cuối (thay vì bán sỉ qua trung gian), hàng tiêu dùng nhanh lại bao hàm một tập hợp các thành phần trong chuỗi giá trị như nhà sản xuất và người bán (đại lý hay siêu thị), bán các sản phẩm là hàng hoá vật lý thông qua các nhà bán lẻ khác nhau.

Nếu bán lẻ mô tả cách các doanh nghiệp mua bán hàng hoá, thì hàng tiêu dùng nhanh mô tả cách các hàng hoá được tiêu thụ (số lượng và tần suất) bởi người tiêu dùng mà ở đây là tiêu dùng nhanh.

Một số lưu ý về khái niệm hàng tiêu dùng nhanh mà bạn nên hiểu.

  • Hàng tiêu dùng nhanh bao gồm tất cả các sản phẩm không bảo quản được lâu, dễ hao mòn, không bền hay tiêu thụ một lần (nondurable products) chẳng hạn như kem đánh răng hay giấy vệ sinh, khác hoàn toàn với các sản phẩm không (lâu) hao mòn (durable good) chẳng hạn như xe hơi hay tủ lạnh.
  • Các sản phẩm thuộc ngành hàng tiêu dùng nhanh có biên lợi nhuận trên từng sản phẩm thấp tuy nhiên lại bán được với số lượng lớn và doanh số cao.
  • Các sản phẩm điển hình của hàng tiêu dùng nhanh là bia rượu, nước ngọt, sữa, trái cây hay giấy vệ sinh.
  • Trái ngược lại với các sản phẩm tiêu dùng nhanh là sản phẩm tiêu dùng chậm (SMCG) chẳng hạn như đồ đạc hay các thiết bị gia dụng.

Mô hình hàng tiêu dùng nhanh là gì?

Mô hình hàng tiêu dùng nhanh là khái niệm mô tả cách thức vận hành kinh doanh của các doanh nghiệp kinh doanh hàng tiêu dùng nhanh, về bản chất, đó cũng là mô hình kinh doanh giống như nhiều mô hình kinh doanh ở các ngành khác.

Theo McKinsey, một mô hình hàng tiêu dùng nhanh tiêu chuẩn thường tập trung vào 5 “bí mật” sau đây:

  • Hoàn thiện việc xây dựng thương hiệu thị trường đại chúng (Mass Market) và đổi mới sản phẩm. Điều này có thể giúp mang lại tỷ suất lợi nhuận gộp thường cao hơn khoảng 25% so với những doanh nghiệp không có hoặc thương hiệu kém phổ biến khác.
  • Xây dựng mối quan hệ với các cửa hàng tạp hóa và các nhà bán lẻ khác để cung cấp khả năng tiếp cận liền mạch cho người tiêu dùng. Bằng cách hợp tác với các cửa hàng, đồng thời liên kết chặt chẽ với chuỗi cung ứng của họ, các công ty hàng tiêu dùng nhanh đảm bảo rằng hàng hoá của họ sẽ được phân phối rộng rãi, đây chính là rào cản cho các thương hiệu mới muốn gia nhập thị trường.
  • Gia nhập các thị trường đang phát triển sớm và tích cực phát triển các chủng loại của sản phẩm khi người tiêu dùng trở nên giàu có hơn. Điều này mang lại một nguồn tăng trưởng vô cùng lớn – tạo ra 75% mức tăng trưởng doanh thu trong lĩnh vực hàng tiêu dùng nhanh.
  • Thiết kế các mô hình vận hành nhất quán và giảm thiểu chi phí. Mô hình dựa trên sức mạnh tổng hợp này đã giữ cho chi phí quản trị và chi phí chung luôn ở mức 4 đến 6% doanh thu.
  • Các chiến lược M&A được sử dụng để củng cố thị trường và tạo đà cho tăng trưởng hữu cơ (tăng trưởng tự thân – Organic Growth) sau khi mua lại. Sau khi cập nhật danh mục đầu tư của họ với các thương hiệu và danh mục mới, các công ty hàng tiêu dùng nhanh sẽ áp dụng các phương pháp kinh doanh và phân phối tối ưu hiện có để phát triển các thương hiệu và danh mục.

Thấu hiểu thuật ngữ hàng tiêu dùng nhanh.

Như đã phân tích ở trên, sở dĩ được gọi là hàng tiêu dùng nhanh vì nó bao gồm các sản phẩm là hàng hoá (Goods) được tiêu thụ nhanh (Fast Moving) bởi những người tiêu dùng (Consumer).

Các sản phẩm là hàng hoá tiêu dùng (Consumer Goods) được chia thành 3 danh mục con khác nhau là: hàng hoá lâu bền (Durable Goods), hàng hoá không lâu bền (Nondurable Goods) và dịch vụ (Services).

Trong khi các sản phẩm thuôc hàng hóa lâu bền có thời hạn sử dụng từ 3 năm trở lên, các sản phẩm thuộc hàng hóa không lâu bền có thời hạn sử dụng dưới một năm.

Hàng tiêu dùng nhanh là phân khúc hàng tiêu dùng (CG – Consumer Goods) lớn nhất, bao gồm các sản phẩm là hàng hoá không lâu bền, các sản phẩm này thường được tiêu thụ ngay sau khi mua và có thời hạn sử dụng ngắn.

Nếu bạn để ý quan sát, bạn sẽ thấy rằng gần như tất cả mọi người trên thế giới đều sử dụng các sản phẩm là hàng tiêu dùng nhanh mỗi ngày, từ những lần mua hàng ở các quầy tạp hoá nhỏ đến những đơn hàng lớn hơn ở các siêu thị hay trung tâm mua sắm.

Về mặt tiêu thụ tổng thể, hàng tiêu dùng nhanh chiếm hơn một nửa tổng chi tiêu của người tiêu dùng.

Các kiểu hay danh mục hàng tiêu dùng nhanh chính là gì (bao gồm những mặt hàng nào)?

Như đã phân tích ở trên, hàng tiêu dùng nhanh bao gồm những hàng hóa không lâu bền, hoặc hàng hóa có vòng đời ngắn và được tiêu thụ với tốc độ nhanh.

Hàng tiêu dùng nhanh có thể được chia thành nhiều chủng loại hay danh mục khác nhau bao gồm:

  • Thực phẩm chế biến: Các sản phẩm như bơ, pho mát, ngũ cốc hay mì ống đóng hộp.
  • Thực phẩm được chế biến sẵn: Những sản phẩm có thể ăn hay tiêu dùng được ngay mà không cần chế biến.
  • Đồ uống: Nước đóng chai, nước tăng lực hay nước trái cây.
  • Đồ nướng: Bánh quy, bánh sừng bò và bánh mì tròn.
  • Thực phẩm tươi sống, thực phẩm đông lạnh và đồ khô: Trái cây, rau, đậu, mực tôm cá, nho khô hay các loại hạt.
  • Thuốc: Aspirin, thuốc giảm đau và các loại thuốc khác có thể mua không cần kê đơn.
  • Sản phẩm tẩy rửa: Baking soda, nước tẩy rửa lò nướng, và nước lau cửa sổ, nước lau sàn hay lau kính.
  • Mỹ phẩm và đồ vệ sinh cá nhân: Bao gồm các sản phẩm như sản phẩm chăm sóc tóc, kem tẩy trang, kem đánh răng hay xà bông.
  • Đồ dùng văn phòng: Bút, tập vở, bút chì hay bút tẩy.

Ngành công nghiệp hàng tiêu dùng nhanh.

Cũng tương tự các ngành công nghiệp khác như ngành công nghiệp thương mại (Commerce Industry) hay ngành công nghiệp F&B (F&B Industry), ngành công nghiệp hàng tiêu dùng nhanh là ngành có giá trị hàng chục ngàn tỷ USD và chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu chi tiêu của người tiêu dùng (hơn 50%).

Toàn cảnh về thị trường hàng tiêu dùng nhanh tại Việt Nam.

Theo số liệu từ Statista, ngành hàng tiêu dùng nhanh tại Việt Nam đang tăng trưởng với tốc độ khá nhanh trong những năm gần đây.

Nhờ vào sự phát triển tổng thể của nền kinh tế Việt Nam, khi người dân có mức thu nhập trung bình cao hơn, mức sống được cải thiện tốt hơn, kéo theo đó là tỷ lệ tiêu thụ các sản phẩm thuộc hàng tiêu dùng nhanh cũng tăng lên.

Đô thị hóa cũng là một động lực khác thúc đẩy sự tăng trưởng ở mức hai con số của thị trường hàng tiêu dùng nhanh trước đại dịch COVID-19.

Vào năm 2020, bất chấp những khó khăn do đại dịch, tốc độ tăng trưởng doanh số bán lẻ hàng năm của ngành hàng tiêu dùng của cả nước vẫn đạt 6,8% và dự báo sẽ đạt ít nhất 9% vào năm 2021.

Ở cả thành thị và nông thôn Việt Nam, chi tiêu hàng tháng cho các sản phẩm tiêu dùng nhanh đang tăng lên trong những năm qua.

Mặc dù mức chi tiêu cho các sản phẩm này của người dân sống ở thành thị cao hơn nhiều so với người dân sống ở nông thôn, khoảng cách này đang ngày càng được thu hẹp.

Trong khi các sản phẩm sữa (và được chế biến từ sữa) chiếm tỷ trọng lớn nhất trong chi tiêu hàng tiêu dùng nhanh của người dân thành thị, các mặt hàng tạp hóa đóng gói (packaged grocery) lại chiếm tỷ trọng cao nhất ở khu vực nông thôn.

Bất chấp sự khác biệt trong cách chi tiêu, chăm sóc cá nhân, thực phẩm đóng gói và sữa vẫn là những danh mục sản phẩm thuộc ngành hàng tiêu dùng nhanh có tốc độ tăng trưởng giá trị cao nhất.

Bên cạnh số ít các thương hiệu hàng tiêu dùng nhanh lớn của Việt Nam như Vinamilk hay Masan, phần lớn các thương hiệu còn lại là những doanh nghiệp nước ngoài như Unilever của Vương Quốc Anh, P&G của Mỹ hay Acecook của Nhật Bản.

Mối quan hệ giữa hàng tiêu dùng nhanh và thương mại điện tử là gì?

Mối quan hệ giữa hàng tiêu dùng nhanh và thương mại điện tử là gì?
Mối quan hệ giữa hàng tiêu dùng nhanh và thương mại điện tử là gì?

Nếu như trước đây, ngành hàng tiêu dùng nhanh gắn liền với thương mại truyền thống, thì giờ đây, khi người tiêu dùng toàn cầu đang ưu tiên mua sắm từ các kênh thương mại điện tử, khi thương mại điện tử (eCommerce) mang lại những tiện ích mà các cửa hàng truyền thống không thể làm được, mọi thứ đã thay đổi tương đối nhiều.

Theo một báo cáo của Nielsen, các hàng hóa phổ biến nhất được mua qua các kênh trực tuyến liên quan đến du lịch, giải trí hoặc hàng hóa lâu bền (Durable Goods) chẳng hạn như thời trang và sản phẩm điện tử.

Tuy nhiên, một số nghiên cứu khác cũng cho thấy, khi các doanh nghiệp đang xác định lại hiệu quả của các kênh thương mại điện tử, các sản phẩm tiêu dùng nhanh như hàng tạp hóa cũng sẽ phát triển mạnh trên các nền tảng thương mại điện tử như Tiki hay Shopee.

Các doanh nghiệp hay thương hiệu có giá trị nhất toàn cầu trong ngành hàng tiêu dùng nhanh.

Nestlé, Procter & Gamble (P&G) và Coca-Cola là những doanh nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng nhanh lớn nhất thế giới.

Ví dụ với Nestlé, tập đoàn có trụ sở tại Thụy Sĩ này hiện có hơn 2.000 thương hiệu (nhãn hàng) ở nhiều danh mục hay chủng loại sản phẩm khác nhau.

Trong khi mức doanh số có thể có được từ hàng tiêu dùng nhanh như đã phân tích là vô cùng lớn, do những rào cản lớn về chi phí quảng cáo, xây dựng thương hiệu hay các hoạt động marketing khác, khả năng giành được thị phần từ ngành hàng này là vô cùng khó khăn.

Một số câu hỏi thường gặp liên quan đến ngành hàng tiêu dùng nhanh là gì?

  • Hàng tiêu dùng nhanh bao gồm những thành phần chính là gì?

Như đã phân tích ở trên, hàng tiêu dùng nhanh là thuật ngữ mô tả các hàng hoá tiêu dùng nhanh hay hoặc hàng tiêu dùng nhanh.

Về mặt tổng thể, hàng tiêu dùng có thể được chia thành 3 danh mục con khác nhau là: hàng hoá lâu bền (Durable Goods), hàng hoá không lâu bền (Nondurable Goods) và dịch vụ (Services).

  • Thương hiệu hay sản phẩm hàng tiêu dùng nhanh là gì?

Là các thương hiệu hay sản phẩm trong ngành hàng tiêu dùng nhanh. Dầu gội Clear hay Bột giặt OMO chính là các thương hiệu hàng tiêu dùng nhanh (FMCG Product).

Kết luận.

Thông qua bài viết phân tích tương đối chi tiết từ MarketingTrips, hy vọng bạn có thể hiểu được những lý thuyết căn bản như hàng tiêu dùng nhanh là gì, các khái niệm hay thuật ngữ xoay quanh ngành hàng tiêu dùng nhanh và hơn thế nữa.

Xem thêm:

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer

Nam Nguyen | MarketingTrips

Nguồn: MarketingTrips

2023 là năm đầu tiên trong chu kỳ mới của thương mại điện tử

Hoàn cảnh mới đòi hỏi cách tiếp cận mới, bài toán cạnh tranh của các doanh nghiệp thương mại điện tử phải nhắm đến mô hình phát triển bền vững, thay vì chỉ ganh đua những chỉ số ngắn hạn hay cạnh tranh về giá.

2023 là năm đầu tiên trong chu kỳ mới của thị trường thương mại điện tử
2023 là năm đầu tiên trong chu kỳ mới của thị trường thương mại điện tử

Trong báo cáo công bố hồi tháng 12/2022, công ty tư vấn quản trị toàn cầu McKinsey dự đoán từ nay đến năm 2026, thị trường thương mại điện tử Đông Nam Á tăng gấp ba lần, với tốc độ tăng trưởng kép là 22%.

Cũng theo tổ chức này, thị trường thương mại điện tử Đông Nam Á đang ở ngưỡng cửa giai đoạn thứ hai (10 năm tiếp theo tính từ chu kỳ đầu tiên 2013-2023).

Dù 2023 là năm đầu tiên trong chu kỳ mới của thị trường thương mại điện tử, nhưng mọi thứ dường như không dễ dàng bởi các “cơn gió ngược”: Lãi suất tăng và áp lực lạm phát cao.

Hoàn cảnh mới đòi hỏi cách tiếp cận mới, bài toán cạnh tranh của các doanh nghiệp thương mại điện tử phải nhắm đến mô hình phát triển bền vững thay vì chỉ ganh đua những chỉ số ngắn hạn hay cạnh tranh về giá.

McKinsey dự đoán những phát kiến công nghệ tiên tiến sẽ trở thành thách thức với doanh nghiệp, đồng thời tạo cơ hội để các đơn vị hướng đến nấc thang mới, đặc biệt là nhóm ngành thương mại điện tử.

Nổi bật hiện nay là trí tuệ nhân tạo (AI). Công nghệ này góp phần tạo nên ưu thế cạnh tranh cho doanh nghiệp thương mại điện tử, nhờ khả năng tối ưu hoạt động vận hành thông qua: Cá nhân hóa trải nghiệm, tối ưu dịch vụ khách hàng, phân tích – dự đoán nhu cầu thị trường dựa trên dữ liệu lớn và tăng hiệu suất vận hành hạ tầng logistics.

Nói cách khác, AI là giải pháp giúp doanh nghiệp hoạt động hiệu quả và năng suất hơn, linh động thích ứng trước mọi tác động từ bên ngoài.

Gần đây, sự xuất hiện của ChatGPT được xem là bước đột phá đáng chú ý của giới công nghệ. Dù nhiều ý kiến cho rằng ứng dụng này đe dọa “soán ngôi” các ngành nghề, ông Matt Janaway – Giám đốc Điều hành Marketing Labs – vẫn nhận định ChatGPT sẽ sớm trở thành “cánh tay phải” của các doanh nghiệp, đặc biệt trong lĩnh vực thương mại điện tử.

Bước sang chu kỳ phát triển mới, sự kỳ vọng của người tiêu dùng vào các trải nghiệm trên sàn thương mại điện tử sẽ ngày càng phát triển cao hơn.

Đồng nghĩa, họ sẽ ngày càng mua sắm thông minh và liên tục nâng cao kỳ vọng vào các trải nghiệm mới lạ, tinh tế hơn trong các sản phẩm hay nhu cầu dịch vụ cơ bản.

Báo cáo SYNC Đông Nam Á 2022 do Meta phối hợp Bain & Company thực hiện đã chỉ ra, 53% người tiêu dùng Đông Nam Á đã thay đổi thương hiệu mua sắm.

Còn theo báo cáo Year in Search 2022 của Google về hành vi tìm kiếm tại Việt Nam, trên cả yếu tố giá cả, người tiêu dùng quan tâm về mặt giá trị và có xu hướng lựa chọn dịch vụ, sản phẩm phù hợp hệ giá trị riêng.

Theo đó, để thành công trong chu kỳ mới, doanh nghiệp thương mại điện tử cần nỗ lực gấp bội trong hành trình thấu hiểu người tiêu dùng, đồng thời kiến tạo nhiều giá trị.

Trước đây, độ rộng của danh mục sản phẩm là chìa khóa giúp doanh nghiệp thương mại điện tử thu hút khách hàng. Để đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng, nhiều đơn vị chú trọng tăng chiều rộng bằng việc liên tục giới thiệu sản phẩm mới, đa dạng hóa danh mục.

Tuy nhiên, trong bối cảnh cạnh tranh giữa các nền tảng và nhu cầu người dùng ngày càng tinh tế, mở rộng danh mục sản phẩm theo chiều ngang là chưa đủ.

Các doanh nghiệp cần đi vào chiều sâu, đồng nghĩa việc tập trung vào chất lượng sản phẩm được kinh doanh trên nền tảng.

Việc kiện toàn cả chiều rộng và chiều sâu sản phẩm sẽ giúp doanh nghiệp thương mại điện tử phát triển theo hướng ưu tiên tính bền vững và tạo kết nối vững chắc với khách hàng.

Nói về vấn đề này, ông Đặng Anh Dũng – Phó tổng giám đốc Lazada Việt Nam cho biết, ở chu kỳ mới, các chương trình khuyến mại vẫn không thể thiếu, đóng vai trò quan trọng trong chiến lược giữ chân khách hàng trên sàn thương mại điện tử (eCommerce).

Nhưng về lâu dài, doanh nghiệp cần cân đối các yếu tố khác, tìm giải pháp tiếp cận người dùng tinh tế hơn thay vì tập trung giảm giá.

“Việc đầu tư vào công nghệ, thấu hiểu sâu sắc người dùng và cải tiến chất lượng dịch vụ, danh mục sản phẩm là những trọng tâm của chiến lược phát triển tương lai”, ông Đặng Anh Dũng khẳng định.

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer

Theo Việt Hưng | The Leader

Báo cáo ngân hàng bán lẻ Việt Nam 2022

Báo cáo ngân hàng bán lẻ Việt Nam 2022 khám phá quan điểm và trải nghiệm khách hàng cá nhân với mảng bán lẻ của các ngân hàng.

Báo cáo ngân hàng bán lẻ Việt Nam 2022
Báo cáo ngân hàng bán lẻ Việt Nam 2022

Những năm gần đây Việt Nam đã chứng kiến sự bùng nổ của thương mại điện tử, qua đó thúc đẩy hành vi thanh toán không dùng tiền mặt. Thanh toán không dùng tiền mặt đang phát triển với tốc độ nhanh chóng qua các kênh online như ví điện tử, ngân hàng trực tuyến và mã QR.

Theo thống kê từ Ngân hàng Nhà nước, nửa đầu năm 2022 so với cùng kỳ năm 2021, giao dịch thanh toán không dùng tiền mặt tăng 77% về số lượng và 30% về giá trị, qua Internet tăng tương ứng 63,2% và 32,3%; qua điện thoại di động tăng tương ứng 98,3 và 84,3%; qua QR code tăng 86% và 127%.

Trong năm 2021, khách hàng cá nhân chiếm 40-50% các hoạt động cho vay của ngân hàng. Mảng bán lẻ này phụ thuộc rất lớn vào niềm tin của khách hàng với ngân hàng.

Do đó, hình ảnh thương hiệu (Brand Image), trải nghiệm khách hàng và hành trình khách hàng đóng vai trò quan trọng trong vị thế cạnh tranh của bất kỳ ngân hàng bán lẻ nào.

Báo cáo ngân hàng bán lẻ 2022 Việt Nam của Cimigo cung cấp những thông tin khái quát về vị thế cạnh tranh của các ngân hàng bán lẻ nhằm mục đích giúp các nhà quản lý đưa ra được những định hướng phù hợp trong hoạt động truyền thông và vận hành.

Dữ liệu trong báo cáo được tổng hợp từ khảo sát của Cimigo với 2.055 bài khảo sát trên toàn quốc với đối tượng độ tuổi từ 18 – 55 và có tài khoản ngân hàng, sinh sống tại các thành phố chính (trực thuộc trung ương như Hà Nội, TP.HCM, Đà Nẵng, Hải Phòng và Cần Thơ) và các thành phố, tỉnh thành khác

Tóm tắt báo cáo tại Việt Nam 2022.

Mảng bán lẻ đang do các ngân hàng thương mại cổ phần nhà nước dẫn đầu, chủ yếu bởi khả năng tiếp cận rộng qua các kênh truyền thống (ATM, phòng giao dịch, chi nhánh), đặc biệt là bên ngoài các thành phố trọng điểm như Hà Nội, TP.HCM, Đà Nẵng, Hải Phòng và Cần Thơ. Dịch vụ ngân hàng bán lẻ tại thị trường Việt Nam có tiềm năng tăng trưởng lớn và đang trải qua sự cạnh tranh gay gắt với các công ty tài chính phi ngân hàng khác.

Các ngân hàng dẫn đầu tại Việt Nam đang mang lại trải nghiệm tốt cho khách hàng mặc dù hiệu quả từ các hoạt động xây dựng thương hiệu còn chưa thực sự nổi bật. Trong số đó, Techcombank nổi bật cả về xây dựng thương hiệu và trải nghiệm khách hàng.

Sự gia tăng của thanh toán không dùng tiền mặt, các kênh thương mại hiện đại và thương mại điện tử ở Việt Nam đồng nghĩa với việc chuyển đổi kỹ thuật số sẽ tiếp tục tác động mạnh mẽ lên mảng bán lẻ của ngân hàng tại Việt Nam.

Cải thiện trải nghiệm kỹ thuật số của khách hàng Việt Nam và hệ sinh thái các sản phẩm và dịch vụ kỹ thuật số là chìa khóa thành công trong tương lai.

Báo cáo ngân hàng bán lẻ tại Việt Nam 2022 bao gồm các chủ đề này;

  1. Bối cảnh ngân hàng bán lẻ Việt Nam.
  2. Mức độ thâm nhập và cơ hội của các sản phẩm
  3. Trải nghiệm khách hàng.
  4. Đà phát triển của các ngân hàng bán lẻ.
  5. Tài sản thương hiệu của các ngân hàng.
  6. Cách mạng ngân hàng số.

Bạn có thể tải xuống đầy đủ báo cáo tại đây

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer

Hà Anh  | MarketingTrips   

Central Retail đầu tư mạnh vào thị trường bán lẻ Việt Nam 2023

Khoản đầu tư “khủng” của ông lớn ngành bán lẻ – Tập đoàn Central Retail vào thị trường bán lẻ Việt Nam tiếp tục cho thấy sức hấp dẫn của thị trường và tiềm năng phát triển trong năm 2023.

Central Retail đầu tư mạnh vào thị trường bán lẻ Việt Nam 2023
Central Retail đầu tư mạnh vào thị trường bán lẻ Việt Nam 2023

Nhiều khoản đầu tư lớn vào thị trường bán lẻ.

Theo Bangkok Post, mới đây, Tập đoàn bán lẻ lớn nhất Thái Lan, Tập đoàn Central Retail Corporation (CRC) công bố khoản đầu tư lớn nhất, trị giá 50 tỷ baht (1,45 tỷ USD) vào Việt Nam giai đoạn 2023-2027.

Theo Giám đốc điều hành Yol Phokasub, CRC coi Việt Nam là một thị trường tiềm năng cao và tốc độ tăng trưởng kinh tế liên tục. Với chỗ đứng vững chắc của CRC trong nước, công ty đã đặt ra lộ trình 5 năm để tiếp tục mở rộng, phân bổ 50 tỷ baht trong thời gian 5 năm.

Là một trong những nhà bán lẻ lớn nhất Việt Nam, hiện tại, Central Retail Việt Nam có hơn 340 cửa hàng với tổng diện tích sàn hơn 1,2 triệu m2 trên 40 tỉnh, thành phố.

Công ty đã ghi nhận mức tăng trưởng doanh thu bán hàng nhanh chóng trong nước, tăng từ 300 triệu baht năm 2014 lên 38,6 tỷ baht vào năm 2021.

Ông Olivier Langlet, Giám đốc điều hành của Central Retail Việt Nam đánh giá: “Nền kinh tế Việt Nam đang tiếp tục tăng trưởng bất chấp những bất ổn.

Tôi kỳ vọng GDP của Việt Nam sẽ tăng trưởng lần lượt là 6,7% và 7,2% vào năm 2023 và 2024, so mức 3,5%/năm của Thái Lan trong 2 năm tới. Điều này sẽ đưa Việt Nam trở thành thị trường phát triển nhanh nhất Đông Nam Á”.

Theo kế hoạch mở rộng, Central Retail Việt Nam đặt mục tiêu tăng gấp đôi số lượng cửa hàng lên 600 trên 57 trong số 63 tỉnh, thành phố của Việt Nam vào năm 2027, với tổng diện tích sàn dự kiến ​​đạt 2 triệu m2. “Central Retail Vietnam đặt mục tiêu trở thành nhà bán lẻ thực phẩm đa kênh số 1 và số 2 về số lượng trung tâm mua sắm tại Việt Nam vào năm 2027”, ông Langlet cho biết.

Không chỉ riêng Central Retail Việt Nam mà nhiều kênh bán lẻ khác cũng dự kiến tăng đầu tư vào thị trường Việt Nam. Đơn cử, Tập đoàn Aeon (Nhật Bản) đang lên kế hoạch từ nay đến năm 2025 triển khai thêm 16 dự án tại Việt Nam, trong đó có 3-4 dự án tại Hà Nội; đồng thời sẽ ra mắt các mô hình bán lẻ mới.

Đối với các doanh nghiệp bán lẻ trong nước, bà Nguyễn Thị Phương, Phó Tổng Giám đốc Thường trực WinCommerce chia sẻ, năm 2023, WinCommerce bên cạnh việc duy trì 3.400 siêu thị và cửa hàng tiện ích tại 62 tỉnh, thành phố sẽ tiếp tục phát triển hệ thống siêu thị, cửa hàng tiện lợi.

Kỳ vọng khởi sắc.

Số liệu của Tổng cục Thống kê, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng cả nước tháng 1/2023 đạt 544.800 tỷ đồng, tăng 20% so với cùng kỳ năm trước. Đây là con số khả quan trong bối cảnh thị trường vẫn phải đối mặt với nhiều sức ép lạm phát, chi tiêu của người dân sụt giảm.

Hiện, tổng quy mô thị trường bán lẻ Việt Nam đạt khoảng trên 140 tỷ USD, dự báo sẽ tăng lên khoảng 350 tỷ USD vào năm 2025. Con số này sẽ đóng góp khoảng 59% GDP cả nước.

Ngành bán lẻ cũng là ngành có tốc độ tăng trưởng cao, đóng góp lớn vào tăng trưởng GDP của đất nước, góp phần chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế theo hướng gia tăng tỉ trọng các ngành công nghiệp và dịch vụ.

Tuy nhiên, về quy mô của kênh bán lẻ hiện đại đang còn rất khiêm tốn, mới chiếm khoảng 25% trên tổng quy mô thị trường trong khi đó tỷ lệ này ở các nước trong khu vực là khá cao như: Thái Lan 48%, Phillipines 75% và Singapore 80%…

Việc tăng quy mô của kênh bán lẻ hiện đại sẽ đồng thời thúc đẩy mạnh mẽ hoạt động sản xuất trong nước, chuyển dịch mô hình sản xuất hiện đại, an toàn, đảm bảo kiểm soát an toàn vệ sinh thực phẩm, phát triển hàng hóa theo chuỗi giá trị, thương hiệu và bền vững.

Chính phủ ta cũng xác định đầu tư, xuất khẩu, tiêu dùng là 3 mũi nhọn chính của phát triển kinh tế Việt Nam.

Sau đại dịch, bán lẻ của nước ta hồi phục nhanh chóng. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng năm 2022 đã tăng gần 20%, vượt kế hoạch đề ra (8%). Có gần 54% các doanh nghiệp bán lẻ công bố đạt hiệu quả kinh doanh bằng hoặc vượt mức trước dịch.

Tiềm năng thị trường bán lẻ Việt Nam còn rất lớn ở chỗ kênh bán lẻ hiện đại của Việt Nam hiện mới chiếm 25%, còn dư địa rất rộng lớn để phát triển. Số cửa hàng tự chọn như siêu thị mini hiện có 4.000 nhưng nếu so với Nhật Bản hay các quốc gia lân cận khác thì còn rất thấp.

Nhận định về thị trường bán lẻ trong năm 2023, ông Vũ Vinh Phú, chuyên gia bán lẻ dự báo, hiện thị trường bán lẻ Việt Nam đang trên đà hồi phục tốt với mức tăng trưởng bằng thời điểm trước dịch.

Ông Phú cũng đánh giá cao nguồn vốn doanh nghiệp đầu tư vào ngành bán lẻ và cho rằng đây chính là dấu hiệu cho thấy sự phục hồi mạnh mẽ của thị trường trong năm 2023. Tuy nhiên, việc các nhà bán lẻ nước ngoài ồ ạt đổ vốn vào thị trường Việt Nam cũng gây nên sức ép nhất định đến “miếng bánh” thị phần cho doanh nghiệp bán lẻ nội địa.

“Trước tình hình này, Chính phủ, các bộ, ngành phải có chính sách hỗ trợ các tập đoàn, doanh nghiệp bán lẻ trong nước phát triển. Vì lý thuyết của kinh tế thương mại là nếu không nắm được phân phối sẽ không nắm được sản xuất.

Do đó, bên cạnh việc thu hút đầu tư nước ngoài vào ngành bán lẻ thì việc xây dựng được các kênh bán lẻ Việt của người Việt cũng là điều vô cùng quan trọng”, ông Vũ Vinh Phú nhấn mạnh.

Về phía các doanh nghiệp, bà Nguyễn Thị Phương cho rằng, bên cạnh những thuận lợi, thách thức hiện hữu của các nhà bán lẻ nội địa chính là năng lực cạnh tranh với các nhà bán lẻ FDI về quy mô không chỉ ở Việt Nam, với lợi thế chuỗi liên kết toàn cầu giữa các Nhà sản xuất và nhà bán lẻ FDI. Ngoài ra, các chi phí cao từ logistics, chi phí thuê mặt bằng cao cũng đặt ra những bài toán lớn đối với các nhà bán lẻ.

Để phục hồi và phát triển thị trường bán lẻ năm 2023, ông Vũ Vinh Phú “hiến kế”, doanh nghiệp cần có sự chủ động dự trữ hàng hóa, cân đối cung cầu bằng cách bắt tay với các hợp tác xã, nông dân để vừa có được nguồn hàng với giá cả ổn định, vừa giải quyết được tình trạng “được mùa mất giá” như thời gian qua.

Bên cạnh đó, tiếp tục phát huy bán hàng đa kênh (Omni Channel) để không bỏ lỡ bất kỳ khách hàng tiềm năng nào vào tay đối thủ, “khách hàng ở đâu thì doanh nghiệp xuất hiện ở đó”, cung cấp trải nghiệm liền mạch cho người tiêu dùng từ các kênh online như Website, Facebook, Zalo… cho đến các kênh offline – các cửa hàng bán lẻ truyền thống, bán buôn, phân phối đến các hệ thống khác.

Ngoài ra, cần chú trọng xây dựng thương hiệu. Đây yếu tố quan trọng quyết định sự tồn tại của mỗi doanh nghiệp. Người tiêu dùng sẽ lựa chọn hàng của những doanh nghiệp luôn coi “khách hàng là thượng đế”, luôn tôn trọng và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của khách hàng. Đó cũng là cách tạo dựng thương hiệu và uy tín, là văn hóa doanh nghiệp.

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer

 

Theo Hà Anh

Báo Nhân Dân

Câu chuyện thương hiệu Adidas: Từ xưởng giày sau nhà thành thương hiệu toàn cầu

Câu chuyện thương hiệu của Adidas là nguồn cảm hứng cho các công ty khởi nghiệp. Ông chủ Adolf Dassler bỏ học làm bánh để mở xưởng giày, lèo lái Adidas qua nhiều thăng trầm của kinh tế Đức sau chiến tranh.

Câu chuyện thương hiệu Adidas
Câu chuyện thương hiệu Adidas: Từ xưởng giày sau nhà thành thương hiệu toàn cầu | iStock

Adidas là thương hiệu đồ thể thao hàng đầu thế giới, với những đôi giày thuộc hàng đắt đỏ nhất hành tinh. Theo hãng nghiên cứu Macro Trends, giá trị của Adidas tính đến tháng 1/2023 là 30 tỷ USD. Tuy nhiên, trước khi trở thành công ty tỷ USD như ngày nay, hãng này chỉ là một cửa hàng giày nhỏ trong phòng giặt của gia đình.

Adidas được sáng lập bởi Adolf Dassler. Adolf sinh năm 1900 tại thị trấn Herzogenaurach (Đức), trong một gia đình nghèo có 4 người con, với cha là thợ đóng giày và mẹ làm giặt là. Sau khi học xong trung học, ông học làm bánh theo mong muốn của cha. Tuy nhiên, đây không phải là đam mê của ông. Vì thế, Adolf lại quay về học đóng giày.

Ngoài công việc, Adolf cũng thích thể thao. Ông tham gia nhiều môn, từ bóng đá, boxing đến trượt tuyết. Nhờ đó, ông nhận ra một điều sau này đã giúp Adidas thành công: Tất cả vận động viên khi đó đều đi cùng một loại giày. Adolf cho rằng nếu có thể thiết kế những loại giày khác nhau cho từng môn thể thao, người đi chúng sẽ có lợi thế lớn.

Năm 1919, Đức trải qua suy thoái kinh tế tồi tệ sau Đại chiến Thế giới I. Việc làm ngày càng khan hiếm. Tuy nhiên, Adolf không muốn bỏ qua giấc mơ của mình. Ông cải tạo khu giặt giũ sau nhà của mình để thành nơi đóng giày. Với kỹ năng học được, Adolf kiếm tiền nhờ sửa giày cho người dân trong vùng.

Việc này giúp ông có thời gian và nguồn lực tạo ra những đôi giày thể thao chuyên dụng đầu tiên. Một trong những sáng tạo đầu tiên của Adolf là giày chạy dùng trong sân vận động – ý tưởng mới mẻ với lĩnh vực thể thao thời đó.

Adolf cũng rất sáng tạo trong quá trình sản xuất. Ví dụ, khi nguồn điện không ổn định, ông nối máy móc với xe đạp và nhờ một nhân viên đạp để tạo ra điện.

Năm 1924, anh trai của Adolf là Rudolf cùng tham gia với ông. Họ mở công ty, đặt tên là Dassler Brothers Shoe Factory (Xưởng giày của anh em Dassler). Đây là sự kết hợp mang tính bổ sung, vì Adolf rất giỏi đóng giày, còn Rudolf có năng khiếu bán hàng và quảng cáo. Khi kinh tế Đức dần phục hồi, việc kinh doanh cũng nhanh chóng bùng nổ.

Năm 1926, cả hai đủ tiền chuyển xưởng đóng giày sang địa điểm mới. Ở đây, họ có thể làm hàng trăm đôi giày mỗi ngày. Quy mô công ty nhanh chóng tăng lên và Adolf quyết định mở rộng sản xuất ra ngoài địa phương. Ông tham dự gần như mọi sự kiện thể thao lớn và nói chuyện với các vận động viên, thuyết phục họ thử giày của mình.

Những nỗ lực và quyết tâm của ông đã có kết quả. Nhiều vận động viên hàng đầu của Đức đã dùng giày của họ tại Olympics Amsterdam năm 1928.

Adolf luôn điều chỉnh giày đi thử theo phản hồi của từng vận động viên, để đảm bảo họ có sản phẩm tốt nhất. Ông cũng tạo quan hệ với đội tuyển điền kinh Đức, thông qua huấn luyện viên Josef Waitzer.

Sự hợp tác này không chỉ giúp Adolf có những phản hồi quý giá về sản phẩm, mà còn giúp giày của hai anh em được nhiều vận động viên sử dụng hơn trong Olympic. Ở thời điểm các vận động viên chưa có nhà tài trợ chuyên nghiệp, đây là chiến lược marketing đột phá của anh em nhà Dassler.

Đến Olympic Berlin 1936, Adolf quyết định tài trợ cho các vận động viên hàng đầu. Ông thậm chí thuyết phục vận động viên điền kinh nổi tiếng của Mỹ khi đó là Jesse Owens đi giày của họ và đã được đồng ý.

Owens sau đó giành được tới 4 huy chương vàng tại Olympic Berlin, phá vỡ nhiều kỷ lục, khiến giày của anh em nhà Dassler càng nổi tiếng. Công ty của họ bắt đầu hiện diện quốc tế nhiều hơn.

Vài năm sau đó, Đại chiến Thế giới II nổ ra, khiến việc kinh doanh bị gián đoạn vì thiếu thốn nguyên vật liệu và nhân lực. Adolf và Rudolf lần lượt phải nhập ngũ, khiến công ty càng gặp khó. Những bất đồng về cách duy trì công ty trong chiến tranh và các hiểu lầm sau đó khiến hai anh em Adolf và Rudolf quyết định không làm việc với nhau nữa.

Năm 1949, Rudolf nhận nửa công ty và nhân viên, thành lập thương hiệu riêng với tên Ruda. Sau này, ông đổi tên thành Puma, vì Ruda không mang tính thể thao. Cùng năm đó, Adolf thành lập Adidas, tạo ra từ chính tên mình – Adolf (Adi) Dassler (das).

Những năm sau chiến tranh rất khó khăn với Adidas, khi kinh tế Đức lại rơi vào khủng hoảng. Adolf phải dựa vào sự sáng tạo và tinh thần khởi nghiệp để vượt qua. Ông tận dụng nhiều mối quan hệ để có nguồn nguyên liệu dư thừa từ chiến tranh. Ông phải làm giày từ lớp lót bình nhiên liệu trên máy bay, bè cao su và vải lều.

Sau khi ngừng hợp tác với anh trai, Adolf cũng muốn sản phẩm của mình có thiết kế độc đáo, dễ nhận ra dù là đi dưới chân. Ông đã thử nghiệm nhiều thiết kế và cuối cùng cho ra đời logo 3 vạch kẻ song song như hiện tại.

Khi kinh tế Đức dần phục hồi, Adofl và vợ Käthe đã lèo lái Adidas tăng trưởng mạnh. Käthe tham gia vào việc bán hàng, quản lý nhân lực, giúp Adolf tập trung vào việc ông làm tốt nhất. Đến thập niên 60, Adidas đã có hơn 500 nhân viên và là hãng sản xuất giày thể thao lớn nhất thế giới.

Adolf được mô tả là người tận tụy với công việc. Ông nghiên cứu rất kỹ chuyển động của các vận động viên để có ý tưởng cho sản phẩm mới, đặc biệt là khi các môn thể thao bắt đầu được phát trên TV. Năm 50 tuổi, Adolf vẫn chơi nhiều môn thể thao để bám sát quá trình phát triển sản phẩm.

Năm 1986, nhóm nhạc Mỹ Run-DMC sáng tác ca khúc My Adidas để thể hiện sự yêu thích của mình với sản phẩm của hãng này. Người hâm mộ của nhóm sau đó đã đổ xô mua giày Adidas. Ấn tượng với việc này, Adidas đã ký thỏa thuận trị giá 1,6 triệu USD với Run-DMC, tạo nên một trong những vụ hợp tác đáng nhớ nhất lĩnh vực giày thể thao.

Adidas sau đó tích cực liên kết với giới nghệ sĩ để quảng bá thương hiệu. Hãng này nổi tiếng với việc hợp tác với các vận động viên và rapper. Cầu thủ bóng đá David Beckham và huyền thoại boxing Muhammad Ali cũng từng hợp tác với Adidas.

Adolf qua đời năm 1978. Käthe sau đó tiếp tục điều hành công ty cùng con trai Horst cho đến khi bà mất năm 1984.

Hiện tại, Adidas là một trong những thương hiệu trang phục thể thao hàng đầu thế giới, bên cạnh Nike hay Puma. Doanh thu năm 2021 của Adidas là 25 tỷ USD, tăng 10% so với năm 2020. Lợi nhuận hoạt động là 2,3 tỷ USD.

Tính đến 2022, riêng mảng giày dép, Adidas chiếm khoảng 10% thị phần toàn ngành.

Hà Thu (theo The Richest, Game Plan A)

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer

3 xu hướng lớn của bán lẻ năm 2023

Bước sang năm 2023, xu hướng lớn nhất của các nhà bán lẻ là mở rộng kênh bán, đưa sản phẩm lên nhiều nền tảng kinh doanh khác nhau, tận dụng sức mạnh của các kênh bán hàng trực tuyến. Bán hàng đa kênh sẽ tiếp tục thể hiện ưu thế. Người mua hàng sẽ trở thành “người tiêu dùng kỹ thuật số”, tiếp tục duy trì hay thậm chí gia tăng sử dụng các nền tảng thương mại điện tử và mua sắm trực tuyến trong 12 tháng tới…

3 xu hướng lớn của bán lẻ năm 2023
3 xu hướng lớn của bán lẻ năm 2023

Những nhận định dự báo này vừa được nền tảng quản lý và bán hàng đa kênh Sapo đưa ra ngày 4/1/2023 dựa trên kết quả khảo sát hơn 15.000 nhà bán hàng trên toàn quốc về tình hình kinh doanh năm 2022.

BÁN LẺ ĐA KÊNH NGÀY CÀNG ĐƯỢC NHÂN RỘNG

Tình hình kinh doanh ngành bán lẻ năm 2022 có nhiều sự khởi sắc về doanh thu, quy mô kinh doanh cũng như kênh bán hàng, vận chuyển và thanh toán. Kết quả khảo sát ghi nhận sự phục hồi về doanh thu năm 2022.

Tỷ lệ nhà bán hàng có sự tăng trưởng doanh thu chiếm 37,72%, cao hơn năm 2021 (23,88%) và năm 2020 (30.7%). Số lượng nhà bán hàng có sự tăng trưởng trên 30% doanh thu chiếm 6,36%.

Phần lớn những nhà bán lẻ có sự tăng trưởng doanh thu năm 2022 đang kinh doanh trong lĩnh vực thời trang- phụ kiện, mỹ phẩm, tạp hóa- siêu thị mini và đồ chơi. Các nhà bán lẻ ghi nhận doanh thu giảm sút trên 30% chủ yếu kinh doanh trong nhóm ngành đồ gia dụng, sinh hoạt; đồ mẹ và bé; thuốc và thực phẩm chức năng.

Phân tích nguyên nhân tạo sự tăng trưởng doanh thu này, bà Dung Lê, Giám đốc Tăng trưởng, CGO của Công ty Cổ phần Công nghệ Sapo cho rằng, các nhà bán hàng đã sử dụng phương thức kích thích sức mua, đẩy hàng tồn và khai thác lợi thế kinh doanh tốt hơn.

Trong đó, 65,58% nhà bán hàng tạo các chương trình khuyến mại giảm giá, tặng quà, tặng thêm sản phẩm; 22,64% nhà bán hàng áp dụng chương trình tích điểm khi mua hàng, đổi quà dành cho khách hàng thân thiết. Chỉ 1,09% nhà bán không có phương án cụ thể để thúc đẩy doanh thu.

Các nhà bán hàng không sẵn sàng chi quá nhiều cho hoạt động marketing, phần lớn ngân sách marketing chiếm dưới 10% doanh thu (58,3%), tỷ lệ nhà bán hàng chi tiêu ngân sách cho marketing chiếm 10-20% doanh thu là 32,4%…

Ba kênh marketing được ưa chuộng nhất và được đổ nhiều chi phí là: quảng cáo trên mạng xã hội, tiếp thị tại cửa hàng, quảng cáo trên sàn thương mại điện tử, đại diện Sapo thông tin.

Xu hướng mở rộng bán hàng đa kênh cũng được thể hiện rõ rệt với 57,65% nhà bán hàng đang kinh doanh trên ít nhất hai kênh (tại cửa hàng và một số kênh online).

Tỷ lệ người kinh doanh chỉ bán offline tại cửa hàng chiếm  23,71% và người kinh doanh chỉ bán online chiếm 17,35%.

Mặt khác, nhà bán hàng đa kênh thể hiện ưu thế về doanh thu so với các nhà bán hàng chỉ bán trực tiếp tại cửa hàng hoặc chỉ bán online.

Người bán hàng đa kênh ghi nhận sự tăng trưởng doanh thu chiếm 68,01%, trong khi đó tỉ lệ này với người bán hàng online là 16,9% và người chỉ bán tại cửa hàng là 15,07%

Trong số các kênh bán hàng trực tuyến, sàn thương mại điện tử được ưa chuộng nhất với tỷ trọng 49,69% nhà bán hàng sử dụng, tiếp đó là mạng xã hội Facebook (39,13%), website (9,94%). TikTok Shop- kênh bán hàng mới xuất hiện trong năm 2022 hiện chỉ chiếm 1,24% tỷ trọng nhưng đang là xu hướng khai thác và chuyển dịch của nhà bán hàng.

Tuy nhiên, khi đánh giá tổng quan mức độ hiệu quả của các kênh, kênh bán tại cửa hàng vẫn được ưa chuộng nhất (đạt 7,2/ 10 điểm). Tiếp đó là kênh mạng xã hội đạt 6,9 điểm, sàn thương mại điện tử đạt 6,67 điểm, website chiếm 5,76 điểm.

THANH TOÁN TIỀN MẶT TRỞ LẠI NGÔI VỊ SỐ 1

Quá trình phục hồi kinh tế sau dịch bệnh và giãn cách xã hội đã tác động và tạo ra nhiều thay đổi trong lĩnh vực thanh toán và vận chuyển.

Đáng chú ý, tiền mặt quay trở lại ngôi vị số 1 trong nhóm phương thức thanh toán được người mua hàng sử dụng nhiều nhất và nhà bán hàng chấp nhận (chiếm 29,46% tỷ trọng). Năm 2021, hình thức thanh toán không tiền mặt- Chuyển khoản lần đầu tiên vượt qua Tiền mặt và lên vị trí top 1.

Tuy nhiên, năm 2022, chuyển khoản đã lùi xuống thứ 2, chiếm 27,95% tỷ trọng. Sự bùng nổ của hình thức Quét mã QR ngân hàng trong năm 2022 đã đưa phương thức này lên Top 3 loại hình thanh toán được chấp nhận nhiều nhất (chiếm 16,69% tỷ trọng), vượt qua Ví điện tử (13,29%).

Có thể nói, phong trào ngân hàng số- chuyển đổi số toàn diện trong ngành ngân hàng năm 2022 cũng tác động trực tiếp đến ngành Bán lẻ.

Hình thức mua trước trả sau (Fundinn, Shopee Pay Later) mới được ra mắt và tích hợp trên sàn thương mại điện tử (eCommerce) trong năm 2022 nên chưa được sử dụng nhiều và chỉ đạt 2,6 điểm tiện lợi. Các phương thức thanh toán mới cần thêm nhiều thời gian để chinh phục thị trường bán lẻ.

3 XU HƯỚNG LỚN CỦA BÁN LẺ NĂM 2023

Kết thúc năm 2022, khoảng 74,5% nhà bán hàng kỳ vọng thị trường năm 2023 sẽ tiếp tục phục hồi và tăng trưởng. Trong đó, 12,18% nhà bán hàng tin tưởng ngành bán lẻ chắc chắn sẽ tăng trưởng mạnh mẽ.

Năm 2023, có 36,18% nhà bán hàng dự định mở rộng quy mô kinh doanh; 29,03% nhà bán hàng dự định đa dạng hóa mặt hàng kinh doanh; chỉ 2,85% nhà bán hàng dự định duy trì và tối ưu chi phí.

Bước sang năm 2023, dự đoán xu hướng lớn nhất của các nhà bán lẻ là mở rộng kênh bán, đưa sản phẩm lên nhiều nền tảng kinh doanh khác nhau, tận dụng sức mạnh của các kênh bán hàng trực tuyến.

Theo bà Dung, bán hàng đa kênh sẽ tiếp tục thể hiện ưu thế. Thương mại điện tử sẽ tiếp tục trở thành đầu tàu trong sự tăng trưởng của nền kinh tế số Việt Nam.

Người mua hàng của ngành bán lẻ sẽ trở thành người tiêu dùng kỹ thuật số, tiếp tục duy trì hay thậm chí gia tăng sử dụng các nền tảng thương mại điện tử và mua sắm trực tuyến trong 12 tháng tới.

Mua sắm giải trí, sáng tạo nội dung số đi kèm với tiếp thị sản phẩm (Shoppertainment) sẽ tiếp tục là xu hướng chủ đạo trong những năm tới.

Lượng bán hàng trung bình liên quan tới các nền tảng giải trí, streaming và các sản phẩm liên quan đến các nhà sáng tạo nội dung sẽ tăng mạnh.

Xu hướng thứ ba là cải tiến vận hành, quản trị doanh nghiệp trong ngành bán lẻ. Sau thời gian chống chọi với dịch bệnh, các nhà bán lẻ bước vào thời kỳ khôi phục và tăng trưởng doanh thu, bước đầu chú trọng đến yếu tố duy trì và phát triển kinh doanh từ bên trong.

Đó chính là nguồn lực nội tại từ nhân sự, vận hành cửa hàng và quản trị doanh nghiệp bán lẻ. Ứng dụng công nghệ và phần mềm quản lý bán hàng sẽ giúp chủ cửa hàng mở rộng kinh doanh và vận hành hiệu quả, hỗ trợ vận hành cửa hàng offline, thúc đẩy kênh bán hàng online và tăng trưởng đa kênh (Omni Channel).

Tuy nhiên, 25,43% nhà bán hàng tỏ ra bi quan với tình hình kinh doanh năm 2023, dự đoán tình hình địa chính trị trên thế giới tiếp tục biến động, kinh tế suy thoái, tỷ lệ lạm phát tăng,… sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến công việc kinh doanh trong ngành bán lẻ.

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer

Hà Anh  | MarketingTrips   

Ngành bán lẻ và tiêu dùng bùng nổ doanh số cuối năm

Bán lẻ và tiêu dùng đang dần trở thành ‘điểm tựa’ vững chắc cho nền kinh tế. Sau khi bị ‘nén chặt’ trong hơn 2 năm Covid-19, bán lẻ và tiêu dùng trong các tháng qua đang thực sự bùng nổ và ghi nhận mức tăng trưởng 15% so với cùng kỳ năm 2019 – thời điểm chưa có Covid-19.

Ngành bán lẻ và tiêu dùng bùng nổ doanh số cuối năm
Ngành bán lẻ và tiêu dùng bùng nổ doanh số cuối năm

Hoạt động thương mại và dịch vụ tiêu dùng sôi động hơn về tháng cuối năm nên tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng này tăng 2,6% so với tháng 10 và tăng 17,5% so với cùng kỳ năm trước, theo Tổng cục Thống kê.

Tính chung 11 tháng qua, con số trên đã nâng lên 5.180,5 nghìn tỷ đồng, tăng gần 20,5% so với cùng kỳ năm trước, nếu loại trừ yếu tố giá tăng 16,9% (cùng kỳ năm 2021 giảm 6,8%). Đồng thời tăng 14,9% so với cùng kỳ năm 2019 – thời điểm chưa có dịch Covid-19.

Mặc dù vậy, quy mô tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng 11 tháng qua chỉ đạt 82,5% quy mô của chỉ tiêu này nếu ước tính trong điều kiện bình thường không xảy ra dịch Covid-19 từ năm 2020 đến nay.

Cụ thể, doanh thu du lịch lữ hành ghi nhận mức tăng trưởng nhanh nhất trong các hoạt động thương mại và dịch vụ vào 11 tháng qua, khi đạt 22,9 nghìn tỷ đồng, gấp 4,1 lần so với cùng kỳ năm 2021.

Trong đó, Đà Nẵng là thành phố có doanh thu du lịch lữ hành tăng mạnh nhất với 867%; tiếp theo là Cần Thơ tăng 647,3%; Hà Nội tăng 322,8%; Hải Phòng tăng 261,3%; Thành phố Hồ Chí Minh tăng 191,6%; Quảng Ninh tăng 52,1%.

Doanh thu dịch vụ lưu trú và ăn uống 11 tháng qua đạt gần 536,3 nghìn tỷ đồng, tăng gần 56,5% so với cùng kỳ. TP.HCM ghi nhận doanh thu tăng mạnh nhất cả nước với 121,7%. Một số địa phương cũng tăng trưởng 2 con số gồm Cần Thơ, Hà Nội, Đà Nẵng, Đồng Nai, Quảng Ninh, Bình Dương.

Doanh thu bán lẻ hàng hóa 11 tháng qua đạt gần 4.079,4 nghìn tỷ đồng, tăng 14,8% so với cùng kỳ năm trước. Một số địa phương ghi nhận doanh thu bán lẻ hàng hóa tăng trưởng hai con số so với cùng kỳ năm trước gồm Khánh Hòa (tăng 30%), TP.HCM (tăng 26,8%), Bình Dương, Cần Thơ, Đà Nẵng, Quảng Ninh, Hà Nội.

Do nhu cầu đi lại, du lịch của người dân tăng cao sau khi dịch Covid-19 được kiểm soát, cùng với hoạt động thương mại và dịch vụ ‘đột phá’ liên tục trong các tháng qua, vận tải hành khách gần cũng khôi mục mạnh mẽ. Số lượt hành khách vận chuyển trong tháng 11 duy trì đà tăng trưởng tích cực tăng 2,2% và luân chuyển tăng 3,2% so với tháng trước.

Tính chung 11 tháng qua, vận chuyển hành khách tăng 48,7% so với cùng kỳ năm trước, luân chuyển hành khách tăng 71,4%.

Trong đó, vận tải trong nước đạt 3.346,2 triệu lượt khách, tăng 48,5%; vận tải ngoài nước có sự phục hồi tích cực với 4,2 triệu lượt khách, gấp 32,4 lần so với cùng kỳ năm trước và 13,2 tỷ lượt khách.km luân chuyển, gấp 27,8 lần so với cùng kỳ năm trước.

Tuy nhiên, Tổng cục Thống kê đánh giá: vận tải hành khách mặc dù đã có nhiều khởi sắc nhưng sản lượng vận chuyển 11 tháng năm nay chỉ bằng 72,6% và luân chuyển bằng 68,4% so với cùng kỳ năm 2019 – thời điểm chưa có dịch Covid-19.

Cùng màu với bức tranh chung của hoạt động bán lẻ và dịch vụ, ngành hàng không cũng đang phục hồi mạnh mẽ trong 11 tháng qua khi ghi nhận 45,1 triệu lượt khách, tăng 3,2 lần so với cùng kỳ năm trước và luân chuyển 51,4 tỷ hành khách.km, tăng gần 4 lần.

Nhờ Việt Nam đã mở cửa du lịch, các đường bay quốc tế được khôi phục trở lại, khách quốc tế đến Việt Nam cũng đang ghi nhận những tín hiệu tích cực đầu tiên khi tháng 11 có 596,9 nghìn lượt người, tăng 23,2% so với tháng trước và gấp 39,7 lần so với cùng kỳ năm trước.

Tính chung 11 tháng đầu năm nay, khách quốc tế đạt 2.954,2 nghìn lượt người, gấp 21 lần so với cùng kỳ năm trước nhưng vẫn giảm 82% so với cùng kỳ năm 2019 – thời điểm chưa có dịch Covid-19.

Cụ thể, khách đến bằng đường hàng không đạt 2.627,2 nghìn lượt người, chiếm 89% lượng khách quốc tế đến Việt Nam và gấp 27 lần so với cùng kỳ năm trước; bằng đường bộ đạt 326,1 nghìn lượt người, gấp 7,6 lần; bằng đường biển đạt 855 lượt người, tăng 1,7 lần.

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer

Hà Anh  | MarketingTrips   

Các đại gia ngành bán lẻ vẫn tích cực với cuộc đua giành thị phần

Thị trường bán lẻ đang chứng kiến cuộc đua khốc liệt giữa các ông lớn trong việc mở rộng điểm bán, chiếm lĩnh thị phần.

retail là gì
Retail là gì? Thấu hiểu về ngành hàng Retails

Mặc dù có nhiều lo ngại về nguy cơ lạm phát, suy thoái kinh tế ảnh hưởng đến sức mua, chi phí đầu vào của một số mặt hàng tăng khiến giá tăng ảnh hưởng đến sức mua của người tiêu dùng, tuy nhiên thị trường bán lẻ vẫn đang chứng kiến cuộc đua khốc liệt của các ông lớn trong việc mở rộng điểm bán, chiếm thị phần.

Đơn cử như, đầu tháng 11 vừa qua, THISO thành viên của Tập đoàn THACO đã khai trương siêu thị Emart thứ hai tại khu đô thị Sala thuộc TP. Thủ Đức (TP.HCM).

Dù có mặt tại Việt Nam 7 năm nhưng tập đoàn bán lẻ lớn nhất Hàn Quốc Emart gặp nhiều khó khăn trong việc mở rộng kinh doanh. Tuy nhiên, chỉ một năm sau khi bắt tay với THACO thì siêu thị mang thương hiệu Emart thứ hai được khai trương.

Dù gia nhập “cuộc chơi” muộn hơn nhưng ông Trần Bá Dương, Chủ tịch Tập đoàn THACO Trần Bá Dương không hề dấu tham vọng khi đặt mục tiêu đạt 20 siêu thị đến năm 2026.

Doanh thu mảng bán lẻ của THACO trong 5 năm tới đạt 1 tỷ USD, trở thành đại siêu thị có thị phần số 1 tại Việt Nam.

Siêu thị Emart sẽ đi theo chiến lược bắt đầu từ những thị trường đông dân, có tiềm năng.

Sau khi các đại siêu thị hiện hữu đảm bảo hệ thống tiêu chí cơ bản về doanh thu và tỷ suất lợi nhuận thì THACO sẽ phát triển mô hình cửa hàng nhỏ mà Emart thành công trên thế giới.

Cùng thời điểm với THISO, tập đoàn bán lẻ hàng đầu Thái Lan là Central Retail cũng vừa mở thêm hai trung tâm thương mại mới là GO! Phú Thạnh ở TP.HCM và GO! Bình Dương.

GO là tên gọi mới của một cái tên đã hết sức quen thuộc với người tiêu dùng Việt Nam là BigC, được Central Retail thay đổi sau khi mua lại từ Tập đoàn Casino (Pháp).

Mới đây Central Retail cũng tiết lộ kế hoạch chi 30 tỷ Baht (tương đương 790 triệu USD) để mở rộng gấp đôi quy mô điểm bán tại Việt Nam từ 340 cửa hàng lên ít nhất 710 cửa hàng vào năm 2026.

Ông lớn bán lẻ đến từ Nhật Bản là AEON cũng dự định sẽ tăng từ 6 trung tâm thương mại như hiện nay lên 16 tới năm 2025.

Một ông lớn bán lẻ nội, được coi “anh cả” về tuổi đời trên thị trường là Saigon Co.op sau thời gian chững lại do lãnh đạo dính pháp lý thì năm nay cũng dự kiến mở thêm 100 siêu thị.

Hệ thống bán lẻ được nhắc đến nhiều nhất trong thời gian qua là WinMart thuộc Tập đoàn Masan cũng tiếp tục mở rộng điểm bán.

Cụ thể mới đây ông Nguyễn Đăng Quang, Chủ tịch HĐQT Tập đoàn Masan cho biết, để thúc đẩy chiến lược Point of Life, Masan đã khai trương 30 cửa hàng WIN trong quý 3.

Thời gian tới, Masan sẽ ra mắt mô hình cửa hàng mới phục vụ người tiêu dùng tại khu vực nông thôn.

“Tới thời điểm này, Masan đã nắm giữ 50% thị phần cửa hàng bán lẻ hiện đại trên toàn quốc và chúng tôi không ngừng đổi mới để phục vụ người tiêu dùng các trải nghiệm vượt trội”, ông Quang nói thêm.

Được biết đến là đơn vị duy nhất sở hữu cả hệ thống phân phối hành tiêu dùng nhanh (Bách Hoá Xanh) và hàng tiêu dùng lâu bền (Điện Máy Xanh), Thế Giới Di Động là công ty duy nhất đi “ngược chiều” khi cho biết trong quý 4/2022 sẽ tạm dừng mở mới cửa hàng ở tất cả các chuỗi.

Tuy nhiên việc tạm dừng của Thế Giới Di Động không áp dụng đối với một số ít cửa hàng đang thử nghiệm hoặc các cửa hàng mang lại lợi nhuận ngay.

Nhiều triển vọng

Trái ngược với tình trạng ảm đạm khi hàng loạt các cửa hàng phải đóng cửa để chống dịch cách đây một năm, hiện nay thị trường bán lẻ đã sôi động trở lại.

Cụ thể, khảo sát của Công ty cổ phần Báo cáo Đánh giá Việt Nam (Vietnam Report), tính chung 9 tháng đầu năm 2022, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng đạt 4.170 nghìn tỷ đồng, tăng 21% so với cùng kỳ năm trước.

Kết quả kinh doanh trong tháng 8/2022 cũng cho thấy 53,8% số doanh nghiệp bán lẻ đã bằng và vượt mức trước đại dịch.

Điều này cho thấy ngành bán lẻ đang dần bắt kịp tốc độ tăng của cùng kỳ các năm trước khi xảy ra dịch Covid-19.

Tuy nhiên tốc độ tăng trưởng giữa các doanh nghiệp bán lẻ có sự phân hóa giữa các nhóm hàng hóa khác nhau.

Đơn cử doanh nghiệp bán lẻ hàng lâu bền tăng trưởng cao so với hàng tiêu dùng nhanh.Còn những doanh nghiệp có quy mô lớn, chiến lược kinh doanh bài bản ghi nhận tốc độ tăng trưởng ấn tượng hơn so với nhóm doanh nghiệp còn lại.

Dựa vào những lợi thế của thị trường Việt Nam như GDP tiếp tục tăng trưởng, tỷ lệ dân số ở độ tuổi từ 30 đến 40 lớn nên 92% số doanh nghiệp cho rằng triển vọng kinh doanh của toàn ngành bán lẻ những tháng cuối năm 2022 sẽ khả quan.

Chỉ có 16% doanh nghiệp tỏ ra thận trọng do lo ngại lạm phát và suy thoái kinh tế đang trở thành rủi ro lớn nhất hiện nay đối với tăng trưởng ngành bán lẻ.

Bên cạnh đó, thị trường bán lẻ cũng đang thay đổi theo hướng mua sắm trực tuyến sẽ trở nên phổ biến hơn nhờ 2 động lực là: dịch Covid-19 thúc đẩy hoạt động mua sắm trực tuyến trở thành thói quen của người dùng; điện thoại thông minh, thiết bị di động và dịch vụ internet ngày càng phổ biến.

Còn theo Cushman & Wakefield đánh giá thị trường bán lẻ đã qua thời thương hiệu nội hay ngoại, mà doanh nghiệp bán lẻ nào nhanh tay hơn và có chiến lược trong việc tập trung vào trải nghiệm của khách hàng sẽ dành chiến thắng.

Sau thời gian “thử nghiệm” bán hàng trực tuyến bất đắc dĩ mùa giãn cách, các nhà bán lẻ đã tự tin hơn, cũng như thói quen của người tiêu dùng trong và sau Covid-19 cũng thay đổi, đòi hỏi những toan tính mới của chính mỗi doanh nghiệp hơn khi triển khai mô hình kinh doanh kết hợp đa kênh (Omni Channel).

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer

Hà Anh  | MarketingTrips   

Metaverse Retail: Trải nghiệm khách hàng sẽ là chìa khoá

Metaverse Retail – Trong hàng chục năm qua, sự phát triển của các yếu tố công nghệ đã làm thay đổi cách các doanh nghiệp retail (bán lẻ) vận hành doanh nghiệp của họ, trong Metaverse, điều này sẽ lại tiếp tục tái diễn.

Metaverse Retail: Tại sao trải nghiệm khách hàng (CX) là chìa khoá
Metaverse Retail: Tại sao trải nghiệm khách hàng (CX) là chìa khoá

Dưới những ảnh hưởng của COVID-19, các công nghệ mới như thực tế ảo (VR), thực tế mở rộng (XR) và thực tế hỗn hợp (MR) hay thực tế tăng cường (AR) đang làm thay đổi hành vi của người tiêu dùng và kỳ vọng của họ về trải nghiệm mua sắm.

Ngành bán lẻ hay Retail theo đó cũng đang chuyển hướng sang Metaverse.

Nếu như cách đây nhiều năm về trước, các công nghệ hay trải nghiệm nhập vai (immersive experience) chỉ được tìm thấy trong sách vở hay phim khoa học viễn tưởng, và sau đó là trong ngành công nghiệp game.

Ngày nay, các công nghệ hay trải nghiệm này đang dần trở nên phổ biến hơn và chúng chính là sức mạnh của vũ trụ ảo metaverse – xu hướng được dự báo là sẽ có tác động không hề nhỏ đến hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp Retail và hơn thế nữa.

Theo một nghiên cứu về hành vi người tiêu dùng của Raydiant năm 2022, 56,6% người trả lời khảo sát thích mua sắm trực tuyến hơn là trực tiếp – tăng 10% so với năm 2020.

Trong một nghiên cứu khác của PwC, khoảng 32% người dùng VR đã mua sắm trên nền tảng VR (VR platforms) trong nửa đầu năm 2022.

Trong một báo cáo về xu hướng truyền thông mạng xã hội 2023, Bà Betsy Morse Rohtbart, Phó chủ tịch phụ trách Web và eCommerce toàn cầu tại Vonage, cho biết:

“Bằng cách sử dụng các công nghệ truyền thông thông qua các nền tảng mạng xã hội và nhắn tin (chẳng hạn như WhatsApp), các nhà bán lẻ trực tuyến đang tạo ra những bước đột phá so với các doanh nghiệp kinh doanh truyền thống và bằng cách này, các doanh nghiệp đang chuyển từ các giao dịch mua hàng 1 lần (one-time transactions) thành các cuộc đối thoại và bán hàng đa chiều”.

Người tiêu dùng mong đợi các cửa hàng ưu tiên kỹ thuật số, tập trung vào tốc độ, sự tiện lợi và cả yếu tố cộng đồng.

Khi các nhà bán lẻ hướng tới một tương lai mới của ngành bán lẻ, họ sẽ cần phải thay đổi chiến lược của mình để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của khách hàng.”

Báo cáo của Bigcommerce cho thấy rằng, “doanh số thương mại điện tử dự kiến ​​sẽ vượt qua 740 tỷ USD chỉ riêng ở Mỹ vào năm 2023”, trong đó các công nghệ mới nổi, mạng xã hội và thương mại xã hội (Social Commerce) là những thẻ kích hoạt chính.

Retail hướng đến Metaverse để tạo ra các trải nghiệm hấp dẫn cho khách hàng.

Retail hướng đến Metaverse để tạo ra trải nghiệm hấp dẫn cho khách hàng.
Retail hướng đến Metaverse để tạo ra trải nghiệm hấp dẫn cho khách hàng.

Dữ liệu cho thấy các xu hướng nói trên sẽ tiếp tục phát triển trong những năm tới và các doanh nghiệp cần phải nâng cấp chiến lược đa kênh (omni channel) của mình, tìm ra các kênh marketing mới để tối đa hoá trải nghiệm của khách hàng và hơn thế nữa.

Theo dự đoán mới của Forrester: “Vào năm 2023, các nền tảng công nghệ lớn như ứng dụng Zoom, Slack, Webex hoặc Google – sẽ bổ sung các tính năng kiểu Metaverse 3D để tiếp cận hàng chục triệu người dùng tiềm năng.”

Forrester cũng dự đoán thêm rằng “mức độ chấp nhận các trải nghiệm kém của thương hiệu cũng sẽ giảm dần, hay nói cách khác, khách hàng sẽ ngày càng ít kiên nhẫn hơn với các thương hiệu mang lại cho họ những cảm giác không hài lòng, đồng thời “các doanh nghiệp nên tăng cường đội ngũ chăm sóc trong năm 2023 khi khách hàng ngày càng khó chiều hơn.”

Trong Metaverse Retail, trải nghiệm của khách hàng là chìa khóa.

Ông Scott Keeney, Giám đốc Metaverse (CMTO) tại TSX Entertainment, cho biết trải nghiệm khách hàng (CX) là một khía cạnh quan trọng của ngành Retail và nó cũng sẽ diễn ra theo cách tương tự trong Metaverse.

“Chúng ta cần ngừng nói về các điều khoản hay thuật ngữ mang tính kỹ thuật và chỉ cần tập trung tạo ra những trải nghiệm tuyệt vời. Bởi vì người tiêu dùng không quan tâm đến việc bữa ăn được nấu như thế nào. Họ chỉ muốn thứ gì đó ngon và tốt cho sức khỏe.”

Trong Metaverse, người dùng có thể quyết định xem họ muốn trưng bày những gì, khi nào và như thế nào trong cửa hàng của mình, điều này giúp cho việc quản lý một cửa hàng ảo trở nên toàn diện, dễ dàng và nhanh chóng hơn.

Xu hướng của tương lai.

Dưới đây là một số xu hướng công nghệ được dự báo là sẽ phát triển mạnh trong vũ trụ ảo Metaverse.

  • Web 3D: Các thương hiệu đang ngày càng tìm cách xây dựng trải nghiệm 3D với môi trường chân thực cho phép khách hàng của họ tương tác một cách có ý nghĩa trong Metaverse.
  • Nền tảng trò chơi (Gaming platforms): Với một tỷ người dùng ngày nay đang chơi trò chơi trên các nền tảng game Metaverse như Roblox, Zepeto và Fortnite, các thương hiệu đang tìm cách tiếp cận lượng đối tượng khổng lồ này.
  • Hình đại diện (Avatars): Các thương hiệu hiện đang sử dụng hình đại diện làm người dẫn chương trình, trợ lý bán hàng, người mẫu và hơn thế nữa. Các nhân vật ảo sẽ tiếp tục phát triển trong những năm tới.

Xem thêm:

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer

Nam Nguyen | MarketingTrips

Bán lẻ là gì? Các loại hình bán lẻ tại Việt Nam và Thế giới

Trong phạm vi bài viết này, chúng ta sẽ cùng tìm hiểu tất cả các thông tin về thuật ngữ Bán lẻ (tiếng Anh là Retail) như: Bán lẻ là gì, Bán lẻ được hiểu như thế nào, Các loại hình bán lẻ phổ biến, thị trường bán lẻ là gì, Tổng quan về ngành hàng Bán lẻ trên thế giới và tại Việt Nam, một số thương hiệu có giá trị nhất toàn cầu trong ngành Bán lẻ và hơn thế nữa.

bán lẻ là gì
Bán lẻ là gì? Tìm hiểu toàn diện về ngành Bán lẻ (Retail)

Với giá trị thị trường (Market Size) đạt mức hơn 26.000 tỷ USD vào năm 2021 và dự kiến sẽ chạm mốc hơn 30.000 tỷ USD vào năm 2025, Bán lẻ (Retail) được xem là một trong những ngành hàng có giá trị lớn nhất toàn cầu, vậy Bán lẻ là ngành gì và ngành Bán lẻ bao gồm những thành phần nào.

Các nội dung sẽ được MarketingTrips phân tích trong bài bao gồm:

  • Bán lẻ là gì?
  • Sự khác biệt giữa Bán lẻ và CPG là gì?
  • Sự khác biệt giữa FMCG và Bán lẻ là gì?
  • Sự khác biệt giữa Bán lẻ và Bán sỉ là gì?
  • Một số lưu ý về khái niệm Bán lẻ mà bạn nên hiểu.
  • Mô hình Bán lẻ là gì?
  • Thuật ngữ Bán lẻ nên được hiểu như thế nào.
  • Các hình thức bán lẻ phổ biến hiện nay là gì?
  • Ngành công nghiệp Bán lẻ.
  • Toàn cảnh về thị trường Bán lẻ tại Việt Nam.
  • Mối quan hệ giữa Bán lẻ và thương mại điện tử (eCommerce) là gì?
  • Các doanh nghiệp hay thương hiệu có giá trị nhất toàn cầu trong ngành hàng Bán lẻ.
  • Một số câu hỏi thường gặp liên quan đến ngành hàng Bán lẻ là gì?

Bên dưới là nội dung chi tiết.

Bán lẻ là gì?

Bán lẻ trong tiếng Anh có nghĩa là Retail.

Bán lẻ là khái niệm đề cập đến một mô hình kinh doanh trong đó các doanh nghiệp Bán lẻ hay còn được gọi là nhà Bán lẻ sẽ bán trực tiếp hàng hoá và dịch vụ đến người tiêu dùng.

Các doanh nghiệp Bán lẻ hay nhà Bán lẻ này có thể nhập hàng (thường là với số lượng lớn) trực tiếp từ nhà sản xuất hoặc thông qua các nhà bán buôn trung gian để sau đó bán lại cho người tiêu dùng cuối (với số lượng nhỏ hơn), và kiếm lợi nhuận từ sự chênh lệch về giá (chiết khấu) trong quá trình mua và bán.

Trải qua nhiều khoảng thời gian hình thành và phát triển, cùng với đó là sự ảnh hưởng và chi phối bởi các yếu tố công nghệ, ngành Bán lẻ đã có những sự thay đổi vượt bậc.

Từ những cửa hàng tạp hoá nhỏ lẻ và “thô sơ” hay các chợ truyền thống, đến các cửa hàng tạp hoá hiện đại, siêu thị mini, đại siêu thị, đến các gian hàng Bán lẻ thương mại điện tử.

Ngành hàng Bán lẻ hiện đại nói chung vô cùng đa dạng.

Theo thống kê từ Statista, dung lượng thị trường của ngành Bán lẻ toàn cầu có giá trị hơn 26.000 tỷ USD vào năm 2021 và dự kiến chạm mốc hơn 30.000 tỷ USD trong năm 2025.

Thị trường Bán lẻ là gì?

Thị trường Bán lẻ đơn giản là thị trường (địa điểm, phạm vi) hay nơi diễn ra các hoạt động Bán lẻ giữa các đối tượng tham gia vào quá trình Bán lẻ như nhà Bán lẻ, người tiêu dùng, hay nhà sản xuất.

Sự khác biệt giữa Bán lẻ và CPG là gì?

Trong khi cả Bán lẻ và CPG đều liên quan đến các hoạt kinh doanh mua bán, tức hàng hoá được chuyển từ người bán (seller) tới người mua (buyer), 2 thuật ngữ này lại mang ý nghĩa hoàn toàn khác nhau.

Như đã phân tích ở trên, ngành Bán lẻ mô tả các doanh nghiệp bán trực tiếp hàng hoá và dịch vụ tới người tiêu dùng (thường là người tiêu dùng cuối), những sản phẩm này có thể tiêu dùng được (consumable) và cũng có thể là không.

Ví dụ như nhà Bán lẻ Walmart bán các sản phẩm có thể tiêu dùng được nhưng nhà Bán lẻ Ikea lại bán mặt hàng nội thất và tất nhiên là không tiêu dùng được.

Ngược lại, với CPG (Consumer Packaged Goods), cụm từ “Consumer” mang ý nghĩa là tiêu dùng được (cũng tương tự chữ cái “C” trong ngành hàng FMCG), CPG có mối quan hệ chăt chẽ với FMCG và là “tập cha” của FMCG.

Các doanh nghiệp CPG cũng có thể là các doanh nghiệp Bán lẻ, tức Nhà Bán lẻ và ngược lại, các doanh nghiệp Bán lẻ cũng có thể là doanh nghiệp CPG.

Ví dụ, các gã khổng lồ Bán lẻ như Amazon cũng tự sản xuất và bán các nhãn hàng riêng (Private Label), điều này có nghĩa là họ vừa là doanh nghiệp Bán lẻ vừa là doanh nghiệp CPG khi họ cũng có sản xuất, đóng gói và bán cho người tiêu dùng (cuối).

Tuy nhiên, trong thực tế, các doanh nghiệp này thường tập trung chính vào ngành hàng chính của họ, tức là các doanh nghiệp CPG sẽ chỉ tập trung sản xuất đóng gói sau đó bán hàng thông qua hệ thống các doanh nghiệp Bán lẻ.

Ngược lại, các doanh nghiệp Bán lẻ thường ít khi tự sản xuất và đóng gói (vì không hiệu quả – bạn có thể tự kiểm chứng điều này bằng việc khi bạn đi các siêu thị như Big C, có rất nhiều nhãn hàng mang thương hiệu riêng của Big C nhưng dường như rất ít người tiêu dùng quan tâm) mà thay vào đó họ chỉ đóng vai trò chình là Nhà Bán lẻ, nhập hàng từ doanh nghiệp CPG và bán lại cho người tiêu dùng cuối.

Do đó, một trong những điểm khác biệt nữa giữa Bán lẻ và CPG đó là đối tượng khách hàng mà các doanh nghiệp này bán hàng và phục vụ.

Đối tượng khách hàng của Bán lẻ thường là người tiêu dùng cuối. Còn đối tượng của các doanh nghiệp CPG hay FMCG là các nhà Bán lẻ hay đại lý phân phối trung gian khác.

Sự khác biệt giữa FMCG và Bán lẻ là gì?

Sự khác biệt giữa FMCG và Bán lẻ là gì?
Sự khác biệt giữa FMCG và Bán lẻ là gì?

FMCG là “tập con” của CPG, sự khác biệt giữa FMCG và Bán lẻ cũng tương tự như cách mà CPG tách biệt với Bán lẻ.

Trong khi các doanh nghiệp FMCG như Vinamilk hay Masan liên quan đến việc bán hàng hoá thông qua các doanh nghiệp Bán lẻ (chẳng hạn như Big C hay Co.op Mart), Nhà Bán lẻ là đơn vị bán lại hàng hoá đó cho người tiêu dùng cuối (chẳng hạn như việc bạn đi siêu thị Big C và mua sữa Vinamilk).

Về mặt tổng thể trong toàn bộ chuỗi cung ứng (supply chain), Bán lẻ là mắt xích cuối cùng cung cấp hàng hoá và tiếp xúc trực tiếp với người tiêu dùng.

Sự khác biệt giữa Bán lẻ và Bán sỉ (Bán buôn) là gì?

Bán lẻ hay Nhà Bán lẻ sẽ là đơn vị bán hàng trực tiếp cho người tiêu dùng cuối và do đó họ thường bán với số lượng nhỏ và giá bán là mức giá cuối cùng mà người tiêu dùng phải trả.

Ngược lại, Nhà bán sỉ tức các doanh nghiệp bán sỉ sẽ bán với số lượng lớn và thường là kèm mức giá chiết khấu cho các đơn vị Bán lẻ khác (hoặc cũng có thể là cá nhân người tiêu dùng muốn mua với số lượng lớn).

“Khách hàng” của Nhà bán sỉ là Nhà Bán lẻ, còn khách hàng của Nhà Bán lẻ là End-consumer, tức người tiêu dùng cuối.

Một số lưu ý về khái niệm Bán lẻ mà bạn nên hiểu.

  • Ngành hàng Bán lẻ là thuật ngữ đề cập đến tất cả các doanh nghiệp kinh doanh có liên quan đến việc Bán lẻ hàng hoá là sản phẩm hoặc dịch vụ tới người tiêu dùng cuối.
  • Các sản phẩm được bán bởi các doanh nghiệp Bán lẻ có thể là hàng tiêu dùng được (consumable) hoặc cũng có thể là không (non – consumable), như MarketingTrips đã đưa ra ví dụ ở trên.
  • Các doanh nghiệp Bán lẻ tức nhà Bán lẻ thường đóng vai trò như là trung gian phân phối cho các sản phẩm từ doanh nghiệp FMCG hay CPG. Trong khi họ hoàn toàn có thể “đóng cả 2 vai”, tuy nhiên vì tính hiệu quả thấp mà điều này ít khi diễn ra trong thực tế.
  • Với tư cách là những người làm Marketing, bạn có thể làm việc ở các doanh nghiệp Bán lẻ chẳng hạn như cho Tiki (Bán lẻ thương mại điện tử) hoặc cho các thương hiệu được phân phối bởi các doanh nghiệp đó, chẳng hạn như cho Nike (được bán trên Tiki).

Mô hình kinh doanh Bán lẻ là gì?

Cũng tương tự bất cứ doanh nghiệp nào khác và hiện đang kinh doanh trong ngành hàng chính là gì, các doanh nghiệp Bán lẻ cũng có các mô hình kinh doanh riêng.

Khái niệm mô hình doanh Bán lẻ đề cập đến cách thức một doanh nghiệp Bán lẻ (Nhà bán lẻ) nào đó xây dựng giá trị cho khách hàng của họ, cho chính doanh nghiệp họ và cao hơn nữa là cho cộng đồng.

Mô hình doanh Bán lẻ tập trung vào các hoạt động hay chiến lược Bán lẻ, cách thức bán hàng, quảng cáo, hay tương tác với nhóm người tiêu dùng cuối.

Tổng quan về ngành công nghiệp Bán lẻ.

Như đã đề cập ở phần đầu bài, toàn bộ thị trường Bán lẻ toàn cầu có giá trị khoảng 27.000 tỷ USD vào năm 2022, trong đó, doanh số đến từ các cửa hàng Bán lẻ vật lý là khoảng gần 20.000 tỷ USD, phần còn lại thuộc về Bán lẻ thương mại điện tử.

Ngành Bán lẻ liên quan đến việc bán hàng hóa và dịch vụ cho người tiêu dùng. Các giao dịch mua bán diễn ra thông qua các kênh phân phối khác nhau trên một loạt các ngành công nghiệp ngày càng phát triển, chẳng hạn như thực phẩm, xe hơi, may mặc hay điện tử.

Trong khi Bán lẻ vật lý vẫn là kênh thống trị trên thị trường này, các hình thức Bán lẻ phi cửa hàng khác cũng đang ngày càng trở nên phổ biến hơn.

Các kênh Bán lẻ trực tuyến hay thương mại điện tử đang dần chiếm thị phần lớn hơn ở nhiều ngành hàng trên các thị trường khác nhau trên toàn cầu.

Bên cạnh đó, để mở rộng quy mô kinh doanh, nhiều nhà Bán lẻ chọn cách vận hành theo mô hình đa kênh (omni channel), nhằm mục tiêu tích hợp cả các kênh trực tuyến lẫn ngoại tuyến một cách liền mạch nhất.

  • Các thị trường Bán lẻ hàng đầu thế giới.

Tính đến thời điểm hiện tại, Mỹ vẫn là thị trường Bán lẻ lớn nhất toàn cầu, trong đó có gã khổng lồ Walmart, Amazon và Costco.

Vào năm 2021, tổng thị trường Bán lẻ của Mỹ đạt doanh thu hơn 6500 tỷ USD, đứng trước thị trường lớn thứ 2 là Trung Quốc với giá trị khoảng 2000 tỷ USD vào năm 2020.

Ấn Độ là thị trường lớn thứ 3 với giá trị ước tính đạt 1200 tỷ USD vào năm 2021.

Tại Châu Âu, Vương quốc Anh và Đức là hai trong số các thị trường Bán lẻ hay Bán lẻ hàng đầu. Năm 2021, doanh số Bán lẻ ở Anh đạt hơn 465 tỷ bảng Anh, tương đương khoảng 560 tỷ euro, trong khi Đức ghi nhận doanh thu Bán lẻ trị giá khoảng 586 tỷ euro.

  • Xu hướng trọng tâm của thị trường Bán lẻ toàn cầu là: Tính bền vững

Trong những năm gần đây, tính bền vững đã trở thành một trong những thước đo quan trọng đối với cả các nhà Bán lẻ và người tiêu dùng.

Trong khi với nhiều người tiêu dùng, họ xem việc mua các sản phẩm gắn liền với tính bền vững không chỉ có lợi cho họ mà còn cho cả động đồng, với các doanh nghiệp, tính bền vững cùng với đó là ESG hay CSR là những quy tắc cần có để có được sự chú ý của các nhà đầu tư cũng như tuân thủ các quy định từ phía chính phủ.

Trong một cuộc khảo sát, hơn 1/3 người tiêu dùng cho biết nếu giá cả là tương đương, họ sẽ ưu tiên lựa chọn các sản phẩm bền vững nhiều hơn.

Các loại hình Bán lẻ chính phổ biến nhất hiện nay.

Các loại hình kinh doanh bán lẻ chính phổ biến nhất hiện nay là gì?
Các loại hình kinh doanh bán lẻ chính phổ biến nhất hiện nay là gì?

Hiện nay, có 3 loại hình kinh doanh Bán lẻ chính:

 Bán lẻ qua các cửa hàng vật lý.

Là loại hình kinh doanh trong đó các doanh nghiệp bán hàng hoá trực tiếp cho người tiêu dùng thông qua các cửa hàng vật lý (Physical Stores/Outlets). Theo số liệu từ Statista, thị phần của loại hình này vẫn chiếm thế chủ đạo với khoảng gần 75% tổng doanh số của toàn ngành Bán lẻ.

Những đại siêu thị như Walmart, hay siêu thị Co.op Mart tại Việt Nam là những ví dụ cho loại hình kinh doanh hay phân phối này.

Bán lẻ thương mại điện tử.

Chiếm khoảng 25% thị phần còn lại trong ngành Bán lẻ, Bán lẻ thương mại điện tử (Bán lẻ trực tuyến) cũng là loại hình đang phát triển với tốc độ chóng mặt trên toàn cầu.

Ở nhiều thị trường, doanh số Bán lẻ thương mại điện tử còn cao hơn cả doanh số đến từ các cửa hàng vật lý truyền thống.

Tính đến 2022, doanh số Bán lẻ thương mại điện tử toàn cầu có giá trị khoảng hơn 5000 tỷ USD.

Bán lẻ qua thiết bị di động.

Ngoài 2 loại hình phổ biến mang tính đại diện nói trên, ngành Bán lẻ còn có một loại hình khác đó là Bán lẻ qua thiết bị di động, đề cập đến tất cả các giao dịch mua bán trên thị trường bán lẻ được thực hiện thông qua thiết bị đi động.

Về bản chất, Bán lẻ qua thiết bị di động là 1 phần của Bán lẻ thương mại điện tử (bao gồm cả PC, Tablet…), tuy nhiên khi ngày càng có nhiều người tiêu dùng sử dụng điện thoại di động làm phương tiện giải trí và mua sắm chính, cùng với đó là sự phát triển mạnh mẽ của các nền tảng (app/platforms) thương mại điện tử, Bán lẻ qua thiết bị di động dần được tách ra như là một loại hình kinh doanh Bán lẻ riêng.

Mối quan hệ giữa Bán lẻ và Thương mại điện tử (eCommerce) là gì?

Nếu như trước đây, ngành hàng Bán lẻ gắn liền với thương mại truyền thống (Traditional Commerce), tức người tiêu dùng chủ yếu mua hàng từ các cửa hàng tạp hoá (gần nhà), các siêu thị, các cửa hàng tiện lợi, chợ và hơn thế nữa, thì giờ đây, khi người tiêu dùng toàn cầu đang ưu tiên mua sắm từ các kênh thương mại điện tử, khi thương mại điện tử (eCommerce) đang mang lại những tiện ích mà các cửa hàng truyền thống không thể có được, mọi thứ đã thay đổi tương đối nhiều.

Theo một báo cáo của Nielsen, các hàng hóa phổ biến nhất được mua qua các kênh trực tuyến liên quan đến thời trang, sản phẩm điện tử hay thậm chí là xe hơi, những sản phẩm vốn trước đây chỉ được mua tại các cửa hàng vật lý.

Trong khi có vô số các thị trường trên toàn cầu, nơi người tiêu dùng ưu tiên mua sắm qua thương mại điện tử nhiều hơn, thậm chí là vượt qua doanh số của các cửa hàng truyền thống, một bài toán đặt ra cho hầu hết các doanh nghiệp Bán lẻ đó là cần quan tâm nhiều hơn đến thương mại điện tử, dù chỉ là một phần hay toàn bộ hệ thống kinh doanh.

Các doanh nghiệp hay thương hiệu có giá trị nhất toàn cầu trong ngành hàng Bán lẻ.

Theo bảng xếp hạng mới nhất tính đến 2022 từ Forbes, Top 10 doanh nghiệp Bán lẻ tức nhà Bán lẻ có giá trị nhất toàn cầu bao gồm:

  • Amazon – Mỹ
  • Walmart – Mỹ
  • Alibaba – Trung Quốc
  • CVS – Mỹ
  • Home Depot – Mỹ
  • Costco – Mỹ
  • Target – Mỹ
  • Walgreens – Mỹ
  • Lowe’s – Mỹ
  • Inditex – Tây Ban Nha.

Hầu hết các thương hiệu Bán lẻ lớn nhất toàn cầu đều đến từ Mỹ.

FAQs – Một số câu hỏi thường gặp liên quan đến ngành hàng Bán lẻ là gì?

  • Chiến lược Bán lẻ là gì?

Trong ngành Bán lẻ, khái niệm chiến lược hay kế hoạch chiến lược đề cập đến các sứ mệnh, tầm nhìn hay định hướng chung nhằm mục tiêu tối ưu hoá sự kết hợp giữa cả sản phẩm và dịch vụ Bán lẻ để từ đó nâng cao trải nghiệm của người tiêu dùng.

Bởi yếu tố môi trường kinh doanh, các nhà xây dựng chiến lược Bán lẻ thường sẽ tổ chức các đợt nghiên cứu thị trường sâu rộng cùng với đó là các bản phân tích cơ hội, xu hướng (vĩ mô và vi mô) cũng như điểm mạnh yếu của doanh nghiệp (theo mô hình ma trận SWOT) trước khi đưa ra các quyết định chiến lược cuối cùng.

  • Marketing Bán lẻ là gì?

Cũng có phần tương tự Digital Marketing hay eCommerce Marketing, khái niệm marketing Bán lẻ đề cập đến các hoạt động marketing trong các doanh nghiệp Bán lẻ.

Các hoạt động marketing tại các doanh nghiệp Bán lẻ thường diễn ra theo mô hình marketing hỗn hợp tức Marketing Mix hoặc IMC, người làm marketing theo đó thực thi tất cả các hoạt động liên quan đến chiến lược giá bán, khuyến mãi, phân phối, sản phẩm, quảng cáo, email marketing và hơn thế nữa.

  • Cửa hàng Bán lẻ là gì?

Là nơi người tiêu dùng có thể mua sản phẩm với số lượng nhỏ (hoặc cũng có thể nhiều hơn) với giá bán cuối cùng (giá Bán lẻ) mà họ phải trả.

  • Giá Bán lẻ là gì?

Là giá Bán lẻ, chính là mức giá cuối cùng mà người tiêu dùng phải trả để có được một sản phẩm nào đó. Ngược lại với giá Bán lẻ là giá bán sỉ hay giá bán buôn (Giá Wholesale), nơi người mua có thể nhận được một khoản chiết khấu (discount) nhất định. Người mua sỉ với giá sỉ có thể Bán lẻ lại với giá Bán lẻ để kiếm lời từ khoản chiết khấu chênh lệch.

  • “Không bao giờ trả giá Bán lẻ” là gì?

“Không bao giờ trả giá Bán lẻ” là một câu nói phổ biến tạm hiểu là bạn nên luôn cố gắng để có thể mua các sản phẩm với giá thấp hơn giá Bán lẻ thông thường. Ý tưởng chính ở đây là nếu bạn sẵn sàng tìm kiếm và trả giá, bạn thường có thể tìm thấy cùng một sản phẩm nhưng với giá thấp hơn. “Không bao giờ trả giá Bán lẻ” thường được sử dụng trong bối cảnh hàng tiêu dùng (FMCG) như quần áo, đồ điện tử và đồ gia dụng.

Kết luận.

Thông qua bài viết phân tích tương đối chi tiết từ MarketingTrips, hy vọng bạn có thể hiểu được những lý thuyết căn bản về một trong những ngành kinh doanh có giá trị nhất toàn cầu đó là Bán lẻ (Retail). Từ việc hiểu bản chất của Bán lẻ là gì, các mô hình kinh doanh trong ngành Bán lẻ đến các nội dung bổ sung khác trong ngành.

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: Link

Nam Nguyen | MarketingTrips

Nguồn: MarketingTrips

Tương lai của ngành bán lẻ sẽ được định hình bởi 4 xu hướng mới

Theo một công bố mới đây từ trường quản trị MIT, có 4 xu hướng mới sẽ định hình tương lai của ngành bán lẻ toàn cầu. Hãy cùng MarketingTrips tìm hiểu chi tiết trong bài viết dưới đây.

tương lai của ngành bán lẻ
Tương lai của ngành bán lẻ sẽ được định hình bởi 4 xu hướng mới

Tương lai của ngành bán lẻ sẽ được định hình bởi nền kinh tế trải nghiệm (experience economy), nền kinh tế hệ sinh thái (ecosystems economy), web3Metaverse.

Michaels, một chuỗi cửa hàng thủ công mỹ nghệ, từng có nhiều nhân viên dạy các lớp nghệ thuật tại một số cửa hàng của công ty.

Để có thể mở rộng mô hình kinh doanh này, Michaels đã xây dựng một nơi (marketplace) mà ở đó có các lớp học do giáo viên địa phương dạy, giáo viên sẽ là người tự định giá và xây dựng nội dung của riêng họ, tất cả các thông tin hay dữ liệu này sẽ được tổng hợp trên một nền tảng duy nhất.

Các sinh viên sau đó sẽ đã đăng ký các lớp học, và hiển nhiên cũng có thể mua đồ dùng ở các cửa hàng của Michaels.

Ông Jonathan Yaffe, CEO của Any Road (Michaels là khách hàng của doanh nghiệp này), một doanh nghiệp chuyên về quản trị trải nghiệm (experience management) cho biết:

“Đó là một nền tảng có hơn 20.000 giáo viên và hàng triệu sinh viên nghệ thuật, nơi mà Michaels nắm giữ mọi thông tin và dữ liệu”.

“Bằng cách sử dụng mô hình thị trường này, bạn thực sự có thể mở rộng quy mô và trải nghiệm, sở hữu tất cả dữ liệu và thực sự tạo ra cộng đồng mà bạn muốn tạo.”

Theo ông Yaffe và các chuyên gia khác tại Hội nghị Chiến lược Nền tảng gần đây cho MIT tổ chức, Michaels đang đón nhận thế hệ bán lẻ kiểu mới – tập trung vào trải nghiệm và nền tảng, đồng thời suy nghĩ lại về cách các cửa hàng nên được thiết kế.

Những xu hướng này sẽ giúp đưa nhiều dữ liệu có giá trị hơn vào tay các thương hiệu và doanh nghiệp bán lẻ (Retail). Khi kết hợp với Web3 và vũ trụ ảo Metaverse, doanh nghiệp thực sự có thể tạo ra những cuộc cách mạng mới trong ngành bán lẻ.

Dưới đây là 4 tầm nhìn hay xu hướng sẽ định hình tương lai của ngành bán lẻ toàn cầu được tổng hợp bởi MarketingTrips.

1. Tương lai của ngành bán lẻ sẽ gắn chặt với kinh tế trải nghiệm (Experience Economy).

Từ các lớp học yoga miễn phí đến những trường cung cấp các lớp học nấu ăn, các doanh nghiệp đang sử dụng trải nghiệm trực tiếp (in-person experiences) để kết nối với khách hàng của họ, ngay cả khi đó không phải là để bán hàng.

Ông Yaffe nói:

“Hầu hết mọi doanh nghiệp đang phát triển mạnh đều là nhờ vào sức mạnh của những trải nghiệm của họ với khách hàng. Chúng ta đang chuyển đổi từ một “nền kinh tế vạn vật” (things economy) thành một “nền kinh tế trải nghiệm” (Experience Economy).

“Tôi tin rằng tương lai của tất cả cuộc sống của chúng ta, và trong lĩnh vực bán lẻ, tất cả đều là dựa trên trải nghiệm.

Tôi nghĩ ngành bán lẻ truyền thống sẽ dần bị thu hẹp hay thậm chí là biến mất, và các nhà bán lẻ có thể tồn tại được trong vòng 10 năm tới đều sẽ là những doanh nghiệp tận dụng tốt yếu tố trải nghiệm để kết nối và bán hàng.”

“Trải nghiệm là phương tiện giúp đưa mọi người dùng đến các cửa hàng, vào hệ sinh thái của doanh nghiệp, đồng thời tạo ra một cộng đồng thương hiệu mạnh.”

“Chúng cũng giúp thương hiệu xây dựng mối quan hệ trực tiếp với người tiêu dùng – nếu ai đó sử dụng sản phẩm của doanh nghiệp mỗi ngày, nhưng nếu họ không mua trực tiếp từ doanh nghiệp hay có bất cứ trải nghiệm trực tiếp nào, thương hiệu về cơ bản là sẽ không có bất kỳ thông tin nào về khách hàng đó.”

Ví dụ, AB InBev, công ty sở hữu thương hiệu Bia Budweiser cùng nhiều thương hiệu lớn khác đã tạo ra các vườn bia (Beer Gardens) ở một số thành phố của Mỹ và cũng đưa nhiều trải nghiệm thông qua các sự kiện như Lễ hội Bia, Lễ hội Âm nhạc và hơn thế nữa.

Ông Yaffe cho biết: “Các doanh nghiệp chi tiêu khoảng 700 triệu USD mỗi năm tại Mỹ cho các trải nghiệm, với mục tiêu chính là có được dữ liệu của bên thứ nhất (First Party Data) và xây dựng các mối quan hệ với khách hàng.

Gã khổng lồ ngành hàng F&B Nestlé, doanh nghiệp đang sở hữu thương hiệu thức ăn cho thú cưng Purina, vì muốn có dữ liệu về tất cả những người bắt đầu mua chó con trong đại dịch, họ bắt đầu với một nền tảng trải nghiệm (experiential marketplace), nơi mọi người có thể tìm người huấn luyện chó con và tham gia các lớp học miễn phí qua Zoom.

2. Sự gia tăng của các nền tảng hệ sinh thái (ecosystem platforms) cũng là yếu tố định hình tương lai của ngành bán lẻ.

Các mô hình bán hàng truyền thống đã dần bị thay đổi bởi các mô hình nền tảng trong những năm gần đây.

Theo Ông Tom McFadyen, CEO của McFadyen Digita (một digital commerce agency), tất cả các nền tảng thương mại điện tử lớn như Alibaba hay Amazon đều là những nền tảng trung gian hỗ trợ tương tác giữa người bán và người dùng.

Những nền tảng hay mô hình này có chuỗi cung ứng linh hoạt hơn, hàng hoá đa dạng hơn, dễ mở rộng quy mô hơn và hoạt động có lãi hơn các doanh nghiệp theo mô hình khác.

Trong khi một số công ty, như Amazon, bắt đầu với mô hình nền tảng (platform business model), các công ty lâu đời cũng đang xây dựng hệ sinh thái.

Ví dụ: gã khổng lồ ngành bán lẻ, Walmart, đã xây dựng Walmart Marketplace để kết nối với những người bán của bên thứ ba (third-party sellers) và hiện đang mở rộng sang các dịch vụ khác.

L’Oréal, một công ty mỹ phẩm hơn 100 năm tuổi, gần đây cũng đã ra mắt nền tảng mua bán B2B của riêng mình với tên gọi là Salon Centric.

Salon Centric bán các sản phẩm làm đẹp, tóc và đồ nội thất cho các tiệm, spa và phòng tập thể dục, và hơn thế nữa.

3. Sự trỗi dậy của hàng hóa kỹ thuật số và sự thay đổi mô hình Web3.

Sự trỗi dậy của hàng hóa kỹ thuật số và sự thay đổi mô hình Web3.
Sự trỗi dậy của hàng hóa kỹ thuật số và sự thay đổi mô hình Web3.

Không chỉ có các công ty công nghệ như Meta, Apple hay Microsoft mới quan tâm đến Web3 hay các xu hướng công nghệ mới nổi.

Giờ đây, các công ty bán lẻ cũng đang tìm cách ứng dụng web3 và Metaverse vào mô hình kinh doanh của họ.

Việc Nike hay Walmart và nhiều thương hiệu khác hiện đều đã gia nhập vào Metaverse là những minh chứng hữu hình nhất cho điều này.

L’Oréal gần đây cũng đã nộp đơn đăng ký 17 nhãn hiệu (Trademark) mới trong danh mục NFT (mã thông báo không thể thay thế) và Metaverse.

Hay các công ty mỹ phẩm đang bán hàng hóa kỹ thuật số trên Zepeto, một ứng dụng nơi mọi người có thể tạo hình đại diện (Avatar) để tham quan các thế giới 3D khác nhau, đối tượng chủ yếu của các nền tảng là Gen Z.

“Khi làn sóng Web3 bùng nổ, chúng ta sẽ có một sự thay đổi lớn giống như những năm 90 khi Amazon mới xuất hiện.”

4. Thiết kế lại các cửa hàng bán lẻ là xu hướng cuối cùng giúp định hình tương lai của ngành bán lẻ.

Nền kinh tế trải nghiệm không có nghĩa là các cửa hàng vật lý (Physical Store) sẽ biến mất – nhưng chúng sẽ cần phải thay đổi.

Một số thương hiệu vốn chỉ kinh doanh trực tuyến hiện đang mở các cửa hàng vật lý, chẳng hạn như Alibaba mở trung tâm thương mại ở Trung Quốc hoặc thương hiệu trực tuyến Allbirds mở cửa hàng tại chỗ.

“Nếu bạn có thể trải nghiệm sản phẩm, nếu bạn có thể trải nghiệm thương hiệu, bạn sẽ có nhiều khả năng mua hàng hơn.”

“Trong khi rõ ràng là bạn có thể mua nó ở bất cứ đâu. Nhưng hành vi của bạn thực sự thay đổi dựa trên các trải nghiệm…mọi người muốn thử, mọi người muốn trải nghiệm…”.

Ông Damlapinar cho biết dưới đây là 3 thành phần mới mà bất cứ cửa hàng bán lẻ vật lý nào trong tương lai cũng đều cần:

  • Các màn hình tương tác. Khoảng 15% cửa hàng bán lẻ trong tương lai sẽ bao gồm các lối đi mua sắm, như chúng ta thấy ngày nay, nhưng được phi vật chất hóa. Sẽ có các màn hình tương tác với độ nét cao để bạn có thể xem qua sản phẩm và thậm chí là thử nó.
  • Các trung tâm thực hiện đơn hàng (Fulfillment centers). 35% tiếp theo của các cửa hàng sẽ là “Dark Store” (các trung tâm phân phối chỉ phục vụ cho bán hàng trực tuyến). Best Buy đã sử dụng các cửa hàng làm trung tâm để có thể giao hàng tại địa phương một cách nhanh chóng. Các cửa hàng Whole Foods cung cấp các đơn đặt hàng trực tuyến từ cửa hàng và Amazon Fresh, chỉ dành riêng cho các đơn đặt hàng.
  • Phần còn lại của một cửa hàng sẽ được dành cho các yếu tố trải nghiệm – Đây sẽ nơi các doanh nghiệp có thể tăng mức độ tương tác và giá trị lâu dài với người tiêu dùng, sau đó nâng cao lòng trung thành của họ với thương hiệu (Brand Loyalty). Sau đó, khách hàng có thể mua sản phẩm ở bất kỳ đâu họ muốn. Họ sẽ mua nó nếu các trải nghiệm của họ với thương hiệu đủ đáng giá.

Kết luận.

Trên đây là các xu hướng phát triển chính được xem là có thể định hình lại tương lai của ngành bán lẻ toàn cầu trong những năm tới, hy vọng với các chia sẻ từ MarketingTrips, bạn sẽ có nhiều cách hơn để chuẩn bị và sẵn sàng đón nhận các cơ hội kinh doanh mới trong tương lai.

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: Link

Nam Nguyen | MarketingTrips

3 xu hướng dẫn dắt ngành bán lẻ trong nửa cuối năm 2022

Tính đến tháng 6 năm 2022, mức độ di chuyển của người Việt Nam đến các địa điểm bán lẻ và vui chơi giải trí đã phục hồi về mức trước dịch, đánh dấu sự trở lại giai đoạn tăng trưởng tiêu dùng Việt Nam sau 2 năm bị ảnh hưởng.

Trong 5 tháng đầu năm, tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ đã tăng 8,2% so với cùng kỳ. Đánh giá triển vọng của ngành bán lẻ trong nửa cuối năm 2022, Công ty chứng khoán VNDirect dự báo ngành bán lẻ sẽ quay trở lại quỹ đạo tăng trưởng với 3 xu hướng chính.

Thứ nhất, đó là sự chuyển hướng sang bán lẻ hiện đại rõ ràng hơn sau đại dịch, giúp các chuỗi bách hóa hiện đại tăng trưởng mạnh hơn.

Theo số liệu của Kantar, sau đại dịch, thị phần của kênh siêu thị mini đạt 10% trong quý I, gấp đôi so với mức trước đại dịch.

Trong quý, giá trị tiêu dùng hàng tiêu dùng nhanh theo kênh siêu thị mini tăng 20% ở 4 thành phố trọng điểm và 32% ở khu vực nông thôn, cho thấy sự chuyển dịch sang các kênh hiện đại.

Sau khi doanh thu lao dốc từ quý IV năm ngoái, Bách Hóa Xanh đã bắt đầu thay đổi hệ thống vận hành ngay từ đầu năm. Tháng 4 vừa qua, 460/2140 cửa hàng Bách Hóa Xanh được nâng cấp lên mô hình mới với mục tiêu doanh thu tăng 10% so với mô hình cũ.

Tập đoàn Masan cũng tích hợp các dịch vụ bổ sung như hệ thống trà và cà phê Phúc Long, chuỗi dược phẩm Phano, dịch vụ thanh toán Techcombank cũng như dịch vụ giặt là Joins Pro để biến Winmart + trở thành chuỗi cửa hàng bán lẻ đa tiện ích trong xu hướng bán lẻ hiện đại trên đà phát triển

Xu hướng thứ hai đó là các nhà bán lẻ (Retailer) lớn đang không ngừng mở rộng sang các thị trường bán lẻ như dược phẩm hoặc thị trường mẹ và bé.

Nghiên cứu thị trường của IBM cho thấy, quy mô thị trường dược phẩm Việt Nam vào khoảng 7,7 tỷ USD trong năm 2021 với tốc độ tăng trưởng kép 16,2% trong giai đoạn 2012 – 2021. Quy mô thị trường kỳ vọng đạt 16,1 tỷ USD vào năm 2026, tương đương tốc độ tăng trưởng kép là 15,9% giai đoạn 2021-2026.

Theo VNDirect, quy mô các chuỗi bán lẻ thuốc hiện đại lớn đang chiếm ít hơn 4% tổng số lượng nhà thuốc toàn quốc, điều này cho thấy tiềm năng phát triển chuỗi bán lẻ thuốc.

Tính đến tháng 6, chuỗi Pharmacity có số lượng cửa hàng lớn nhất với hơn 1.100 cửa hàng, xếp thứ hai là chuỗi Long Châu với gần 630 cửa hàng và An Khang đứng thứ ba với gần 360 cửa hàng.

Ngoài thị trường dược phẩm, thị trường sản phẩm trẻ em cũng được các ông lớn bán lẻ nhắm tới.

Theo Euromonitor, doanh thu sản phẩm trẻ em tại Việt Nam (bao gồm thức ăn trẻ em, sản phẩm dành riêng cho trẻ nhỏ và quần áo trẻ em) đạt khoảng 50.100 tỷ đồng vào năm 2021 và dự kiến sẽ tăng trưởng kép khoảng 7,3%/năm trong giai đoạn 2021 – 2025 với 80% thị phần thuộc về các cửa hàng quy mô nhỏ.

Kết quả thử nghiệm đầu tiên của chuỗi AVAKids ghi nhận doanh thu hàng tháng trên mỗi cửa hàng có thể đạt tới 2 tỷ đồng, trong đó doanh thu trực tuyến chiếm 25 – 30%.

Tính đến ngày 1/6, số lượng cửa hàng AVAKids đạt con số 50, đánh dấu giai đoạn 2 thử nghiệm AVAKids.

Xu hướng cuối cùng là sự trở lại của các công ty kinh doanh bất động sản bán lẻ nhờ dịch vụ được hồi phục.

Báo cáo của VNDirect đánh giá, trong điều kiện “bình thường mới” của Việt Nam, lĩnh vực dịch vụ bán lẻ đã phục hồi mạnh mẽ, doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống và dịch vụ du lịch lần lượt tăng 14,7% và 33,9% so với cùng kỳ.

Lượng khách đến các trung tâm thương mại của Vincom đã phục hồi đến 60% mức trước dịch trong quý I và phục hồi về mức trước đại dịch trong quý II vừa qua khi bước vào mùa hè – mùa cao điểm với các hoạt động vui chơi tại các trung tâm mua sắm.

Vincom Retail đang có kế hoạch mở rộng khoảng 1,4 – 2 triệu m2 diện tích sàn bán lẻ trong vòng 4 năm tới, hướng đến mục tiêu tổng diện tích sàn 3,3 – 3,7 triệu m2 vào năm 2026 (gấp khoảng 2 lần so với 2021).

Trong nửa cuối năm nay, VNDirect dự báo Vincom Retail sẽ tăng trưởng 95,5% lên 2.569 tỷ đồng, trên cơ sở công ty không bổ sung bất kỳ gói hỗ trợ nào cho các khách thuê, kết hợp với việc mở rộng diện tích sàn cũng như sự quay trở lại của khách hàng tới các trung tâm thương mại kể từ quý II/2022.

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: Link

Hà Anh 

(Theo The Leader)

Ngành bán lẻ đi tìm công thức tăng trưởng mới

Không chỉ các chợ truyền thống, nhiều đơn vị bán lẻ theo mô hình hiện đại cũng gặp rất nhiều khó khăn khi tăng trưởng hai năm vừa qua.

bán lẻ tăng trưởng
Ngành bán lẻ đi tìm công thức tăng trưởng mới

Thị trường bán lẻ đang dần được hâm nóng trở lại khi người tiêu dùng và khách du lịch bắt đầu quay lại các trung tâm thương mại, siêu thị, chợ truyền thống. Gần như ngay lập tức, hàng loạt thương hiệu bán lẻ có dấu hiệu sẽ mở rộng quy mô quyết liệt.

bán lẻ tăng trưởng

Phục hồi.

Ghi nhận của Tổng cục Thống kê cho thấy trong quý 1-2022, doanh số bán lẻ tăng nhẹ 4,4% so với cùng kỳ năm trước.

Trong đó, hoạt động bán lẻ hàng hóa tăng 10,7%, bán lẻ dịch vụ lưu trú và ăn uống tăng 5,9%, dịch vụ du lịch tăng 29,8% so với cùng kỳ.

Các con số đó không phản ánh hết sự chuyển biến mạnh mẽ của thị trường bán lẻ TP.HCM trong quý 1-2022.

Cục Thống kê thành phố ước tính tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng là gần 267 tỉ đồng, giảm 4,8% so với cùng kỳ.

Mức giảm lớn nhất tập trung ở nhóm các ngành dịch vụ như karaoke, vũ trường, matxa, du lịch… do tốc độ mở cửa trở lại vẫn còn chậm.

Ngoài ra phải kể đến các nguyên nhân như thu nhập cũng như thói quen tiêu dùng của người dân có sự thay đổi, tâm lý e ngại dịch bệnh vẫn còn trong thời gian đầu sau kết thúc giãn cách, sức mua chưa đạt như kỳ vọng.

Tuy nhiên, dự báo doanh thu thương mại và dịch vụ trong quý tiếp theo sẽ đạt mức tăng trưởng dương khi các hoạt động kinh doanh trên địa bàn và sức tiêu thụ của người dân có xu hướng tăng trở lại.

Đáng chú ý, sau khi mở trở lại đường bay quốc tế, lượng khách du lịch quốc tế trong tháng 3-2022 đã tăng 115% so với cùng kỳ, đạt 41.700 lượt – mức cao nhất kể từ tháng 3-2020, với khách du lịch chủ yếu đến từ Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản và Mỹ.

Năm 2021 chứng kiến lượng lớn các cửa hàng, nhà bán lẻ có tiềm lực tài chính yếu đóng cửa, đặc biệt ở phân khúc F&B và thời trang khi nhu cầu tiêu dùng sụt giảm.

Nhưng năm 2022 có thể khởi đầu cho một chu kỳ phục hồi mạnh mẽ nhờ độ phủ vắc xin, việc nới lỏng hạn chế đi lại trong nước và giữa các quốc gia trên thế giới.

Nhận xét về triển vọng của thị trường bán lẻ Việt Nam trong thời gian tới, bà Phạm Ngọc Thiên Thanh, phó giám đốc nghiên cứu và tư vấn CBRE Việt Nam, cho rằng:

“Những khó khăn từ kinh tế vĩ mô đang làm giảm sức mua của người tiêu dùng trong ngắn hạn. Thị trường dự báo sẽ ấm dần lên và hồi phục vào những tháng cuối năm”.

“Lượng khách mua sắm đông đúc vào các kỳ nghỉ lễ, cuối tuần và lượng khách du lịch trong nước tăng cao vào kỳ nghỉ Tết cho thấy người tiêu dùng đã bắt nhịp với hoạt động bình thường mới.

Tuy nhiên, sự mở rộng của các nhà bán lẻ dự kiến sẽ không đồng đều giữa các nhóm ngành thương mại khác nhau”.

Khốc liệt cuộc đua mở rộng.

Kênh bán lẻ hiện đại đang chứng kiến cuộc đua đầu tư và mở rộng quy mô khá gay cấn khi nhiều hãng bán lẻ lập kế hoạch đánh chiếm khoảng trống mà các đối thủ yếu hơn bỏ lại.

Điển hình như Uniqlo với việc khai trương cửa hàng bán lẻ thứ 11 tại Saigon Centre TP.HCM, Pandora khai trương cửa hàng mới tại AEON Long Biên, Hà Nội.

Hãng AEON đặt mục tiêu mở 100 siêu thị AEON MaxValu đến năm 2025. BRG Retail hợp tác mở rộng chuỗi siêu thị Fujimart với Sumitomo Corporation thì đặt mục tiêu đạt khoảng 50 cửa hàng mới vào năm 2028.

Đáng chú ý, Tập đoàn Alibaba nâng cấp chuỗi giá trị kinh doanh tại Việt Nam bằng cách thành lập các trung tâm phân phối quy mô lớn ở Long An, Đồng Nai, hướng tới phục vụ nhu cầu lưu kho của các nền tảng thương mại điện tử (eCommerce) chính ở Việt Nam.

Thời gian gần đây, một số công ty bất động sản cũng tìm cách lấn sân sang bán lẻ, như một cách xây dựng hệ sinh thái của riêng họ.

Đây là một chiến lược kinh doanh quen thuộc khi các công ty bất động sản có tiềm lực mạnh muốn xây dựng hệ sinh thái đa dạng bao gồm bán lẻ, nhằm tận dụng nguồn vốn, liên kết sản phẩm bán lẻ phục vụ chính cộng đồng cư dân và khách hàng của họ và bao phủ thương hiệu tới số đông người dùng.

Điển hình có thể kể đến Nova Retail của Tập đoàn NovaLand với chuỗi cửa hàng phân phối các thương hiệu nổi tiếng như Nike, GAP, The Face Shop, Sơn Kim Retail của Sơn Kim Group với chuỗi của hàng tiện lợi GS25 và chuỗi nhà hàng, spa đi kèm.

Song song kế hoạch mở rộng, một số chuỗi cũng đặt ưu tiên tái cấu trúc, cải thiện biên lợi nhuận. Bách Hóa Xanh của Thế Giới Di Động cho biết sẽ tạm dừng mở mới trong năm 2022 để tối ưu hóa hoạt động.

Chuỗi cũng bổ nhiệm ông Nguyễn Đức Tài, chủ tịch Thế Giới Di Động, giữ chức giám đốc điều hành – động thái khẳng định quyết tâm đưa Bách Hóa Xanh đạt điểm hòa vốn thông qua các điều chỉnh lớn về công thức vận hành.

Ngoài Bách Hóa Xanh, Thế Giới Di Động còn lấn sân sang các thị trường bán lẻ khác còn nhiều tiềm năng với thương hiệu AVA gồm AVAKids (sản phẩm mẹ và bé), AVAFashion (thời trang), AVASports (thể thao), AVAJi (trang sức) và AVACycle (xe đạp).

Còn Masan dự kiến sẽ tung ra mô hình “mini mall” – tức một cửa hàng tiện ích tích hợp nhiều dịch vụ như nhu yếu phẩm (WinMart), dịch vụ tài chính (Techcombank), trà và cà phê (Phúc Long), chăm sóc sức khỏe (Phano) và đã đặt mục tiêu mở 30.000 cửa hàng trước năm 2025.

Báo cáo tháng 2-2022 của Savills châu Á – Thái Bình Dương về thị trường bán lẻ cũng đánh giá mặc dù tỉ lệ tiêm vắc xin ngày càng tăng ở nhiều quốc gia, tốc độ phục hồi của các thị trường lại không nhất quán.

Cụ thể, Việt Nam và Trung Quốc là hai quốc gia có thị trường bán lẻ tại các thành phố lớn phục hồi nhanh nhất với hoạt động kinh doanh ổn định và gián đoạn định kỳ.

Trong khi các thành phố như Bắc Kinh, Thượng Hải, Quảng Châu, Hà Nội, TP.HCM vẫn duy trì mức tăng trưởng giá thuê một cách khiêm tốn từ khoảng 0,5-13% thì các thị trường lớn như Singapore, Hong Kong, Seoul, Tokyo, giá thuê mặt bằng tiếp tục sụt giảm mạnh trong 6 tháng cuối năm 2021 với mức từ -16% đến -28%.

Theo đánh giá của bà Trần Phạm Phương Quyên, quản lý bộ phận cho thuê mặt bằng bán lẻ Savills TP.HCM, sức tiêu dùng nội địa Việt Nam ngày càng lớn và ổn định, đồng nghĩa với tiềm năng về doanh thu lớn cho một vài ngành bán lẻ như chăm sóc sức khỏe, chăm sóc mẹ và bé, thời trang thể thao, ẩm thực…

Điều này đã thúc đẩy các nhà bán lẻ phải mở rộng thêm chi nhánh, không gian trải nghiệm, để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của khách hàng.

Bà Quyên cũng cho biết trong thời gian qua, các tập đoàn bán lẻ lớn vẫn đang âm thầm đem thêm thương hiệu quốc tế mới về thời trang, phong cách sống, phụ kiện và đồ chuyên dụng thể thao ngoài trời… về Việt Nam, hứa hẹn giúp phục hồi và tạo ra sức sống mới cho thị trường.

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: Link

Giang Nguyễn

Tiềm năng của ngành bán lẻ xa xỉ trong Metaverse

Tài sản số NFT đã trở thành một yếu tố được quan tâm nhiều nhất trong lĩnh vực tiền điện tử năm vừa qua. Một báo cáo gần đây cho thấy doanh số bán hàng của NFT đạt mức kỷ lục 17,7 tỷ USD vào cuối năm 2021.

Kết hợp giữa “Meta” (vượt ra ngoài) và “Universe” (vũ trụ), Metaverse là khái niệm về một “vũ trụ kỹ thuật số” tồn tại song song với thế giới thực được kiến tạo từ công nghệ hiện đại.

Nếu kỷ nguyên Internet đã đưa con người tiến vào thời đại kết nối không giới hạn, thì Metaverse – hình thái tiến hóa tiếp theo của nó, là một chiều không gian cho phép chúng ta được sống bằng “phiên bản số” của mỗi cá nhân.

Điều này đồng nghĩa với việc những chuẩn mực xã hội sẽ được tái thiết, và một trong số đó chính là thời trang.

NHỮNG CƠ HỘI MANG LẠI DOANH THU TỶ ĐÔ

Việc NFT ngày càng nổi lên trong ngành công nghiệp thời trang bởi công nghệ tân tiến này cho phép các công ty thời trang thu thập dữ liệu về bản chất sản phẩm cũng như tìm hiểu đặc tính của người tiêu dùng.

Đến nay, công nghệ này đã có tác động sâu sắc lên ngành công nghiệp thời trang toàn cầu. Tuy nhiên, đó chỉ mới là bề nổi của tảng băng chìm.

Hiện nay, các thương hiệu thời trang đặt mục tiêu mở rộng chi phí hoạt động, nâng mức độ nhận diện, và hơn hết làm nổi bật bản sắc thương hiệu nhằm gia tăng lợi nhuận.

Thực chất, xu hướng này dự đoán NFT không chỉ phát triển hơn, mà chắc chắn sẽ tăng giá trị từ sức mua của người tiêu dùng trong năm 2022. “Cơ hội biến Metaverse thành hiện thực mang đến giá trị doanh thu hàng năm hơn 1.000 tỷ USD và có thể cạnh tranh với các công ty web 2.0 trị giá 15.000 tỷ USD hiện nay”, theo Fortune Magazine.

Thị trường thời trang phải chuẩn bị cho điều tất yếu này. Việc xâm nhập vào thế giới ảo không những là mỏ vàng cho các thương hiệu lớn và nhỏ, mà đó còn là nỗ lực để tạo sự kết nối với khách hàng Gen Z.

Theo bà AnneMarie Hayek, người sáng lập và Chủ tịch Công ty tư vấn văn hóa Global Mosaic, thế hệ Z đang mở ra một cuộc cách mạng về danh tính và trong kỷ nguyên của những cư dân kỹ thuật số này, cầu nối đầu tiên với danh tính của họ chính là thông qua những bộ trang phục ảo.

Vì lẽ đó, không có triển vọng công nghệ tiêu dùng nào thúc đẩy nhiều cuộc thảo luận và đầu tư hơn ngay bây giờ so với Metaverse.

Hiếm có tuần nào trôi qua mà không có ít nhất một, thậm chí là nhiều thông tin, về việc các nhãn hàng xa xỉ đầu tư vào “thế giới ảo”.

Tại Tuần lễ thời trang New York, Jonathan Simkhai – nhà thiết kế đầu tiên ra mắt bộ sưu tập Thu – Đông 2022, đã sử dụng công nghệ Metaverse cho phép người dùng tạo hình đại diện cho chính họ và có cuộc sống thứ hai trong thế giới ảo.

Trong khi Gucci đã mua không gian số trên trang video-gaming của Hong Kong – The Sandbox, và đang lên kế hoạch để mang đến “trải nghiệm bước vào thế giới ảo”.

Theo Vogue, Metaverse và NFT là tương lai của làng mốt toàn cầu, kỳ vọng làm tăng giá trị từ sức mua của người tiêu dùng.  Còn các nhà phân tích tại Morgan Stanley thì cho rằng thị trường hàng xa xỉ ảo có thể đạt 50 tỷ USD vào năm 2030.

Các chuyên gia đều có niềm tin trang phục ảo là giải pháp cho cuộc khủng hoảng chuỗi cung ứng khiến cho ngành công nghiệp thời trang bị trì trệ hơn một năm qua cũng như vấn đề chung về tính bền vững trong thời trang. Ý tưởng về NFT và Metaverse giúp cho ngành thời trang thu về lợi nhuận mà không cần đến bất kỳ sản phẩm vật lý nào.

NHƯNG NGƯỜI TIÊU DÙNG VẪN TRONG THẾ GIỚI THỰC

Sức hút của hàng hóa ảo lớn đến mức khiến nhiều người tin rằng Metaverse cuối cùng sẽ thay thế mạng Internet hiện tại.

Vấn đề lớn nhất hiện nay là vẫn chưa có một nền tảng thống nhất, theo đó người dùng sẽ không thể mang túi xách thương hiệu Gucci mua trên Roblox sang các trò chơi khác như Sandbox hay Animal Crossing.

Đây cũng là một trong những ưu tiên mà nhà sáng lập kiêm Giám đốc điều hành của Facebook, Mark Zuckerberg, hướng đến khi đổi tên công ty thành Meta.

Bà Cathy Hackl, chuyên gia tư vấn công nghệ thực tế ảo người Mỹ, nhận định kể từ khi mạng xã hội hàng đầu thế giới hé lộ tham vọng này, mọi thứ diễn biến ngày càng nhanh.

Tuy nhiên, bà Hackl cũng lưu ý rằng không phải công ty nào cũng nên vội vàng nhảy vào lĩnh vực này, ít nhất họ cũng cần làm quen với môi trường mới trước.

Trừ phi các công ty có thể tự xây dựng cho mình thế giới ảo riêng, nếu không họ sẽ cần phải tuân theo quy định của mỗi nền tảng mà họ tham gia.

Cơ hội biến Metaverse thành hiện thực mang đến giá trị doanh thu hàng năm hơn 1.000 tỷ USD và có thể cạnh tranh với các công ty web 2.0 trị giá 15.000 tỷ USD hiện nay.

– Fortune Magazine –

Một số công ty tỏ ra đồng tình với sự thận trọng này. Bernard Arnault, Chủ tịch và Giám đốc điều hành của Tập đoàn LVMH, đã tuyên bố rằng họ không cần vội vàng tham gia vào Metaverse.

Các thương hiệu của LVMH đang hoạt động tốt trong thế giới thực, doanh thu và lợi nhuận cả năm 2021 của công ty đều đạt mức kỷ lục.

Ông Arnault nói rằng trong khi tò mò muốn khám phá các cơ hội của môi trường kỹ thuật số đang trở thành xu hướng, ông cũng cảnh giác về sự lặp lại của “bong bóng” dot-com.

“Đó hoàn toàn là một thế giới ảo và cho đến bây giờ, chúng ta đang ở trong thế giới thực và chúng tôi bán các sản phẩm thực. Chắc chắn là rất thú vị, nhưng chúng tôi phải xem xét tính ứng dụng của Metaverse và các NFT này là gì”, ông Aunault nói trong một cuộc phỏng vấn với WWD.

“Ngoài ra, hãy cẩn thận với nguy cơ bong bóng. Hãy nhớ lại thời kỳ đầu những năm 2000, khi đó có hàng tá cái tên có-thể-sẽ-trở-thành-Facebook, và cuối cùng, chỉ có duy nhất một trong số đó hoạt động hiệu quả. Vì vậy, chúng ta hãy thận trọng”.

Bên cạnh đó, nhiều người trong ngành tin rằng khả năng liên kết các mặt hàng kỹ thuật số với hàng hóa vật chất vẫn là một trong những chức năng quan trọng nhất.

Karinna Grant, đồng Giám đốc điều hành của The Dematerialized, một nền tảng thương mại dành cho thời trang kỹ thuật số, cho rằng “những người sở hữu NFT lần đầu hoặc mới tham gia vào thị trường sẽ vẫn giữ niềm tin truyền thống rằng các sản phẩm vật lý có giá trị hơn là các sản phẩm kỹ thuật số”.

Do đó, điều quan trọng là vẫn phải có các sản phẩm vật lý có thể đạt được thông qua việc sở hữu một thứ gì đó trong Metaverse vì hầu hết người tiêu dùng vẫn sống trong thế giới thực”.

Đây là lý do tại sao một nhãn hiệu thời trang chính thống như Coach tặng những người sở hữu NFT những chiếc túi “rouge bag” thực tế được làm theo đơn đặt hàng.

Hoặc bộ sưu tập ảo Karl Lagerfeld đã tạo cơ hội cho những người sở hữu được đến tham dự một sự kiện thương hiệu ở Paris vào năm 2022.

Tại sự kiện này sẽ có một buổi ra mắt các sản phẩm NFT khác, nơi chỉ những người sở hữu NFT Karl trước đó mới được mời tham gia…

“Cũng giống như trong đời thực, khi khách hàng dùng thẻ từ để truy cập vào câu lạc bộ thể hình mà họ đã bỏ tiền ra để đăng ký gói thành viên, thì tính tiện ích của NFT có thể là bất cứ điều gì tương tự: từ việc sử dụng NFT làm thẻ hội viên cho đến khả năng mặc nó trong trò chơi hoặc kết hợp tính bền vững về mặt đầu tư, hay thậm chí là quyền lợi xã hội cho người mua NFT”, bà Grant nhấn mạnh với phóng viên tờ Cointelegraph.

Với những lý do này, quá rõ ràng là NFT phải tạo ra cơ hội để người tiêu dùng có thể tương tác với các thương hiệu trong cả thế giới thực và kỹ thuật số.

Còn nếu tính tiện ích của một số NFT chỉ đơn giản là vì mục đích nghệ thuật, thì các thương hiệu khi tung ra NFT sẽ cần đặt nặng về tính công năng hơn và cần được xây dựng dựa trên một cộng đồng khách hàng hiện có.

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: Link

Nam Nguyen

Các cửa hàng truyền thống sẽ phát triển mạnh mẽ trong 2022

Với sự phát triển mạnh mẽ của yếu tố công nghệ và sức ảnh hưởng từ đại dịch, không ít các dự báo cho rằng, bán hàng tại cửa hàng sẽ bị xoá sổ bởi thương mại điện tử, tuy nhiên sự thật lại có thể diễn ra theo một cách ngược lại.

Bán hàng tại cửa hàng sẽ phát triển mạnh mẽ trong 2022
Getty Images

Mặc dù trong suốt thời gian diễn ra đại dịch, khi người tiêu dùng chuyển sang mua sắm trực tuyến hầu hết các sản phẩm, nền tảng phân tích Moody’s kỳ vọng doanh số bán hàng tại các cửa hàng (vật lý) sẽ tăng trưởng ổn định trong năm 2022.

Dưới đây là 5 lý do chính cho điều này.

1. Không có trải nghiệm nào có thể thay thế được trải nghiệm trực tiếp tại các cửa hàng.

Thương mại điện tử mang lại nhiều sự tiện lợi không gì sánh được. Các chiến dịch quảng cáo thông minh trên các nền tảng kỹ thuật số cũng hoàn toàn có thể tác động đến hành vi và nhận thức của người tiêu dùng.

Tuy nhiên, không có bất cứ trải nghiệm thương hiệu nào có sức ảnh hưởng và gần gũi hơn các trải nghiệm thực tại các cửa hàng, trực tiếp xem sản phẩm và tương tác với nhân viên bán hàng.

Thay vì có được sự tiện lợi từ thương mại điện tử hay những cảm xúc chóng vánh của các quảng cáo kỹ thuật số, các cửa hàng thực hay cửa hàng truyền thống có thể mang lại nhiều hơn thế.

Khi yếu tố công nghệ ngày càng phát triển, khách hàng có nhiều cách hơn để trải nghiệm sản phẩm tại các cửa hàng, động lực mua sắm tại cửa hàng sẽ càng tăng lên.

Đối với ngành bán lẻ nói chung, những công nghệ như VR, AR, cảm biến hay trí tuệ nhân tạo sẽ là những yếu tố then chốt làm tăng trải nghiệm thực của khách hàng, trong khi khách hàng đến cửa hàng, họ không chỉ tương tác trực tiếp với nhân viên bán hàng, họ còn có cơ hội trải nghiệm hàng loạt các công nghệ hỗ trợ khác.

2. Phần lớn các giao dịch mua bán vẫn diễn ra tại cửa hàng.

Như đã đề cập, trong khi thương mại điện tử có thể rút ngắn tối đa thời gian mua sắm, hầu hết các hàng hoá là thành phẩm (hàng hoá đã được sản xuất nhưng chưa được tiêu thụ hoặc phân phối cho người dùng cuối cùng) sẽ được mua bán trực tiếp tại các cửa hàng.

Mặc dù thương mại điện tử đã liên tục tăng trưởng trong những năm qua, thị phần của nó chỉ chiếm khoảng 13% tổng doanh số toàn ngành bán lẻ trong quý 3 năm 2021.

Khi người tiêu dùng vẫn tiếp tục muốn nhìn thấy, chạm thử và trải nghiệm sản phẩm trước khi ra các quyết định mua hàng, những trải nghiệm thực tế vẫn thể hiện được sức ảnh hưởng của mình.

Thử điểm qua một vài ngành hàng như ô tô, đồ nội thất, quần áo, hay thậm chí là thực phẩm, hầu hết các giao dịch mua hàng diễn ra tại cửa hàng.

3. Các cửa hàng có thể xây dựng lòng trung thành tốt hơn và chuyển đổi cao hơn.

Những ảnh hưởng trực tiếp từ nhân viên bán hàng và những gì khách hàng “chứng kiến” tại cửa hàng có thể là sự khác biệt lớn nhất giữa một cửa hàng trực tuyến và cửa hàng truyền thống.

Trong khi yếu tố con người có mức độ ảnh hưởng khác nhau ở từng ngành hàng khác nhau, ngành bán lẻ và nhà hàng (dịch vụ) lại có sự phụ thuộc lớn hơn.

Nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng, vì nhân viên bán hàng tại cửa hàng có khả năng quan sát và hiểu khách hàng tốt hơn, hoặc xử lý nhanh nhạy hơn các vấn đề của khách hàng, khách hàng có xu hướng tin tưởng và trung thành hơn với thương hiệu.

Ngoài ra, trong khi có vô số các câu hỏi hay băn khoan, thứ mà khách hàng không thể (hoặc không muốn) tìm kiếm trực tuyến, những giải đáp trực tiếp và trực quan từ nhân viên bán hàng là những ưu điểm khác của các cửa hàng.

4. Tính năng động của các cửa hàng.

Khác với ý tưởng, khi thương mại điện tử phát triển, các cửa hàng vật lý sẽ bị xoá sổ, các cửa hàng trực tuyến giờ đây đóng vai trò bổ sung cho các trải nghiệm của khách hàng trước khi mua hàng.

Khách hàng có thể kiểm tra tính sẵn có của một mặt hàng cụ thể nào đó, tham khảo giá, xem qua các chủng loại hay thậm chí là các chương trình khuyến mãi trước khi quyết định đến cửa hàng.

Để có thể thúc đẩy doanh số bán hàng, ngoài việc các thương hiệu cần có sự kết hợp liền mạch giữa các trải nghiệm trực tuyến với trải nghiệm ngoại tuyến, những ứng dụng như tính năng định vị địa lý, thực tế tăng cường hay phiếu giảm giá độc quyền cũng có thể giúp nâng cao trải nghiệm tổng thể của khách hàng.

5. Mối liên hệ mật thiết giữa các cửa hàng truyền thống với yếu tố giá trị và trải nghiệm.

Nếu với thương mại điện tử hay các cửa hàng trực tuyến, thứ duy nhất mà khách hàng có được chỉ có thể là sản phẩm (hàng hoá), khi khách hàng có thể xem, thử và trải nghiệm không gian tại cửa hàng, thứ mà khách hàng nhận được lại nhiều hơn rất nhiều.

Bằng cách cung cấp những không gian nơi khách hàng có thể phối hợp hình ảnh cá nhân của họ với hình ảnh thương hiệu, hay đưa ra những hoạt động thực tế giúp khách hàng cảm nhận rõ hơn về giá trị của thương hiệu, mức độ gắn kết của họ với thương hiệu có thể được cải thiện đáng kể.

Ngoài ra, khi yếu tố giá cả và dịch vụ sản phẩm giữa các nhà bán lẻ là tương đồng nhau, những trải nghiệm bán lẻ tại các cửa hàng thực tế là thứ tách biệt doanh nghiệp khỏi các cửa hàng bán hàng trực tuyến khác.

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: Link

Giang Nguyễn

Shopee đang bỏ xa Tiki, Lazada và Sendo

Dường như “miếng bánh” thương mại điện tử sẽ không chia đều cho tất cả tay chơi, nhất là trong bối cảnh cuộc đua giành thị phần giữa các doanh nghiệp TMĐT tại Việt Nam đang ngày một trở nên khốc liệt.

Shopee đang bỏ xa Tiki, Lazada và Sendo
iStock

Tại Việt Nam, báo cáo e-Conomy SEA 2021 chỉ ra, nền kinh tế kỹ thuật số của Việt Nam dự kiến tăng trưởng 31% lên 21 tỷ USD nhờ sự tăng trưởng lên tới 53% của lĩnh vực thương mại điện tử so với cùng kỳ năm ngoái, và tiếp tục đạt 57 tỷ USD vào năm 2025.

Đến năm 2030, nền kinh tế số của Việt Nam được dự báo sẽ đạt 220 tỷ USD tổng giá trị hàng hóa (GMV – Gross Merchandise Value), đứng thứ hai trong khu vực sau Indonesia. Đây cũng là một tiềm năng lớn cho các doanh nghiệp thương mại điện tử Việt Nam.

Thực tế, trong những năm qua, Việt Nam liên tục ghi nhận mức tăng trưởng mạnh mẽ cả về tỷ lệ người dân sử dụng internet cũng như số lượng người tiêu dùng mua sắm trực tuyến và giá trị mua sắm.

Doanh thu thương mại điện điện tử B2C liên tục tăng mạnh trong 5 năm qua. Nếu như năm 2016 đạt 5 tỷ USD thì đến năm 2019, mức doanh thu đã tăng gấp đôi, đạt hơn 10 tỷ USD và năm 2020 là 11,8 tỷ USD, với mức tăng trưởng 18% so với năm trước.

Từ khi bắt đầu đại dịch đến nửa đầu năm 2021, Việt Nam đã có thêm 8 triệu người tiêu dùng kỹ thuật số mới với 55% trong số họ đến từ các khu vực không phải thành phố lớn.

Khảo sát nhanh cho thấy, 99% người tiêu dùng kỹ thuật số Việt Nam có ý định tiếp tục sử dụng các dịch vụ trực tuyến trong tương lai cho thấy mức độ gắn bó rất cao với các dịch vụ, sản phẩm kỹ thuật số của người dùng Việt Nam.

Tuy nhiên, “miếng bánh” thương mại điện tử sẽ không chia đều cho tất cả tay chơi, nhất là trong bối cảnh cuộc đua giành thị phần giữa các doanh nghiệp TMĐT tại Việt Nam đang ngày một trở nên khốc liệt.

Theo thống kê của iPrice Group trong Q4/2021, Shopee hiện là đơn vị dẫn đầu về sự phổ biến với gần 89 triệu lượt truy cập. Trên các mạng xã hội như: Instagram, Facebook, YouTube, sự hiện diện của ông lớn TMĐT này là rất vượt trội.

Đáng chú ý, lượng truy cập của Shopee nhiều hơn gấp đôi con số mà các đối thủ trực tiếp như Tiki, Lazada và Sendo cộng lại.

Lazada hiện chỉ xếp thứ 4 với 20,6 triệu lượt truy cập, theo sau là vị trí thứ 5 của Tiki với 17,8 triệu lượt truy cập. Còn Sendo tụt xuống vị trí thứ 11 với gần 5 triệu lượt truy cập.

Dù cuộc đua thương mại điện tử chưa ngã ngũ, nhưng có thể thấy rõ sự đuối sức từ các tay chơi nội. Tiki hiện được cho là đang “khát vốn” khi xuất hiện nguồn tin cho rằng, công ty đang đàm phán với Shinbank Bank cho một đợt đầu tư mới trị giá khoảng 40 triệu USD.

Cuối năm ngoái, Tiki đã huy động thành công 258 triệu USD trong vòng đầu tư do AIA Insurance Inc dẫn dắt. Mục đích là nhằm mở rộng thị phần thương mại điện tử, cũng như phục vụ kế hoạch IPO trong tương lai.

Trước đó, để bổ sung dòng tiền, Tiki từng huy động 1.000 tỷ đồng trái phiếu phát hành riêng lẻ, kỳ hạn 2 năm với lãi suất 13%/năm. Mức lãi suất chào bán trái phiếu của sàn thương mại điện tử Việt Nam thuộc nhóm cao nhất trên thị trường hiện nay.

Còn về phía Sendo, từ nửa cuối năm 2020 đến nay, công ty chưa thông báo thêm bất kì vòng gọi vốn nào thành công. Từng có thông tin công ty đang huy động vòng gọi vốn series D. Hoạt động này diễn ra ngay sau khi tin đồn Sendo sáp nhập với Tiki thất bại.

Đổi lại, các thương hiệu bán lẻ như Thế Giới Di Động, Điện Máy Xanh, FPT Shop hay CellphoneS đều có thứ hạng cao cho mình.

Thế Giới Di Động và Điện Máy Xanh lần lượt chiếm vị trí thứ 2 và 3 trên bảng xếp hạng với 59 triệu và 24 triệu lượt truy cập. FPT Shop và CellphoneS lần lượt xếp thứ 6 và thứ 7 với 9,3 và 8,7 triệu lượt truy cập.

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: Link

Giang Nguyễn

Công nghệ đang định hình lại ngành bán lẻ Việt Nam

Ngành bán lẻ Việt Nam đang được định lại qua công nghệ đám mây và AI để giúp đáp ứng các sở thích mua sắm bền vững và dịch chuyển của người tiêu dùng.

Công nghệ đang định hình lại ngành bán lẻ Việt Nam

“Sở thích ngày càng tăng của người tiêu dùng đối với tính bền vững và hành trình mua sắm được chia nhỏ trên nhiều điểm tiếp xúc kỹ thuật số, vật lý và thiết bị di động”.

Đó là một trong những kết luận của một nghiên cứu gần đây của Viện IBM về Giá trị Doanh nghiệp (IBV) và Liên đoàn Bán lẻ Quốc gia.

Nghiên cứu “Người tiêu dùng muốn là tất cả” đã khảo sát trên 19.000 người tiêu dùng tại 28 quốc gia về thói quen mua sắm, cách tiêu dùng, các yếu tố ảnh hưởng đến sự lựa chọn thương hiệu và sản phẩm cũng như mức độ sẵn sàng thay đổi hành vi dựa trên các giá trị và niềm tin cá nhân.

Mặc dù báo cáo này áp dụng cho tất cả các mặt hàng đóng gói dành cho người tiêu dùng, nhưng nó cung cấp những thông tin chi tiết liên quan đến ngành thực phẩm và đồ uống. Nhìn chung, báo cáo có hai điểm chính:

Hành vi mua sắm của người tiêu dùng đã thay đổi.

Mua sắm kết hợp – kết hợp các kênh vật lý và kỹ thuật số trong hành trình mua sắm – đang gia tăng khi thói quen mua sắm mà người tiêu dùng chấp nhận không cần thiết trong đại dịch Covid-19 đang trở thành thông lệ.

Các nhà bán lẻ phải trở nên nhanh nhẹn hơn để đáp ứng khách hàng ở bất kỳ đâu, tích hợp trải nghiệm kỹ thuật số và trải nghiệm tại cửa hàng.

72% người được hỏi nói rằng họ sử dụng cửa hàng như một phần hoặc toàn bộ phương thức mua hàng chính của họ.

Những lý do hàng đầu mà người được hỏi chọn ghé thăm cửa hàng bao gồm sờ và cảm nhận sản phẩm trước khi mua (50%), chọn và chọn sản phẩm của chính họ (47%) và nhận sản phẩm ngay lập tức (43%), mặc dù người mua sắm tại cửa hàng là gì tìm kiếm thay đổi theo danh mục sản phẩm.

27% người được hỏi cho biết phương pháp mua sắm kết hợp là lựa chọn của họ và người tiêu dùng Thế hệ Z được khảo sát có nhiều khả năng trở thành “người mua sắm lai” so với các nhóm tuổi khác.

Tính bền vững ngày càng trở nên quan trọng đối với các quyết định mua hàng.

Người tiêu dùng có mục đích, lựa chọn sản phẩm / thương hiệu dựa trên các giá trị của họ như tính bền vững, hiện là phân khúc người tiêu dùng lớn nhất được khảo sát (44%).

62% người được hỏi sẵn sàng thay đổi thói quen mua hàng để giảm tác động đến môi trường, tăng so với mức 57% của hai năm trước.

Một nửa số người được hỏi nói rằng họ sẵn sàng trả phí bảo hiểm cho sự bền vững – mức phí bảo hiểm trung bình là 70%. Con số này cao gấp đôi so với mức phí bảo hiểm từ năm 2020.

Tuy nhiên, có một khoảng cách giữa ý định và hành động – chỉ 31% người được hỏi nói rằng các sản phẩm bền vững tạo nên phần lớn hoặc tất cả lần mua cuối cùng của họ.

Bà Phạm Thị Thu Diệp, Tổng Giám đốc kiêm Giám đốc Công nghệ IBM chia sẻ: “Ở Việt Nam, đại dịch chắc chắn cũng đã thúc đẩy nhiều hành vi kỹ thuật số và khuyến khích việc áp dụng nhiều hơn thương mại điện tử và các kênh mua hàng trực tuyến.

Những nỗ lực đa kênh vẫn quan trọng hơn bao giờ hết và những nỗ lực không có hệ thống dữ liệu chính xác tại chỗ sẽ gặp bất lợi”.

Bà Diệp cho rằng, các nhà bán lẻ cần phải thay đổi cách tiếp cận và nhanh chóng nhận ra rằng công nghệ như AI, đám mây lai và blockchain có thể giúp xác định nhu cầu thực tế sẽ như thế nào và liệu có sẵn chuỗi cung ứng chính xác để thúc đẩy thực hiện đáp ứng nhu cầu đó hay không, thậm chí khi nhu cầu tiếp tục thay đổi.

Còn theo ông Luq Niazi, Giám đốc Toàn cầu của IBM Consumer Industries: “Càng ngày, việc các thương hiệu bán lẻ phải chứng minh những lựa chọn và lựa chọn bền vững trong từng bước trong trải nghiệm của khách hàng.

Đồng thời, mua sắm kết hợp đã chiếm vị trí trong hầu hết các danh mục, đặc biệt là hàng gia dụng và quần áo; và trong khi các cửa hàng tiếp tục đóng vai trò chủ đạo trong hàng tạp hóa, mua sắm kết hợp cũng đang phát triển trong các danh mục này”.

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: Link

Hà Anh | Theo The Leader

Ông lớn ngành bán lẻ Walmart chuẩn bị gia nhập Metaverse

Động thái đăng ký nhãn hiệu độc quyền gần đây của Walmart thể hiện sự nghiêm túc của thương hiệu này trong kế hoạch sử dụng tiền điện tử và NFT.

Walmart tham gia Metaverse

Walmart, tập đoàn bán lẻ hàng đầu tại Mỹ, dường như đang chuẩn bị sẵn sàng để gia nhập vào metaverse – dự án vũ trụ không gian ảo.

Theo CNBC, việc trình đơn đăng ký nhãn hiệu cho thấy công ty này đang tìm cách tạo lập NFT và tiền điện tử độc quyền.

Vào ngày 30/12/2021, Walmart đã đăng ký nhãn hiệu độc quyền cho nhiều sản phẩm. CNBC cho rằng gã khổng lồ bán lẻ này đang lên kế hoạch kinh doanh sản phẩm ảo, bao gồm thiết bị điện tử, đồ chơi, thiết bị gia dụng, dụng cụ thể thao, quần áo, đồ trang trí nhà cửa và nhiều sản phẩm khác.

NFT – viết tắt của Non Fungible Token – là loại tài sản ảo được mã hóa trên blockchain. Chúng là độc nhất, không thể thay thế hay hoán đổi cho nhau, thường được gắn với một tài sản thật. Người tiêu dùng có thể sở hữu sản phẩm trên Internet, thay vì mua ngoài đời thực.

Nội dung đơn đăng ký nhãn hiệu của Walmart còn đề cập việc người dùng có thể sử dụng tiền số và có cơ hội mua bán NFT.

Bên cạnh đó, Walmart nhắc đến việc tổ chức “các dịch vụ rèn luyện thể chất” và “các lớp học sức khỏe và dinh dưỡng” tại không gian ảo. Công ty này đã nộp đơn để sử dụng tên và biểu tượng độc quyền trong môi trường thực tế tăng cường (AR) và thực tế ảo (VR).

Theo Bloomberg, Walmart đã đăng ký nhãn hiệu cho các tên “Verse to Home”, “Verse to Curb” và “Verse to Store”. Điều này cho thấy thương hiệu có khả năng đang ấp ủ dự án trải nghiệm mua sắm ảo.

Người phát ngôn của Walmart, Carrie McKnight, chia sẻ với The Verge rằng Walmart liên tục nghiên cứu các công nghệ mới nổi bởi chúng có thể hình thành trải nghiệm mua sắm trong tương lai.

“Chúng tôi không còn điều gì để chia sẻ thêm hôm nay. Tuy nhiên, một điều đáng chú ý là chúng tôi thường xuyên nộp đơn đăng ký nhãn hiệu như một phần của quá trình đổi mới”, bà McKnight nói thêm.

Vào tháng 8/2021, Walmart đã đăng thông báo tuyển dụng chuyên gia về sản phẩm tiền điện tử. Đây là một trong những dấu hiệu đầu tiên cho thấy Walmart ngày càng quan tâm đến metaverse.

Các nhà bán lẻ khác cũng tham gia vào phong trào metaverse. Nike đang tìm cách kiếm tiền từ NFT và giày thể thao ảo, Adidas bán hết bộ sưu tập Into the Metaverse NFT và Gap tạo NFT cho dòng áo của mình.

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: Link

Long Trần

Con Cưng được rót vốn thêm 90 triệu USD

Quỹ đầu tư tư nhân châu Á Quadria Capital vừa đầu tư 90 triệu USD vào thương hiệu mẹ và bé Con Cưng.

Con Cưng được rót vốn thêm 90 triệu USD

Quadria Capital sáng nay (18/1), cho biết sẽ cùng Con Cưng sử dụng nguồn vốn mới mở rộng quy mô và mạng lưới cửa hàng tại thị trường Việt Nam, đặt mục tiêu khai trương 2.000 siêu thị mẹ và bé vào năm 2025.

Đồng thời, khoản đầu tư cũng được dùng vào hạng mục phát triển ứng dụng chuyên cung cấp sản phẩm và dịch vụ cá nhân hóa “tất cả trong một” (all-in-one), dựa trên nhu cầu khách hàng.

Ông Ewan Davis, Giám đốc điều hành Quadria Capital nhận định đại dịch cho thấy sự quan trọng của sức khỏe. Người dùng toàn cầu ngày càng chú trọng điều này khi ra quyết định tiêu dùng, bên cạnh giá và chất lượng sản phẩm.

Điều này góp phần thôi thúc quỹ tiếp tục “chắp cánh” cho các doanh nghiệp chăm sóc sức khỏe, giúp họ mở rộng quy mô.

“Với hợp tác mới, chúng tôi sẽ giúp đưa chuỗi cửa hàng bán lẻ mẹ và bé này thâm nhập sâu hơn vào phân khúc thị trường chăm sóc sức khỏe, cũng như phát triển các sản phẩm và dịch vụ tập trung vào mẹ và bé tốt hơn trong tương lai”, ông Ewan Davis nói thêm.

Ngoài tạo điều kiện cho Con Cưng tận dụng mạng lưới công ty trong danh mục đầu tư, bao gồm cả Bệnh viện FV, Quadria Capital còn chiêu mộ chuyên gia thị trường bán lẻ Việt Nam, ông Robert Willett tham gia hội đồng quản trị Con Cưng, giúp hệ thống phát triển quản trị.

Về phía Con Cưng, Chủ tịch doanh nghiệp, ông Minh Nguyễn, cho biết việc hợp tác giúp hiện thực hóa nhanh chóng tầm nhìn và định hướng phát triển của doanh nghiệp khi có thể đồng hành cùng các mạng lưới công ty chăm sóc sức khỏe và tiêu dùng hàng đầu của Quadria.

“Chúng tôi mong muốn trở thành điểm đến ‘tất cả trong một’ của các bà mẹ Việt. Nơi mà họ có thể tìm mua tất cả thứ họ cần để chăm sóc các bé, kiến tạo môi trường phát triển thuận lợi, an toàn. Để đáp ứng tối đa nhu cầu nhóm đối tượng này, mở rộng kênh bán lẻ offline lẫn online là tất yếu”, ông Minh Nguyễn chia sẻ.

Ngoài ra, ông Lưu Anh Tiến, Giám đốc điều hành kiêm Đồng sáng lập Con Cưng tiết lộ thêm doanh nghiệp đặt mục tiêu mỗi tháng khai trương một khu phức hợp Super Center mới. Đây sẽ là nơi tổng hợp toàn bộ sản phẩm, dịch vụ họ cung cấp. Mục tiêu đến 2025 đạt 200-300 Super Center toàn quốc.

Khoản đầu tư vào Con Cưng cũng là hạng mục mới nhất trong chuỗi kế hoạch đổ vốn vào lĩnh vực chăm sóc sức khỏe và dịch vụ tiêu dùng của Quadria Capital tại châu Á.

Năm 2021, quỹ đã đầu tư vào Encube Ethicals, nhà sản xuất thuốc bôi Ấn Độ; Nobel Hygiene, nhà sản xuất sản phẩm vệ sinh cá nhân Ấn Độ; PT Medikaloka Hermina Tbk (Hermina), một trong những tập đoàn bệnh viện tư nhân Indonesia.

Thành lập năm 2011, Con Cưng là một trong những thương hiệu mẹ và bé quen thuộc tại Việt Nam với hơn 600 cửa hàng, trải dài khắp 45 tỉnh, thành.

Công ty bán lẻ hơn 2.000 mặt hàng hỗ trợ chăm sóc sức khỏe, phát triển của mẹ và bé bao gồm sữa bột, tã giấy, thực phẩm dinh dưỡng, vitamin, đồ dùng và sản phẩm thời trang trẻ em.

Quadria Capital là quỹ đầu tư tư nhân châu Á thành lập vào năm 2012 với trên 2,5 tỷ USD, tập trung vào lĩnh vực chăm sóc sức khỏe đang lớn mạnh nhanh chóng ở một số nền kinh tế phát triển nhanh nhất thế giới ở Nam Á và Đông Nam Á.

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: Link

Giang Nguyễn

Bán lẻ thích nghi với bình thường mới

Kết quả khảo sát trên 15.000 nhà bán lẻ là khách hàng của Sapo cho thấy, làn sóng Covid19 lần thứ 4 đã ảnh hưởng nặng nề đến hoạt động kinh doanh năm 2021, đặc biệt trong ngành dịch vụ ăn uống – lưu trú – nghỉ dưỡng.

Bán lẻ thích nghi với bình thường mới

Chuyển đổi số, bán hàng đa kênh trở thành phương án được nhiều nhà bán hàng sử dụng nhất. Song song với đó, sự chuyển dịch hình thức thanh toán và phương thức vận chuyển trở thành điểm nhấn trong ngành bán lẻ.

Theo báo cáo tình hình kinh tế xã hội năm 2021 của Tổng cục Thống kê Việt Nam, Bán lẻ và Dịch vụ là ngành chịu nhiều ảnh hưởng xấu nhất trong năm, đặc biệt trong Quý III 2021, GDP toàn ngành tăng trưởng âm 28,1%.

Kết quả khảo sát trên 15.000 nhà bán lẻ là khách hàng của Sapo cho thấy, tác động lớn của dịch bệnh và giãn cách xã hội đã gây ra không ít khó khăn cho các nhà bán lẻ.

75,2% nhà bán hàng cho biết cho biết doanh thu của họ không tăng trưởng so với năm 2020, trong đó có tới 37,1% nhà bán hàng bị giảm sút doanh thu trên 30%.

Tỷ lệ nhà bán hàng có sự tăng trưởng doanh thu chỉ chiếm 23,9%, thấp hơn so với năm 2020 (30,7%) và năm 2019 (61%).

Chỉ 7% nhà bán hàng cho biết họ không gặp ảnh hưởng hoặc có sự tăng trưởng kinh doanh ngay trong mùa dịch (chủ yếu thuộc nhóm ngành: Tạp hóa – siêu thị mini, Thực phẩm; Chăm sóc sức khỏe, Đồ Mẹ & Bé; Mỹ phẩm)

Giãn cách xã hội trên toàn quốc và dịch bệnh kéo dài đã gây ra đứt gãy chuỗi cung ứng, ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình giao vận. Khó khăn lớn nhất về vận chuyển chủ shop gặp phải trong mùa giãn cách xã hội là Tình trạng không giao được hàng đến một số khu vực (39,4%) và Tỷ lệ hoàn hủy cao (20,7%).

Nhân viên giao hàng mắc Covid-19 hoặc rời thành phố về quê ồ ạt,… khiến cho nhân lực ngành vận chuyển thiếu hụt, cũng trở thành trở ngại lớn đối với ngành bán lẻ.

Tương tự như năm 2020, Ngành dịch vụ ăn uống (F&B) có sự suy giảm lớn nhất; 79,8% chủ nhà hàng, quán ăn, quán cafe cho biết họ không chỉ gặp tình trạng sụt giảm doanh thu, cắt giảm nhân viên mà nhiều nhà hàng phải đóng cửa, đóng chi nhánh, tạm ngừng kinh doanh vô thời hạn.

Mặt khác, nhóm nhà bán hàng trên sàn thương mại điện tử và các kênh trực tuyến vẫn dẫn đầu các nhóm ngành có sự tăng trưởng doanh thu ngay trong mùa giãn cách xã hội (chiếm 11,2%).

Tuy tỷ trọng giảm sút so với năm 2020 (15%) nhưng sự duy trì vị thế dẫn đầu của bán hàng trực tuyến trong hai năm vừa qua cũng chứng tỏ ưu thế của hình thức kinh doanh này trong các giai đoạn khó khăn của nền kinh tế.

Chuyển đổi số và mô hình bán hàng đa kênh là chìa khóa quan trọng đưa nhà bán hàng bước qua những biến động của thị trường.

Chuyển đổi số trở thành phương án thích nghi với bình thường mới.

So với năm 2019 và 2020, giải pháp được các nhà bán lẻ 2021 ưu tiên lựa chọn là đẩy mạnh việc bán hàng trên các trang thương mại điện tử (eCommerce) và nền tảng trực tuyến.

Biện pháp ứng phó với giãn cách xã hội phổ biến nhất năm 2021 chính là chuyển đổi kinh doanh từ offline lên online (chiếm 72,8%) – tăng 9% so với năm 2020 (63,8%).

Tỷ lệ nhà bán hàng chỉ chú trọng kinh doanh offline, không kinh doanh online cũng giảm từ 36,2% (năm 2020) xuống 20,9% (năm 2021).

Sau 2 năm chống chọi với Covid-19, các nhà bán hàng đã rút ra những bài học kinh nghiệm và biện pháp ứng phó hiệu quả trong ngành bán lẻ.

Trong đó, biện pháp ứng phó với tình huống tương tự giãn cách xã hội được các nhà bán hàng ưu tiên lựa chọn là Áp dụng quy trình vận hành mới, tương ứng với trạng thái phòng chống Covid (chiếm 29,7%) và Triển khai kênh bán hàng thay thế, bán hàng đa kênh (Omni Channel) (chiếm 27,2%).

Tính từ đầu tháng 10 năm 2021, Nghị quyết 128 cho phép chuyển từ chiến lược “Zero Covid-19” sang “Thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch Covid-19” đã tạo tiền đề để các địa phương mở cửa trở lại, tình hình kinh doanh của các nhà bán hàng có sự khởi sắc. 46,7% chủ cửa hàng đã có sự tăng trưởng doanh thu trở lại.

Các biện pháp khác được các chủ nhà hàng, chủ shop, chủ doanh nghiệp bán lẻ áp dụng nhằm đối phó với dịch bệnh và giãn cách xã hội bao gồm:

Cắt giảm chi phí cửa hàng và mặt bằng; Chuyển đổi mặt hàng cung ứng để phù hợp với tình hình thực tế, Phát triển hoặc kinh doanh dòng sản phẩm mới; Phân bổ nguồn vốn để đầu tư sang lĩnh vực khác (ngoài bán lẻ và dịch vụ ăn uống); Lập kế hoạch dự phòng ngân sách.

Sự chuyển dịch hình thức thanh toán và vận chuyển thích nghi với giãn cách xã hội.

Quá trình chuyển đổi kinh tế số và giãn cách xã hội đã tạo bối cảnh thuận lợi cho các hình thức giao dịch không tiền mặt tăng trưởng.

Theo khảo sát của Sapo, chuyển khoản đã vượt lên trên Tiền mặt trở thành phương thức thanh toán được chấp nhận phổ biến nhất tại các cửa hàng bán lẻ và nhà hàng, quán ăn, quán cafe (chiếm 36,5%).

Đồng thời, sự phát triển đa dạng, cạnh tranh khốc liệt giữa nhiều thương hiệu và chương trình khuyến mãi hấp dẫn của các ví điện tử đã đưa hình thức này lên Top 3 loại hình thanh toán được chấp nhận nhiều nhất.

Chuyển khoản cũng được các nhà bán hàng chấm điểm cao nhất về mức độ dễ dàng sử dụng và đối soát (2,6/3 điểm). Bên cạnh đó, nhà bán hàng cảm nhận được sự an toàn, tránh nguy cơ bị nhiễm dịch bệnh khi sử dụng các hình thức thanh toán không tiền mặt.

Hình thức cổng thanh toán (tích hợp trên website) và thẻ tín dụng online không được ưa chuộng, chủ yếu do thời gian đối soát kéo dài và khó theo dõi dòng tiền.

Nhìn chung, 89,3% nhà bán hàng đánh giá rất tích cực về các hình thức thanh toán không tiền mặt, coi đó là xu hướng của hiện tại và tương lai. Tuy nhiên, 10,4% chủ cửa hàng gặp khó khăn trong đối soát, chi phí duy trì cao và cho rằng thanh toán không tiền mặt là không cần thiết.

Dự đoán trong thời gian tới, rất nhiều công cụ thanh toán không tiền mặt mới sẽ ra mắt thị trường, tạo nên sự đa dạng, linh hoạt và giảm thiểu khó khăn của nhà bán hàng khi ứng dụng trong bán lẻ.

Về vận chuyển, vì gặp nhiều khó khăn trong năm 2021 và gây hậu quả trực tiếp đến tình hình kinh doanh, đây sẽ là mối quan tâm hàng đầu của nhà bán hàng để tối ưu chi phí, tăng tỷ lệ đơn hàng thành công và hoàn thiện quy trình vận hành.

Đặc biệt khi xu hướng làm việc tại nhà và mua sắm trực tuyến sẽ tiếp tục gia tăng sau đại dịch. 51,13% nhà bán hàng lựa chọn phương án linh hoạt giữa các đơn vị vận chuyển hoặc tự giao hàng để hạn chế khó khăn.

Tuy nhiên, 22,3% nhà bán cho biết họ vẫn loay hoay, chưa có cách khắc phục hiệu quả và chờ đợi hỗ trợ từ các đơn vị cung cấp dịch vụ giao vận.

Dù được tận dụng trong mùa dịch và giãn cách xã hội nhưng hình thức tự vận chuyển và dùng nhân viên giao hàng của cửa hàng lại không được các nhà bán hàng chấm điểm cao về mức độ tiện lợi. Các đơn vị chuyển phát nhanh lớn vẫn được ưu tiên sử dụng nhất (2,1/ 3 điểm).

Lý do được các nhà bán hàng đưa ra là các đơn vị này đáp ứng được ba yếu tố quan trọng nhất khi lựa chọn hình thức vận chuyển: Thời gian giao hàng; Chất lượng giao nhận và Giá cả. Top 3 tiêu chí này không thay đổi theo thời gian (tương ứng với năm 2020 và năm 2019).

Lạc quan một cách thận trọng.

Từ cuối năm 2021, nhờ độ phủ vaccine Covid-19 và các chính sách kích cầu kinh tế, Việt Nam dần kiểm soát dịch bệnh và thích ứng với trạng thái bình thường mới.

Nhu cầu tiêu dùng một lần nữa trở thành động lực cho tăng trưởng; Bán lẻ và Dịch vụ sẽ là hai ngành đón đầu xu hướng chi tiêu hậu giãn cách, hứa hẹn một triển vọng tươi sáng hơn trong năm 2022.

Kết thúc năm 2021, có 46,7% nhà bán hàng tin tưởng thị trường bán lẻ sẽ phục hồi; 14,5% nhà bán hàng kỳ vọng chứng kiến sự tăng trưởng mạnh mẽ trong năm tới.

Bước sang năm 2022, dự đoán xu hướng lớn nhất của các nhà bán lẻ chính là chuyển đổi số, đa dạng kênh bán hàng, đẩy mạnh kinh doanh trực tuyến bên cạnh tối ưu hóa kênh bán hàng truyền thống.

Những doanh nghiệp đã đầu tư và xây dựng nền tảng trực tuyến hiệu quả, tiếp cận linh hoạt với thương mại điện tử sẽ được hưởng lợi từ xu hướng đa kênh.

Thực tiễn chứng minh, những doanh nghiệp, cửa hàng chuyển đổi số sáng tạo, nhanh chóng đã thích ứng và phát triển trong hai năm đại dịch vừa qua.

Xu hướng thứ hai là chuỗi cửa hàng bách hóa hiện đại được hưởng lợi từ sự chuyển dịch tiêu dùng sau đại dịch.

Trong khi cửa hàng bán lẻ các sản phẩm không thiết yếu bị ảnh hưởng nặng nề trong Quý III năm 2021, các doanh nghiệp phân phối, bán lẻ hàng tiêu dùng và hàng thiết yếu ít chịu ảnh hưởng bởi giãn cách xã hội hơn.

Tiếp tục trong năm 2022, xu hướng hiện đại hóa kênh bán hàng truyền thống, thay đổi mô hình mua nhanh bán gọn sẽ sớm đi vào thực tiễn.

Xu hướng thứ ba là chiến lược bán lẻ đặt khách hàng cá nhân lên hàng đầu. Khi công nghệ đóng một vai trò quan trọng trong trải nghiệm bán lẻ hiện đại, giãn cách xã hội và dịch bệnh làm cho khoảng cách của người mua và người bán xa nhau hơn, sức mạnh của sự kết nối giữa con người với nhau sẽ phát huy tác dụng.

Các nhà bán lẻ tối ưu hóa trải nghiệm để giữ chân khách hàng và áp dụng nhiều chỉ số đánh giá quá trình bán hàng sẽ có được lợi thế tốt hơn để chiếm lĩnh thị trường.

Tuy nhiên, vẫn có 9,4% nhà bán hàng bi quan về tình hình kinh doanh năm 2022. Những tác động xấu của dịch bệnh và giãn cách xã hội vẫn tiếp tục ảnh hưởng cục bộ đến nhiều khu vực, trong đó ngành bán lẻ và ngành dịch vụ, ăn uống vẫn đang gánh chịu những hậu quả nặng nề.

Đặc biệt, sự xuất hiện của biến thể mới Omicron có thể làm chậm quá trình phục hồi của nền kinh tế. Bản thân các cửa hàng bán lẻ và dịch vụ ăn uống đã nỗ lực thích ứng thời gian qua sẽ cần tiếp tục phát huy các biện pháp sáng tạo thời gian tới.

Trong đó, họ cần chú trọng đến nguồn nhân lực, dòng tiền và khách hàng; gia tăng sức đề kháng từ công tác phân tích, dự báo và quản trị rủi ro.

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: Link

Nam Nguyen

8 xu hướng bán lẻ doanh nghiệp cần biết nếu muốn cạnh tranh thành công

Như những lĩnh vực khác, ngành bán lẻ đang trải qua quá trình thay đổi và thích ứng với các tác động từ cách mạng công nghiệp 4.0 và quá trình dịch chuyển lớn về mặt xã hội.

Source: ADOBE STOCK

Khả năng kết nối của doanh nghiệp bán lẻ với khách hàng ngày càng quan trọng hơn bao giờ hết, khi thói quen mua sắm tiếp tục thay đổi trong bối cảnh nền kinh tế toàn cầu bị gián đoạn bởi đại dịch COVID-19.

Sau đây là những gì mà các doanh nghiệp bán lẻ cần phải nắm bắt để thích nghi và có được thành công:

1. Bán lẻ = bán hàng đa kênh.

Chúng ta đang sống thế giới lai, kết hợp giữa nền tảng trực tuyến và ngoại tuyến, với những kênh mới như qua giọng nói (Alexa và Google Home) và những thiết bị thông minh khác.

Với những thay đổi này, máy móc sẽ dần trở thành khách hàng của các doanh nghiệp bán lẻ. Ví dụ, thiết bị gia dụng như tủ lạnh có thể quyết định thời điểm đặt đồ ăn. Xe hơi có thể tự động tìm kiếm những dịch vụ hoặc trả phí đỗ xe.

Internet vạn vật (IoT) và thiết bị cảm biến cho phép các công ty thu thập dữ liệu và theo dõi toàn bộ các kênh bán hàng khác nhau, để có được cái nhìn tổng quát về khách hàng.

Các công ty như Burberry đã có nhiều bước tiến hướng đến lĩnh vực bán hàng đa kênh. Nếu khách bước vào cửa hàng của Burberry, hệ thống máy tính có thể nhận diện món đồ mà họ đã tìm trên nền tảng trực tuyến và còn xem qua lịch sử mua hàng trước đó.

Kết hợp những kênh bán hàng này lại với nhau là xu hướng chính cho những doanh nghiệp bán lẻ trong tương lai.

2. Tạo ra dịch vụ thông minh hơn nhờ AI.

Các doanh nghiệp bán lẻ có thể phát triển kinh doanh từ nguồn dữ liệu hiện có và tạo ra những dịch vụ thông minh dựa trên trí tuệ nhân tạo (AI). Khách hàng sẽ kỳ vọng mức độ dịch vụ được cá nhân hóa ngày càng tinh vi hơn từ người bán hàng, vì vậy những máy móc gợi ý ngày càng trở nên quan trọng hơn.

Ví dụ Vivino, ứng dụng về rượu vang, cung cấp tính năng “Match for You” (Dành cho bạn). Bạn có thể dùng điện thoại để quét mã bất kỳ chai rượu nào, hệ thống Vivino sẽ đưa ra lời khuyên về độ phù hợp của loại rượu đó.

Machine vision (thị giác máy) cũng giúp cho lĩnh vực bán lẻ trở nên thông minh hơn. Amazon Go, cửa hàng bán lẻ vật lý của Amazon ứng dụng thị giác máy để quan sát món đồ khách hàng đang nhìn và đặt vào giỏ hàng của họ. Từ đó, hệ thống tự động thanh toán và khách hàng có thể đi thẳng ra khỏi cửa hàng thay vì phải xếp hàng chờ đợi.

3. Nền kinh tế trải nghiệm.

Các doanh nghiệp bán lẻ cần gia tăng giá trị để thu hút khách hàng tới cửa hàng vật lý hoặc vào trang web bán hàng.

Chúng ta đang sống trong nền kinh tế, nơi tạo ra những trải nghiệm tận hưởng không chỉ là lựa chọn, mà có vai trò quan trọng cho những doanh nghiệp bán lẻ muốn vươn mình sau đại dịch COVID-19.

Một ví dụ tiêu biểu là cửa hàng thời trang cao cấp của Gucci tại Ý đem đến sự hứng thú cho khách hàng bằng cách kết hợp quán cà phê, viện bảo tàng, triển lãm tranh và cửa hàng thời trang cùng một chỗ.

Các cửa hàng bán lẻ cũng xem xét sử dụng nền tảng thực tế ảo tăng cường (AR) hoặc thực tế ảo (VR) để đưa thêm nhiều thông tin về sản phẩm trong cửa hàng và trên trực tuyến tới khách hàng. TOMs Shoes (Tomorrow’s Shoes) đưa khách hàng tới Peru thông qua trải nghiệm VR để nhìn thấy được sức ảnh hưởng từ chiến dịch thiện nguyện “One for One”.

4. Giúp việc mua hàng dễ dàng hơn.

Chúng ta muốn mua được ngay sản phẩm yêu thích nhìn thấy trên TV, trò chơi điện tử hoặc từ YouTube “Nhìn thấy, thích, mua ngay”. Vì thế, trải nghiệm mua sắm như vậy cần phải trở nên dễ dàng hơn.

Điều này đã trở thành hiện thực. Khách hàng có thể xác định bài hát nghe từ radio hoặc bên trong một cửa hàng cà phê bằng ứng dụng Shazam trên điện thoại. Ứng dụng sẽ gợi ý mua bài hát đó.

Trong tương lai, tính năng này sẽ xuất hiện trên YouTube và những nền tảng trực tuyến khác. Vì vậy, khả năng mua sắm ngay lập tức là xu hướng quan trọng trong lĩnh vực bán lẻ.

5. Mô hình gói đăng ký phí không qua trung gian.

Nhiều doanh nghiệp muốn bán hàng trực tiếp tới khách hàng, nhằm xây dựng quan hệ mật thiết hơn và có khả năng tiếp cận tới nguồn dữ liệu khách hàng có giá trị.

Những công ty như Dollar Shave Club và Black Socks đang tiên phong trong hướng tiếp cận này, với gói giao hàng theo từng tháng hoặc từng quý cho sản phẩm cạo râu và vớ. BarkBox cũng áp dụng hướng tiếp cận tương tự để cung cấp sản phẩm thức ăn cho chó theo gói cơ bản.

Những tổ chức này sẽ cần phải cân bằng giữa doanh thu bán lẻ và bán sản phẩm thông qua kênh bán hàng riêng.

6. Doanh nghiệp bán lẻ giao hàng và thực hiện đơn hàng tự động.

Nhiều doanh nghiệp bán lẻ đang tìm hướng đi trong việc tự động hóa chuỗi cung ứng và phương thức giao hàng. Ví dụ, hãng công nghệ Ocado phát triển phần mềm và hệ thống tự động cho các đơn vị bán lẻ.

Ocado hỗ trợ tạo ra kho hàng có mức tự động cao, với robot hoạt động cùng lúc. Qua đó, tạo ra trải nghiệm mua hàng khác biệt cho khách hàng.

Về phương diện giao hàng, chúng ta cũng bắt đầu chứng kiến những thứ như xe tải và tàu vận chuyển vận hành tự động. Những đơn vị bán lẻ kỳ vọng sẽ có thêm nhiều quy trình tự động hơn nữa trong tương lai.

7. Tính minh bạch trong chuỗi cung ứng ngày càng quan trọng.

Tính minh bạch trong chuỗi cung ứng cho phép các công ty không chỉ nắm bắt chi tiết hơn về nhu cầu, từ đó đưa ra dự đoán về những thứ người tiêu dùng thực sự muốn, mà còn sử dụng thiết bị IoT và cảm biến để theo dõi khắp chuỗi cung ứng.

Các tổ chức ngày càng sử dụng công nghệ blockchain nhiều hơn để tăng thêm tính minh bạch cho chuỗi cung ứng. Ví dụ, De Beers Jewelers có thể giám sát nơi những viên kim cương được đào, sản xuất và cắt mài, để giúp khách hàng biết chính xác về nguồn gốc của sản phẩm.

8. Khách hàng ngày càng tỉnh táo hơn.

Khách hàng quan tâm tới tính bền vững, và hiểu ngày càng nhiều hơn về tác động của môi trường trong những sản phẩm họ mua. Trong tương lai, ta sẽ có thêm nhiều loại nhãn sản phẩm như nhãn khí thải carbon, thông tin xuất xứ.

Các doanh nghiệp bán lẻ nên suy tính về cách đưa sản phẩm ra thị trường và sẵn sàng giải đáp thắc mắc từ khách hàng về tính bền vững.

Các doanh nghiệp cần bắt kịp với những xu hướng đã nêu để có thể cạnh tranh trong tương lai.

Biên dịch: Minh Tuấn

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: Link

Theo Forbes

Xu hướng “điên cuồng mua sắm” cuối năm giúp doanh nghiệp bứt tốc

Dù mua sắm vì thói quen hay chỉ đơn giản là để giải tỏa sau giãn cách, người dùng đều thấy thỏa mãn vì được tiêu xài, theo Giám đốc Phát triển Đối tác Kinh doanh Lazada Việt Nam.

Từ tháng 10, người dùng Việt có xu hướng mua sắm “điên cuồng” dù vừa trải qua hơn 4 tháng liền giãn cách xã hội với nhiều hạn chế và ảnh hưởng nặng nề từ dịch bệnh.

Theo nhận định của ông Nguyễn Huy Hoàng, Giám đốc Phát triển Đối tác Kinh doanh Lazada Việt Nam, nhiều người dùng chọn cách thỏa mãn nhu cầu mua sắm bị dồn nén suốt thời giãn cách bằng những đơn hàng online thả ga.

Song song đó, các chương trình khuyến mãi lớn từ các sàn thương mại điện tử, ưu đãi sâu kích cầu mua sắm từ thương hiệu, gian hàng online… cũng góp phần thúc đẩy nhu cầu mua sắm.

Đây là cơ hội để các doanh nghiệp nắm bắt thời cơ, tận dụng trợ lực từ các sàn thương mại điện tử để bứt phát doanh thu, bù đắp lại quãng thời gian nền kinh tế ảm đạm, trì trệ do dịch bệnh.

Mua sắm để thỏa mãn nhu cầu, sở thích.

Hồng Ngọc (28 tuổi, quận 9) cho biết từ tháng 10 đến nay đã chi hơn 15 triệu đồng cho việc mua sắm online các sản phẩm đa dạng ngành hàng.

Ngay từ khi shipper được phép hoạt động lại bình thường, chị đã đặt ngay 15 đơn hàng các sản phẩm từ gia dụng nhà bếp, nhu yếu phẩm, hàng tiêu dùng nhanh, mỹ phẩm lẫn quần áo, nội thất…

Dù trong 4 tháng giãn cách, chị chỉ nhận 50% lương do làm tại nhà, tuy nhiên vẫn dành phân nửa thu nhập để mua sắm vì muốn “mua cho đã tay”.

Tương tự Ngọc, Quốc Phong (31 tuổi, quận 7) cũng đổ hàng triệu đồng vào mua sắm trên thương mại điện tử từ tháng 10 đến nay. Những mặt hàng Phong đã mua là đồ điện gia dụng, thiết bị công nghệ và nội thất.

Thay vì mua sắm dàn trải cả năm, anh thường để dành mua những món giá trị cao như laptop, điện thoại, phụ kiện công nghệ… vào dịp cuối năm vì nhiều ưu đãi, mã giảm giá.

“Những năm gần đây tôi đều có thói quen chờ đến lễ hội mua sắm 10/10, 11/11 hay 12/12, canh sale rồi mua một lượt. Có đợt tôi tiết kiệm đến vài triệu đồng nhờ ‘săn’ mã giảm giá hay canh giờ vàng săn sale”, Phong cho hay.

Hồng Ngọc hay Quốc Phong là hai trong số nhiều người dùng Việt mạnh tay mở hầu bao mua sắm ngay khi vừa hết lệnh giãn cách tại TP HCM.

Điều đó phần nào cho thấy sức mua của người dùng chưa có dấu hiệu hạ nhiệt. Đồng thời, họ ngày càng chi tiêu thông minh hơn khi tận dụng tối đa ưu đãi từ nhà bán hàng, thương hiệu và sàn thương mại điện tử để mua sắm.

Cơ hội đi kèm thách thức.

Liên đoàn bán lẻ Mỹ mới đây đã đưa ra dự đoán doanh thu bán lẻ tại nước này có thể tăng khoảng 6,5-8,2% trong năm 2021. Đây là mức tăng trưởng nhanh nhất kể từ năm 2004, bất kể những ảnh hưởng từ đại dịch.

Tại Việt Nam, báo cáo của Google, Temasek và Bain & Company công bố thương mại điện tử năm 2021 đạt giá trị 13 tỷ USD. Dự kiến đến năm 2025, con số này sẽ tăng lên 39 tỷ USD.

Với những số liệu tích cực trên, đây là thời điểm vàng để các doanh nghiệp đón đầu xu hướng từ cả hai nhóm người tiêu dùng mua sắm vì “trả thù” lẫn thói quen. Song, đi cùng với cơ hội luôn có thách thức.

Để đáp ứng làn sóng nhu cầu bùng nổ nhanh chóng và mạnh mẽ này, cả doanh nghiệp bán lẻ lẫn thương mại điện tử cần có chiến lược và định hướng rõ ràng trong cả hiện tại lẫn tương lai.

“Đứng trước những cơ hội và thách thức đó, hệ sinh thái thương mại điện tử với hậu thuẫn là nền tảng công nghệ vững chắc, sẽ là chìa khóa giúp tháo gỡ “nút thắt” này cho các doanh nghiệp”, vị Giám đốc Phát triển Đối tác Kinh doanh Lazada Việt Nam khẳng định.

Trợ lực từ thương mại điện tử.

Một trong những mục tiêu lớn nhất mà các doanh nghiệp bán lẻ và nhà bán hàng online tập trung hiện tại là cải thiện và tối ưu trải nghiệm mua sắm cho người dùng.

Hiện người dùng Việt đã dần quen với việc mua sắm online, tin tưởng vào chất lượng sản phẩm dù không cần thấy tận mắt, sờ tận tay.

Tuy nhiên để có thể đạt hiệu quả cao hơn, doanh nghiệp cần chú trọng dịch vụ. Trải nghiệm mua sắm vẫn là một trong những ưu tiên hàng đầu.

Thương mại điện tử hiện là một trong những kênh bán online tiềm năng và ổn định tăng trưởng cho doanh nghiệp. Song họ cũng cần biết cách tận dụng các công cụ, chính xác hỗ trợ từ các sàn để tối ưu doanh thu hiệu quả nhất.

Ông Hoàng cho biết với sàn thương mại điện tử Lazada, đơn vị luôn phối hợp chặt chẽ và hỗ trợ nhiệt tình những thương hiệu và nhà bán hàng đối tác.

Doanh nghiệp có thể thoải mái tiếp cận nguồn khách hàng sẵn có của các sàn, nhận sự hỗ trợ tiếp thị qua các chương trình, lễ hội mua sắm; đồng thời kết nối vận chuyển hàng từ doanh nghiệp đến tận tay người dùng.

Quá trình giao hàng kết hợp cùng thương mại điện tử như Lazada nhanh chóng và dễ dàng hơn bởi Lazada luôn không ngừng cải tiến về mặt công nghệ.

Ứng dụng AI, tự động hóa quy trình và giúp thiết kế tuyến đường vận chuyển hợp lý nhất. Đây là lợi thế to lớn mà thương mại điện tử mang lại cho doanh nghiệp.

Thêm vào đó, hình thức mua sắm kết hợp giải trí – Shoppertainment – cũng dần nổi lên như một hiện tượng và được người dùng Việt hưởng ứng nhiệt tình.

Nhất là trong thời gian giãn cách xã hội, các hoạt động giải trí online ngay trên ứng dụng thương mại điện tử như livestream, minigame… đều ghi nhận lượt truy cập và theo dõi kỷ lục.

Cụ thể, trong “Lễ hội mua sắm 11.11” của Lazada, kênh LazLive ghi nhận doanh thu tăng gấp bảy lần so với cùng kỳ năm ngoái. Kênh mua sắm này cũng trở thành một trong những công cụ được nhà bán hàng và thương hiệu tận dụng triệt để với số lượng tham gia tăng gấp 1,6 lần.

Qua đó, ông Nguyễn Huy Hoàng đã đưa ra kết luận rằng dù người tiêu dùng “điên cuồng” mua sắm vì thói quen hay do tâm lý “trả thù” dịch bệnh, điểm chung của xu hướng mới này vẫn là mang lại cơ hội cho doanh nghiệp bứt tốc trong thời bình thường mới.

Tận dụng tốt cơ hội này, doanh nghiệp không chỉ sớm quay lại “đường ray” tăng trưởng mà còn góp phần bù đắp thất thoát do kinh tế “đóng băng”.

Thêm vào đó, “Lễ hội mua sắm 12/12 – Sale cuối năm wow 90%” của Lazada diễn ra từ 12-14/12 đang khởi động rầm rộ. Đây cũng là lần đầu tiên Lazada áp dụng mức giảm giá đến 90%, hưởng ứng “Tháng khuyến mại tập trung 2021” do Bộ Công Thương phát động.

Với các ưu đãi lớn chưa từng có này, không chỉ người dùng mà cả các doanh nghiệp nhà bán hàng cũng có thể tận dụng, góp phần thúc đẩy kinh tế mau chóng phục hồi.

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: Link

Hà Anh

MWG và Kido ‘vung tay’ chiếm lĩnh thị phần sau dịch: Bước đi có mạo hiểm?

Tay chơi mới trong lĩnh vực bán lẻ là Kido cũng đẩy nhanh tiến độ mở cửa hàng, bắt tay đối tác để tăng độ phủ thương hiệu Chuk Chuk.

Theo báo cáo Bộ Công Thương, kể từ đầu tháng 10, tình hình dịch Covid-19 tại nhiều địa phương cơ bản được kiểm soát và tiến hành nới lỏng các biện pháp phòng, chống dịch, từng bước phục hồi, phát triển kinh tế trong trạng thái bình thường mới.

Điều này giúp cho thị trường hàng hóa sôi động hơn so với thời gian thực hiện giãn cách trước đó, nhu cầu hàng may mặc tăng cao do đang trong giai đoạn chuyển mùa tại các tỉnh phía Bắc; nhu cầu đồ dùng, dụng cụ, trang thiết bị gia đình, vật phẩm văn hóa giáo dục cũng tăng sau một thời gian dài thực hiện giãn cách…

Do vậy, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ (tổng mức bán lẻ) tháng 10 tăng 18,5% so với tháng trước và giảm 19,52% so với cùng kỳ năm trước.

Qua tháng 11, với nhiều hoạt động kích cầu tiêu dùng, tháng khuyến mại tập trung, ngày mua sắm Thứ Sáu Đen Tối (Black Friday) được tổ chức tại nhiều địa phương, tổng mức bán lẻ tiếp tục tăng 6,2% so với tháng trước, song vẫn giảm 12,2% so với tháng 11/2020.

Lũy kế 11 tháng, tổng mức bán lẻ giảm 8,7% so với cùng kỳ năm trước do có nhiều tháng ghi nhận mức thấp, nhất là từ tháng 5 đến tháng 8 trước ảnh hưởng của dịch Covid-19 diễn biến phức tạp và kéo dài tại nhiều tỉnh, thành trên cả nước, đặc biệt là các địa phương lớn như Hà Nội, TP HCM, Đà Nẵng, Bình Dương, Đồng Nai, Khánh Hòa (tổng mức bán lẻ của các địa phương này chiếm tỷ trọng 50-60% của cả nước).

Bộ Công Thương đánh giá dịch bệnh khiến việc làm giảm, thu nhập giảm nên nhu cầu mua sắm hồi phục chưa thể tăng trở lại như những năm trước khi có dịch.

Trong bối cảnh nhu cầu phục hồi và nhiều nhà bán lẻ nhỏ bị ảnh hưởng nặng nề bởi dịch bệnh chưa thể trở lại kinh doanh như bình thường, các doanh nghiệp lớn có tiềm lực tài chính mạnh đã tranh thủ mở rộng quy mô, chiếm lĩnh thị trường.

Như Thế Giới Di Động – đơn vị thành viên của Đầu tư Thế Giới Di Động (HoSE: MWG) liên tiếp mở ra các chuỗi mới, thử nghiệm bán những mặt hàng chưa từng bán với mục tiêu tạo sự bứt phá.

Cụ thể, trong tháng 10, Thế Giới Di Động mở chuỗi Topzone tập trung vào các sản phẩm của Apple như iPhone, iPad, Apple Watch, Macbook và các phụ kiện kèm theo. Đến ngày 20/11, đơn vị này tiếp tục công bố khai trương chuỗi mới BlueJi đánh vào sản phẩm mắt kính hàng hiệu và trang sức.

5 siêu thị thuộc chuỗi này đã đi vào hoạt động từ 20/11. Mới đây, doanh nghiệp lại cho ra mắt chuỗi BlueSport chuyên bán các sản phẩm thời trời của những thương hiệu nổi tiếng như Nike, Puma, Adidas, Reebok…

Ông Đoàn Văn Hiểu Em, Thành viên HĐQT MWG, Tổng giám đốc Công ty Thế Giới Di Động chia sẻ dịch bệnh gây khó khăn cho hoạt động kinh doanh nhưng cũng mở ra không ít cơ hội. Trải qua dịch bệnh, Thế Giới Di Động nhìn ra được những cơ hội mới ở những lĩnh vực hoàn toàn khác biệt.

Ví dụ như lĩnh vực thời trang, đây là một lĩnh vực có nhu cầu lớn, dịch bệnh khiến các nhà bán lẻ nhỏ phải đóng cửa và tạo khoảng trống cho đơn vị khác nhảy vào. Theo đó, Thế Giới Di Động sẽ mở sớm và nhanh để giành lấy thị phần.

Không chỉ doanh nghiệp nội, Tập đoàn E Land – tập đoàn thời trang hàng đầu của Hàn Quốc cũng bày tỏ mong muốn lấn sân vào thị trường Việt Nam. Cụ thể, E Land sẽ hợp tác với Dệt may Thành Công (HoSE: TCM) để mở chuỗi bán lẻ, mang các thương hiệu thời trang Hàn Quốc vào thị trường Việt Nam.

Tiết lộ với Người Đồng Hành, ông Trần Như Tùng – Chủ tịch HĐQT cho biết 2 bên đã có bước chuẩn bị như nghiên cứu thị trường, tìm mặt bằng… để đầu năm sau khởi động.

Tập đoàn Kido (HoSE: KDC) đang có những bước đi mới nhằm nhanh chóng bành trướng chuỗi bán lẻ Chuk Chuk. Cho ra mắt từ tháng 6, nhưng dịch bệnh khiến kế hoạch mở rộng chuỗi của Kido bị trì hoãn và mới được khởi động lại vào cuối tháng 10.

Sau 1 tháng, ông Trần Lệ Nguyên, Tổng giám đốc Kido cho biết đã mở được 10 cửa hàng, mỗi cửa hàng ghi nhận 500-800 hóa đơn mỗi ngày. Kido đặt mục tiêu mở thêm 40 cửa hàng trong tháng 12 và 400 trong năm 2022.

Chuỗi bán lẻ Chuk Chuk của Kido.

Tổng giám đốc Kido nhìn nhận dịch Covid-19 vẫn là một thách thức lớn, tuy nhiên cũng nhờ dịch bệnh mà đơn vị tìm kiếm được mặt bằng vị trí đẹp dễ dàng hơn cùng chi phí thấp hơn đến 50% so với trước dịch.

Không dừng ở đó, Kido còn bắt tay với Tập đoàn Sơn Kim để đưa sản phẩm Chuk Chuk vào trong hệ thống các cửa hàng GS25. Việc này nhằm mục đích đưa sản phẩm của Chuk Chuk tiến nhanh ra thị trường miền Bắc và xa hơn là Hàn Quốc.

Mặt khác, dịch bệnh bùng phát mạnh trong quý III, nhiều loại hình kinh doanh phải tạm đóng cửa thì các cửa hàng tiện lợi cùng siêu thị, siêu thị mini vẫn được mở cửa để đảm bảo cung cấp sản phẩm thiết yếu cho người dân.

Việc có ki ốt trong cửa hàng GS25 sẽ giúp Chuk Chuk vẫn phục vụ được các tín đồ trà sữa tương tự như Phúc Long mở ki ốt tại Winmart+.

Nhiều ý kiến cho rằng với xu hướng mua hàng ngày càng chuộng online như hiện nay, kết hợp dịch Covid-19 vẫn là yếu tố bất định thì việc bành trướng, mở rộng chuỗi cửa hàng khá rủi ro, làm gia tăng chi phí cho doanh nghiệp.

Bà Trần Khánh Hiền, Giám đốc Khối phân tích VNDirect đánh giá mặc dù xu hướng hiện nay là bán hàng online, kênh thương mại điện tử, song rất nhiều “ông lớn” trong lĩnh vực này phải quay lại mở cửa hàng vật lý, kho hàng do bị phụ thuộc chuỗi logistics.

Do vậy, những doanh nghiệp bán lẻ xây dựng được tập khách hàng, có mạng lưới cửa hàng vật lý và dòng tiền mạnh sẽ có nhiều lợi thế.

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: Link

Hà Anh

Phân tích chiến lược Marketing của Gucci

Gucci – thương hiệu thời trang cao cấp của Ý với hơn một thập kỷ hình thành và phát triển đã khẳng định tên tuổi của mình trong làng mốt thời trang thế giới. Để có được thành công đó, Gucci đã thực hiện những chiến lược marketing hiệu quả trên nhiều kênh khác nhau.

chiến lược marketing của gucci
Phân tích chiến lược Marketing của Gucci – Hành trình trở thành “Luxury Brand”. Source: Pexels

Trước khi tìm hiểu chiến lược Marketing và phân tích ma trận SWOT của Gucci, bạn có thể xem SWOT là gì để có những góc nhìn toàn diện nhất về mô hình ma trận này.

Bên dưới là nội dung chi tiết.

Tổng quan về thương hiệu thời trang Gucci.

The House of Gucci hay còn gọi ngắn gọn Gucci – thương hiệu thời trang được thành lập bởi Guccio Gucci tại Florence vào năm 1906 tại Florence.

Gucci là một trong những nhãn hiệu thời trang nổi tiếng thế giới. Sau hơn 100 năm phát triển, Gucci hiện có hơn 425 cửa hàng tại nhiều thành phố lớn trên toàn thế giới và nhiều cửa hàng nhượng quyền khác.

Thương hiệu Gucci mang logo hình 2 chữ G lồng ngược vào nhau tạo nên hình móng ngựa đặc trưng. Bằng sự khéo léo của mình, các nhà thiết kế của Gucci đã đưa biểu tượng này vào các sản phẩm túi xách, giày, mắt kính, quần áo… và trở thành điểm đặc trưng của thương hiệu này.

Một vài dấu mốc đánh dấu quá trình hình thành và phát triển của Gucci:

  • Năm 1920: Guccio Gucci – nhà sáng lập Gucci mở một công ty nhỏ chuyên bán túi xách và yên ngựa tại Florence.
  • Năm 1930: Gucci thu hút đông đảo khách hàng thượng lưu sành điệu với các sản phẩm túi xách, giày, găng tay và dây lưng cho những người cưỡi ngựa.
  • Năm 1950: Gucci khai trương cửa hàng tại New York, London, Milan, Palm Beach, Beverl Hills để tạo dựng thương hiệu hàng đầu. Đây cũng là năm ra đời chiếc dây thắt lưng bằng vải sọc và chiếc giày da có đính kim loại nổi tiếng của Gucci.
  • Năm 1970: Gucci mở rộng kinh doanh sang châu Á bằng việc xây dựng các cửa hàng mới tại Hồng Kông và Tokyo.
  • Năm 1990: Tom Ford trở thành giám đốc thiết kế của Gucci.
  • Năm 1999: Thực hiện liên minh với Pinault – Printemps – Redoute và chuyển toàn bộ công ty từ những nhãn hiệu đơn lẻ thành một tập đoàn đa nhãn hiệu mang tên Kering.
  • Năm 2000: Mở thêm nhiều cửa hàng tại nhiều thành phố lớn trên toàn thế giới, đánh dấu sự có mặt của Gucci trên toàn cầu.

Mang một chất riêng khác biệt, Gucci trở thành thương hiệu thời trang thu hút mạnh mẽ người tiêu dùng.

Tại Việt Nam, năm 2007, Gucci mở cửa hàng đầu tiên tại khách sạn Sheraton Sài Gòn, đường Đồng Khởi, TP. Hồ Chí Minh và ba năm sau Gucci mở cửa hàng thứ hai tại 63 Lý Thái Tổ, Hà Nội.

Với các cửa hàng tại những thành phố lớn của Việt Nam, Gucci đã đáp ứng nhu cầu mua sắm hàng hiệu cao cấp của giới mộ điệu thời trang trong nước.

Phân tích mô hình ma trận SWOT của Gucci.

Phân tích S (Strengths) – Điểm mạnh của Gucci.

Nhắc đến Gucci, người tiêu dùng sẽ nhớ đến hình ảnh của một thương hiệu thời trang cao cấp với sự hiện diện trên toàn thế giới.

Với hệ thống cửa hàng rộng lớn, Gucci thực hiện chặt chẽ công tác kiểm soát kênh phân phối. Đây cũng được xem là một phần trong chiến lược phòng thủ của Gucci để nắm bắt những giá trị gia tăng thay vì bán sản phẩm qua những đơn vị trung gian khác như nhà cung cấp hay nhà bán lẻ.

Ngoài ra, Gucci cũng thực hiện tăng số lượng cửa hàng mà họ trực tiếp quản lý, điều hành. Năm 2003, doanh thu từ các cửa hàng điều hành trực tiếp chiếm 63,1%, so với năm 1999 chỉ đạt 32,5%.

Phân tích W (Weaknesses) – Điểm yếu của Gucci.

Điểm yếu của Gucci phải kể đến sự bất ổn trong quản lý cũng như cơ sở tài chính, và xung đột lợi ích trong nội bộ doanh nghiệp.

Sự bất ổn trong quản lý đã ảnh hưởng không nhỏ đến chiến lược của công ty, khiến Gucci có thời gian lâm vào tình trạng khó khăn.

Cơ sở tài chính yếu kém suy giảm tỷ suất lợi nhuận cao trong nợ nần. Năm 1998 mức tăng nợ dài hạn 17 triệu $ và đến năm 1999 tăng lên 143 triệu $ và đến năm 2003 thì tăng lên 1,3 tỷ $.

Bên cạnh đó, việc phải đầu tư bảo vệ và duy trì hình ảnh thương hiệu cũng khiến Gucci tiêu tốn một số tiền không hề nhỏ.

Phân tích O (Opportunities) – Cơ hội của Gucci.

Các thị trường cao cấp đang nổi lên ở các nền kinh tế phát triển mạnh và đông dân như Trung Quốc, Ấn Độ là tiềm năng lớn cho các thương hiệu thời trang cao cấp, trong đó có Gucci.

Việc phát triển các mảng kinh doanh khác nhau của Gucci và tạo ra các sản phẩm trong lĩnh vực thời trang là cơ hội lớn của thương hiệu thời trang nổi tiếng này.

Phân tích T (Threats) – Thách thức của Gucci.

Là thương hiệu thời trang cao cấp và xa xỉ, Gucci không nằm ngoài luồng khi phải chịu sự cạnh tranh từ các thương hiệu khác.

Chưa kể có những thời điểm các nhãn hàng đồ thể thao như Adidas, Nike còn vượt mặt nhiều tên tuổi như Chanel, Louis Vuitton, Gucci về lượt tìm kiếm và yêu thích trên mạng xã hội.

Điều đó có thể thấy có những thời điểm các quý cô đã quá mệt mỏi với những món hàng hiệu nhanh chóng lỗi thời mà thay vào đó là các set đồ năng động, khỏe khoắn.

Ngoài ra, một thách thức lớn đối với Gucci đó là các mặt hàng, sản phẩm thường xuyên bị đạo nhái trên thị trường. Do đó, các khách hàng đích thực có thể quay lưng với họ nhằm tránh bị đụng hàng và thể hiện được đẳng cấp mà không phải ai cũng có được.

Phân tích chiến lược Marketing của Gucci.

Chiến lược quảng cáo gây sốc (Shockvertising) của Gucci.

Dưới sự dẫn dẫn của Tom Ford – Giám đốc sáng tạo, Gucci đã đưa “sex sells” (Quảng cáo có yếu tố tình dục mạnh) lên một tầm cao mới.

Không chỉ tái tạo các dòng sản phẩm Gucci để ra mắt những trang phục quyến rũ, hiện đại mà còn làm việc với đội ngũ sáng tạo để làm nên những TVC truyền thông gợi tình của Gucci.

Với chiến lược quảng cáo gây shock được áp dụng đúng lúc, đúng chỗ về chủ đề nhạy cảm, Gucci nhanh chóng thu hút sự chú ý, thảo luận của giới mộ điệu thời trang cũng như người tiêu dùng.

Lý do đằng sau sự thành công của chiến thuật đưa “sex sells” vào có thể đến từ nỗi ám ảnh với những nhân vật nổi tiếng trong văn hóa nhạc pop, pha trộn chút “pop moment” – thứ dùng để gọi đến “sự trở lại của sự quyến rũ” trong thời trang. Đây được xem là một trong những chiến lược marketing độc đáo của Gucci.

Mới đây, trong bộ ảnh quảng cáo Bộ sưu tập mùa xuân 2020, Gucci mang đến một không khí cổ điển nhưng cũng cực kì nổi loạn và thu hút sự quan tâm đặc biệt của giới mộ điệu.

Chiến lược Influencer Marketing – hợp tác với những “Showbiz Icons”.

Với sự linh hoạt của mình, Gucci nhanh chóng hợp tác cùng những ngôi sao, “Showbiz Icons” nhằm quảng bá, giới thiệu và khẳng định vị thế của thương hiệu xa xỉ này.

Những biểu tượng phong cách thời trang nổi tiếng và có tầm ảnh hưởng như Harry Styles, Kate Moss, Rihanna, Victoria Beckham… chính là những cái tên nổi tiếng đại diện cho thương hiệu Gucci trong nhiều chiến dịch quảng cáo.

Dưới thời của vị Giám đốc sáng tạo mới – Alessandro Michele thương hiệu này vẫn tiếp tục duy trì hợp tác cùng với các ngôi sao hàng đầu thế giới. Những “thần tượng giới trẻ” toàn cầu như Harry Styles, Lana Del Rey, EXO Kai, Jared Leto… đều được  Gucci “chiêu mộ” và trở thành đại sứ thương hiệu của họ.

Ngay sau khi EXO Kai xuất hiện với tư cách khách mời để chiêm ngưỡng BST Cruise 2019 của Gucci tại Pháp, lượng thảo luận về Gucci nhanh chóng đạt đỉnh và trở thành xu hướng thịnh hành trên mạng xã hội Twitter.

Tại Việt Nam, Gucci cũng tích cực tổ chức các sự kiện dành cho ngôi sao, Fashionista với sự góp mặt của nhiều tên tuổi đình đám như Quỳnh Anh Shyn, Khánh Linh Cô Em Trendy, AMEE, Châu Bùi… góp phần đưa thương hiệu Gucci đến gần hơn với giới trẻ.

Meme Marketing – dùng meme chẳng ngại “kém sang”.

Chẳng ngại “bắt trend” và “đùa vui” bất chấp định vị thương hiệu xa xỉ và cao cấp của mình, Gucci đã thực hiện nhiều nội dung dí dỏm, những hình ảnh meme hài hước phù hợp với tập khách hàng Millennials (thế hệ Y).

Các nội dung nhanh chóng được lan truyền với tốc độ chóng mặt trên các trang xã hội và đạt 120 triệu lượt tiếp cận (tính đến năm 2017).

Với chiến dịch quảng bá đồng hồ mới của mình, chiến dịch “That Feeling When Gucci”, thương hiệu này đã sáng tạo một chuỗi các hình ảnh hài hước, thú vị, phù hợp với tâm lý khách hàng và không hề “kém sang”.

Chiến lược marketing của Gucci này được đánh giá gần gũi và tiếp cận gần hơn với các khách hàng trẻ tuổi của Gucci.

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: Link

Hà Anh | Theo Misa

Thị trường bán lẻ kỳ vọng phục hồi mạnh

Thị trường bán lẻ đang kì vọng sẽ phục hồi mạnh mẽ vào những tháng cuối năm, khi mà nhu cầu chi tiêu của người dân đã bị dồn nét suốt thời gian qua sẽ được bùng nổ trở lại.

bán lẻ
Source: Microsoft News

Tác động của dịch bệnh Covid-19 diễn biến phức tạp và kéo dài tại nhiều tỉnh, thành trên cả nước, nhất là các địa phương lớn như Hà Nội, TP.HCM, Đà Nẵng, Bình Dương, Đồng Nai, Khánh Hòa đã ảnh hưởng đến tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng chung của cả nước.

Tại nhiều địa phương thực hiện giãn cách và tăng cường giãn cách xã hội theo Chị thị 15/CT-TTg, Chỉ thị 16/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ nhằm phòng chống dịch Covid-19, các hoạt động đi lại, buôn bán hàng hóa, kinh doanh dịch vụ, vui chơi, giải trí, xúc tiến thương mại bị hạn chế.

Doanh thu các ngành du lịch, dịch vụ ăn uống đều giảm mạnh do người dân thắt chặt chi tiêu, nhu cầu chủ yếu chỉ tập trung vào các hàng hóa thiết yếu như lương thực, thực phẩm, nhu yếu phẩm phục vụ đời sống hàng ngày.

Theo số liệu từ Bộ Công thương, trong tháng 9, dịch Covid-19 bước đầu được kiểm soát ở một số địa phương, nhiều hoạt động sản xuất kinh doanh và dịch vụ được phép hoạt động trở lại, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng 9/2021 tăng 6,5% so với tháng 8/2021, tuy nhiên vẫn giảm 28,4% so với cùng kỳ năm 2020.

9 tháng năm 2021, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng trên cả nước đạt 3.367,7 nghìn tỷ đồng, giảm 7,1% so với cùng kỳ năm 2020, nếu loại trừ yếu tố giá giảm 8,7% (cùng kỳ năm 2020 giảm 5,1%).

Riêng tại TP. HCM, doanh thu bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng đạt 4 tỷ USD, giảm tới 64% theo quý và 71% theo năm trong quý III/2021.

Tổng mức bán lẻ hàng hoá suy giảm đã ảnh hưởng lớn tới hoạt động cho thuê mặt bằng bán lẻ. Nhiều doanh nghiệp và hộ kinh doanh vừa và nhỏ đã phải kết thúc hợp đồng sớm hoặc ngưng tái kí hợp đồng thuê cửa hàng, mặt bằng kinh doanh.

Số liệu của Savills Việt Nam cho thấy, một số cửa hàng tại khu vực trung tâm đóng cửa trong quý III khiến công suất tại khu vực này giảm 2% và giá chào thuê giảm 2% theo quý. Chỉ có một số ít khách thuê vẫn hoạt động trong suốt quá trình giãn cách nghiêm ngặt tại TP. HCM, là các cửa hàng bán lẻ hiện đại, cửa hàng tiện lợi, siêu thị.

Là một trong những phân khúc chịu ảnh hưởng mạnh mẽ nhất do tác động của các chính sách giãn cách xã hội, nhiều khách thuê F&B cho biết doanh thu của họ chỉ ở mức khoảng 20-30% so với thời điểm tháng 4-5 khi mà việc giãn cách chưa quá nghiêm ngặt.

Điều này đã khiến thị trường F&B tiếp tục chứng kiến động thái trả mặt bằng sớm, hoặc chấm dứt gia hạn hợp đồng của rất nhiều doanh nghiệp, trong đó có cả những thương hiệu nổi tiếng, luôn thu hút được nhiều khách hàng trong thời điểm trước đây như Starbucks, The Coffee House…

Nguyên nhân được bà Võ Thị Khánh Trang, Phó giám đốc bộ phận nghiên cứu, Savills Việt Nam chỉ ra là do chi phí mặt bằng là một trong những chi phí rất đáng kể trong tổng chi phí của một doanh nghiệp F&B, kế tiếp đó là về nhân lực.

Thêm vào đó, trong thời gian qua, để đảm bảo được an toàn trong mùa dịch, các cơ quan chức năng yêu cầu các nhân viên muốn đi làm lại bình thường thì ít nhất là phải được tiêm ngừa vắc xin đầy đủ- giờ đây cũng là một trong những trở ngại đối với doanh nghiệp.

Chính vì vậy, việc trả mặt bằng sớm của một hoặc nhiều địa điểm trong chuỗi cửa hàng được đánh giá là một chiến lược hiệu quả của các doanh nghiệp vừa và nhỏ, khi họ đang cố gắng để giữ được những cửa hàng hiệu quả để có thể cầm chừng trong thời gian ít nhất là ba tháng tới tức là quý IV/ 2021, sau đó sẽ có động thái để mở rộng các chuỗi trong 2022.

Triển vọng hồi phục tích cực vào cuối năm.

Mặc dù thị trường hiện tại còn nhiều khó khăn, song theo bà Trang, kỳ vọng phục hồi trong 3 tháng cuối năm của thị trường bán lẻ là khá khả quan.

Thời điểm quý IV trùng với nhiều lễ hội làm gia tăng nhu cầu của mua của người dân nói chung, với điều kiện dịch bệnh sẽ được kiểm soát tốt hơn thì việc tiêu dùng, chi tiêu của người dân cũng sẽ bắt đầu quay trở lại, để bù lại nhu cầu mua sắm tiêu dùng bị dồn nén trong sốt thời gian giãn cách vừa qua.

Quý IV2021 được kỳ vọng là thời điểm mà mức tiêu dùng bùng nổ mạnh mẽ, từ đó sẽ giúp cho các ngành bán lẻ và đặc biệt là ngành F&B có các dấu hiệu tích cực hơn.

Trước đó, Bộ Công thương cũng dự báo, nhu cầu mua sắm cuối năm tăng cao sẽ giúp thúc đẩy sức mua của thị trường nội địa, tạo ra động lực tăng trưởng cho các tháng cuối năm. Dự kiến năm 2021, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tăng khoảng 3 – 4% so với năm 2020.

Đối với nhóm khách thuê mới, trong ngắn hạn, các thương hiệu nước ngoài thâm nhập vào thị trường bằng hình thức phân phối trực tiếp có thể sẽ trì hoãn do những hạn chế trong vấn đề đóng cửa biên giới. Các thương hiệu sẽ thâm nhập thị trường thông qua các đối tác phân phối trong nước.

Bất chấp dịch bệnh, Marc Jacob, Tiffany & Co, Dyson, Under Amour, Champion, Sociollla đã vào thị trường từ 2020. Đồng thời các thương hiệu nước ngoài mới như Sephora và Arabica dự kiến sẽ vào thị trường trong 2022. Các hãng khác như Bath & Body Work, Prima Donna, Sports Direct cũng được kì vọng sẽ vào thị trường.

Về phía chủ cho thuê, hầu hết chủ cho thuê vẫn duy trì giá chào thuê. Giá thuê trung bình tương đối ổn định theo quý và theo năm đạt 49 USD/m2/tháng.

Đánh giá về những động thái từ phái chủ nhà, bà Trang nhận định, dù không giảm giá trên giá chào thuê, họ đã có các chính sách tốt hơn cho các khách thuê mới, như kéo dài thời gian sửa chữa của khách hàng trong thời gian đầu, hoặc giảm từ 30-50% trong 3-6 tháng đầu tiên cho các hợp đồng kí mới từ 3-5 năm.

Ngoài ra, với khách thuê hiện hữu, chủ nhà cũng có những hỗ trợ rất tích cực thông qua nhiều dự án giảm giá đến 70% giá thuê mỗi tháng cho đến khi hoạt động trở lại hoặc trực tiếp miễn phí các tháng vừa qua khi mà các khách thuê không thể mở cửa, song song đó là giảm 50% giá dịch vụ.

Mặc dù vậy, theo đánh giá của Savills, các doanh nghiệp cần có những chiến lược kinh doanh dài hơn và hiệu quả hơn Trong thời gian vừa qua, không chỉ nhóm dân số trẻ, mà cả các tầng lớp trung niên hay cao tuổi cũng đã bắt đầu thích nghi với việc sử dụng công nghệ trong việc mua bán online.

Việc này sẽ ảnh hưởng đến tâm lý của người tiêu dùng, độ trung thành của họ sẽ giảm lại và họ dễ bị tác động bởi các thông tin, những đánh giá ngay trên online.

Các thương hiệu cần phải chú ý đến việc thay đổi hành vi tiêu dùng, với những kế hoạch bền vững để giữ được lượng khách trung thành của mình, thông qua việc đưa ra những chiến lược truyền thông hoặc quảng bá, song song với đó là những chiến lược chăm sóc khách hàng, hậu mãi ngay trong thời gian tới.

Thời gian này cũng là lúc chính các doanh nghiệp cần phải ngồi lại và xem xét các chiến lược chuyển đổi cách thức phục vụ khách hàng, chú trọng vào việc chăm sóc khách hàng, nâng câo những trải nghiệm của khách hàng đối với việc chuyển đổi số nhiều hơn, bà Trang cho biết.

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: Link

Hà Anh

Nike coi “sự đổi mới, sức mạnh thương hiệu và quy mô” là yếu tố quyết định với D2C

Nike chỉ ra rằng doanh số bán hàng trực tiếp tăng 28% lên 4,7 tỷ USD và sự gia tăng của doanh số bán hàng trực tuyến là bằng chứng về mức độ hiệu quả của chiến lược kỹ thuật số của họ.

Nike coi "sự đổi mới, sức mạnh thương hiệu và quy mô" là yếu tố quyết định với D2C

Theo đó, Nike đã ghi nhận sự gia tăng của mảng kinh doanh kỹ thuật số là động lực giúp doanh thu tăng 16% và cho biết họ hy vọng kỹ thuật số sẽ là kênh tăng trưởng hàng đầu trong năm nay.

Phát biểu trong một cuộc họp với các nhà đầu tư vào ngày 23 tháng 9 vừa qua, Giám đốc điều hành John Donahoe cho biết:

“Ngay cả khi lượng khách hàng đến các cửa hàng bán lẻ vật lý quay trở lại trên phần lớn danh mục sản phẩm, kỹ thuật số vẫn tiếp tục đà tăng trưởng với mức tăng trưởng 25%, dẫn đầu là thị trường Bắc Mỹ với mức hơn 40%.

Sự thành công về mặt kỹ thuật số của chúng tôi là bằng chứng của sự đổi mới về sản phẩm, sức mạnh thương hiệu và quy mô nhằm thúc đẩy các mối quan hệ có ý nghĩa của chúng tôi với người tiêu dùng.”

Nike Digital (mảng kinh doanh kỹ thuật số) hiện chiếm 21% tổng doanh thu, tăng hai điểm so với năm ngoái. Thương hiệu này cũng cho biết họ “đang có vị trí tốt” để đạt được mục tiêu là “doanh nghiệp số với 40% doanh thu đến từ mảng kinh doanh số” vào năm 2025.

Gã khổng lồ về thời trang thể thao cũng lưu ý thêm rằng, đại dịch đã khiến Nike ở một “vị thế mạnh hơn” so với các đối thủ. Chiến lược tập trung đẩy mạnh bán hàng trực tiếp đến người tiêu dùng (D2C) của Nike đang tận dụng sự chuyển đổi này từ thị trường.

Nike đã đưa ra chiến lược tập trung vào việc bán hàng trực tiếp cho người tiêu dùng vào năm 2017 nhằm mục tiêu “tận dụng sức mạnh của kỹ thuật số” thông qua thương mại điện tử, ứng dụng và đổi mới sản phẩm.

Đẩy mạnh chiến lược kỹ thuật số.

Nike cho biết sự tăng trưởng kỹ thuật số của họ được dẫn dắt bởi những khách hàng lặp lại, họ là những thành viên của các nền tảng kỹ thuật số như ứng dụng Nike (Nike app) và các huấn luyện viên trên ứng dụng SNKRS (SNKRS app). Gần 70% doanh số bán hàng kỹ thuật số là từ các thành viên trung thành của Nike.

Nike cũng cho biết một phần của sự gia tăng doanh số bán hàng kỹ thuật số của thương hiệu đến từ việc phát triển giá trị gia tăng cho các thành viên của Nike, chẳng hạn như việc cấp quyền truy cập sớm vào các sản phẩm độc quyền cho các thành viên của SNKRS.

CEO Nike, Donoahoe cho biết: “Cách tiếp cận là chúng tôi gửi các đề xuất mua hàng được cá nhân hóa cho các thành viên dựa trên mức độ tương tác của họ với SNKRS, các nỗ lực mua hàng trong quá khứ và các tiêu chí khác – Nike hiện đang sử dụng khoa học dữ liệu để thúc đẩy việc nhắm mục tiêu tới các thành viên kỹ thuật số.”

Giám đốc tài chính Matt Friend cho biết thêm: “SNKRS ngày càng trở thành một chỉ số quan trọng và là thước đo “sức nóng của thương hiệu” hiện đang được vận hành trên quy mô lớn tại 50 quốc gia khác nhau trên thế giới.”

Ông Friend cũng cho biết thương hiệu đã vượt qua mục tiêu có 65% doanh số bán hàng đến từ các mặt hàng bán đủ giá (full-priced items), điều này đạt được bằng cách đẩy nhanh quá trình chuyển đổi số được dẫn dắt bởi khách hàng (consumer-led digital transformation).

Tập trung vào sự đổi mới.

Hai lĩnh vực trọng tâm chính của sự đổi mới thương hiệu sẽ là đồ may mặc và tính bền vững. Doanh số bán hàng của hàng may mặc của Nike đã tăng 16%, đặc biệt là do quần áo tập yoga đang tăng trưởng gấp bốn lần.

Trong khi đó, dòng giày dành cho huấn luyện viên Space Hippie ra mắt vào năm 2020, “được làm từ rác” theo đúng nghĩa đen, hiện cũng là dòng sản phẩm toàn cầu của thương hiệu với nhiều sự đổi mới.

CEO Donahoe cho biết: “Người tiêu dùng đang có những phản ứng rất rõ ràng với tính bền vững, họ rất quan tâm đến điều đó, và do đó chúng tôi đang chứng kiến ​​mức tăng trưởng rất tốt cho các dòng sản phẩm này.”

Kết quả quý 1 của Nike rất ấn tượng khi doanh thu tăng 16% lên mức 12,2 tỷ USD, doanh thu từ Nike Direct (doanh thu trực tiếp từ thương hiệu) là 4,7 tỷ USD, tăng 28%.

Nike cũng cho biết thêm, đại dịch đang thúc đẩy việc mua hàng trực tuyến và đang mang lại nhiều lợi ích cho các thương hiệu như Nike và Adidas, cả hai công ty đều đang đẩy nhanh chiến lược tiếp cận trực tiếp tới người tiêu dùng (D2C).

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: Link

Tra Nguyen

Omnichannel Strategy: Cách nhà bán lẻ có thể tăng trưởng bền vững với chiến lược đa kênh

Bối cảnh ngành bán lẻ đang ngày càng phức tạp. Các nhà bán lẻ phải đối mặt với những thách thức vận hành được gây ra bởi các hạn chế về thâm nhập kênh, cạnh tranh trực tuyến khốc liệt giữa các doanh nghiệp nhỏ và lớn, đồng thời nhu cầu của người tiêu dùng đang thay đổi nhanh chóng.

chiến lược đa kênh

Ngay cả khi mọi thứ có thể sẽ sớm phục hồi trở lại, nhưng mọi thứ sẽ không còn như cũ, các nhà bán lẻ phải suy nghĩ lại về chiến lược của họ để tăng trưởng dài hạn.

Giờ đây, khách hàng có vô số lựa chọn về việc họ mua hàng từ ai và mua như thế nào.

Đối với các thương hiệu, sự thay đổi nhanh chóng trong hành vi của người tiêu dùng đã dẫn đến việc họ cần xem xét kỹ hơn về cách hiển thị nội dung cho người tiêu dùng của họ theo những cách hữu ích hơn, phù hợp hơn và mang nhiều ý nghĩa hơn.

Một số thương hiệu đã làm được điều này bằng cách tập trung vào các hoạt động chuyển đổi số, điều quan trọng hàng đầu để tăng giá trị doanh nghiệp.

Tuy nhiên, nghiên cứu của Google chỉ ra rằng chỉ có khoảng 30% những nỗ lực đó đã đạt được mục tiêu và dẫn đến những sự thay đổi bền vững.

Doanh nghiệp cần có một chiến lược năng động và tích hợp hơn để luôn ở bên khách hàng của họ theo cách có thể thúc đẩy sự tăng trưởng kinh doanh bền vững.

Để xây dựng một chiến lược đa kênh (omnichannel strategy) mạnh mẽ có thể tối ưu hóa hoạt động kinh doanh bán lẻ của bạn, điều quan trọng là chiến lược này phải được áp dụng trong toàn bộ hoạt động kinh doanh (không chỉ riêng marketing) và phải có các nguồn lực phù hợp để cam kết với những nỗ lực này.

Dưới đây là một số mẹo về cách suy nghĩ chiến lược trong việc chuyển đổi bán lẻ đa kênh mà doanh nghiệp hay thương hiệu của bạn có thể tham khảo.

Suy nghĩ lại về ranh giới giữa Online vs Offline.

Ngày nay, để sự hiện diện đa kênh có thể làm thúc đẩy sự tăng trưởng kinh doanh bền vững, doanh nghiệp cần phải vượt qua ranh giới hay rào cản giữa các hoạt động trực tuyến và ngoại tuyến bằng cách tiếp cận một chiến lược bán lẻ hợp nhất đáp ứng nhu cầu của mọi người dù cho họ đang ở bất kỳ nơi đâu trong hành trình mua sắm của khách hàng.

Về cơ bản, có sự hiện diện đa kênh có nghĩa là các nhà bán lẻ ngoại tuyến cũng mở rộng để thiết lập sự hiện diện trực tuyến của họ đồng thời tìm cách kết nối cả hai.

Tuy nhiên, với cơ hội kết nối liền mạch hơn giữa trải nghiệm trực tuyến và ngoại tuyến ngày nay và cách nó được hỗ trợ bởi những sự tiến bộ trong công nghệ marketing (Martech), kênh…, việc phân biệt một cách rõ ràng giữa các “The Line” đang trở nên khó khăn hơn bao giờ hết.

Các doanh nghiệp trực tuyến như Decathlon đang tìm cách “làm mờ” các The Line khi đang chuyển sang thiết lập các cửa hàng truyền thống và các thương hiệu như Zara cũng đang áp dụng các công nghệ kỹ thuật số tại cửa hàng của mình.

Các doanh nghiệp khác, như Chanel’s Boutique of Tomorrow đang thúc đẩy ranh giới của những trải nghiệm liền mạch với các dịch vụ sáng tạo hơn ở nhiều điểm tiếp xúc hơn của người tiêu dùng của họ.

Suy nghĩ lại về vai trò của sự chuyển đổi bên ngoài marketing.

Thật hấp dẫn khi doanh nghiệp nghĩ rằng bộ phận marketing nên quản lý bất kỳ thứ gì liên quan đến sự tương tác với người tiêu dùng.

Tuy nhiên, suy nghĩ hạn chế này có thể cản trở hiệu quả của các chiến lược bán lẻ đa kênh, đồng thời làm chậm quá trình chuyển đổi và kết quả kinh doanh của doanh nghiệp.

Đối với các chiến lược có thể tạo ra sức tác động thực sự đến lợi nhuận của bạn, sự hợp tác minh bạch, đa chức năng và liên kết chặt chẽ giữa các đội nhóm nội bộ là chìa khóa quan trọng hàng đầu.

Việc phá vỡ các khoảng cách trong phạm vi chiến lược, truyền thông và đo lường sẽ giúp bạn mở ra những sự tăng trưởng trong cả ngắn hạn và dài hạn.

Mặc dù mỗi bộ phận sẽ luôn có các giá trị độc nhất của riêng mình, nhưng điều quan trọng là các nhóm khác nhau không theo đuổi các mục tiêu duy nhất, điều có thể gây hại cho các mục tiêu kinh doanh tổng thể (và chung) của doanh nghiệp.

Ví dụ: việc đánh giá doanh số bán hàng trực tuyến và ngoại tuyến một cách độc lập có thể gây ra nhiều tranh cãi nội bộ khiến các nhóm có thể có thêm nhiều mâu thuẫn.

Thay vào đó, việc thống nhất và chia sẻ thông tin giữa các nhóm sẽ đảm bảo sự tập trung của mọi người là nâng cao một trải nghiệm đầy đủ cho khách hàng – tạo ra nhiều cơ hội hơn để bán chéo và thúc đẩy kết quả kinh doanh bền vững.

Suy nghĩ lại về quy trình của sự chuyển đổi.

Việc chuyển đổi kinh doanh hay chuyển đổi doanh nghiệp có thể trở nên khó khăn hơn khi chúng ta coi nó như một cuộc “đại tu” lớn, chúng ta đang làm gián đoạn các hoạt động kinh doanh bình thường của doanh nghiệp.

Suy nghĩ này có thể khiến các thương hiệu ngừng thực hiện những việc cần thiết hoặc tiếp cận việc chuyển đổi kinh doanh như một nỗ lực môt lần. Cả hai cách tiếp cận này đều ngăn cản các thương hiệu tối ưu hóa sự tăng trưởng của họ.

Tuy nhiên, bằng cách tiếp cận chiến lược chuyển đổi kinh doanh với tư duy làm nhiều lần và tăng trưởng dần dần, điều này giúp bạn dễ dàng đạt được những chiến thắng nhanh chóng trong ngắn hạn và thúc đẩy sự tăng trưởng bền vững trong dài hạn.

Theo mô hình của hành trình bán lẻ ngày nay, chuyển đổi không phải là một quá trình thực hiện một lần mà là theo những cách thay đổi liên tục và nhiều lần.

Doanh nghiệp bán lẻ của bạn sẽ có một hệ sinh thái đa kênh dành riêng cho bạn, vì vậy bạn có thể bắt đầu bằng cách xác định các yếu tố trong hệ sinh thái của bạn, đâu là những ưu tiên lớn nhất của bạn để tăng trưởng và thay đổi.

Hãy bắt đầu xây dựng hệ sinh thái riêng.

Một hệ sinh thái đa kênh linh hoạt có khả năng vượt qua nhiều thách thức hơn và thích ứng tốt hơn với những thay đổi nhanh chóng trong hành vi hoặc môi trường kinh doanh.

Nó kết nối bạn với nhiều khách hàng hơn và mang đến cho bạn những cơ hội được có mặt ở đó để cung cấp những trải nghiệm mua sắm giá trị nhất.

Cho dù bạn đang ở đâu trong hành trình trưởng thành đa kênh, việc hiểu cách khai thác các công cụ, công nghệ là điều không thể thiếu đối với sự phát triển của doanh nghiệp.

Dưới đây là một số suy nghĩ khởi đầu dành cho bạn:

  • Đặt những nền móng nội bộ đúng đắn. Đảm bảo rằng các sản phẩm, con người và công nghệ của bạn đều hoạt động đồng bộ để cùng hướng tới một mục tiêu chung.
  • Cung cấp những trải nghiệm khách hàng đáng nhớ. Đảm bảo một hành trình liên tục và liền mạch trong suốt quá trình trải nghiệm của khách hàng.
  • Học hỏi từ các chu kỳ marketing. Không ngừng đo lường và phân tích kết quả để bạn có thể cung cấp lại kiến thức cho các chiến lược mới của mình trong tương lai.
  • Thúc đẩy sự tăng trưởng thông qua tự động hóa. Hãy sử dụng dữ liệu để đạt được những tốc độ tăng trưởng liên tục trên quy mô lớn trong môi trường ngày nay.

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: Link

Nam Nguyen

Marketers nên làm gì để sẵn sàng cho những mùa mua sắm sắp tới

Google và BCG đã thực hiện một loạt các cuộc khảo sát để tìm hiểu những thay đổi trong hành vi mua sắm của người tiêu dùng trước các mùa mua sắm. Dưới đây là những phát hiện rất có ý nghĩa đối với các nhà bán lẻ.

Bà Suchi Sastri, Giám đốc điều hành tại đơn vị tư vấn hàng đầu thế giới BCG cho biết:

“Tôi hợp tác chặt chẽ với nhiều nhà bán lẻ trên toàn cầu trong quá trình chuyển đổi số quy mô lớn của họ với tư cách là đối tác tại BCG (Boston Consulting Group).

Khi các mùa lễ hội mua sắm đang đến gần và đại dịch vẫn tiếp tục phát triển, nhiều khách hàng của tôi muốn liệu điều gì sẽ xảy ra? Liệu thương mại điện tử có tiếp tục phát triển với tốc độ như năm ngoái hay không?

Việc mua sắm tại các cửa hàng (in-store shopping) sẽ đóng một vai trò lớn như thế nào đối với việc mua sắm trong các dịp lễ?

Theo khảo sát sơ bộ của chúng tôi, có khoảng 35% số người mua sắm ở Mỹ nói rằng COVID-19 sẽ ảnh hưởng đến cách họ mua sắm trong những ngày lễ năm nay, so với con số 53% vào năm 2020.

Để giúp các nhà bán lẻ trên toàn cầu hiểu rõ hơn về những thay đổi này, chúng tôi đã thực hiện một loạt các cuộc khảo sát với sự hợp tác của Google và Dynata trên hơn 12.000 người tiêu dùng tại Mỹ. Dưới đây là những gì chúng tôi tìm thấy.

Người tiêu dùng đang muốn trải nghiệm đa kênh (omnichannel) hơn bao giờ hết.

Suốt trong thời kỳ đại dịch, chúng ta đã chứng kiến một sự thay đổi mạnh mẽ đối với ngành thương mại điện tử.

Khi xem xét kỹ hơn, chúng ta thấy rằng mặc dù quá trình chuyển đổi trực tuyến diễn ra một cách nhanh chóng, nhưng thương mại điện tử đã dần chững lại hơn khi mọi người đang muốn tìm kiếm những trải nghiệm trực tiếp (in-person experiences) nhiều hơn.

Khi việc mua sắm tại các cửa hàng tăng lên, vai trò của yếu tố kỹ thuật số trong việc mua sắm cũng đã được củng cố nhiều hơn khi có đến 70% người tham gia khảo sát nói rằng hành trình mua sắm của họ liên quan nhiều đến các điểm tiếp xúc trực tuyến.

Kỹ thuật số sẽ là một phần quan trọng trong suốt hành trình của khách hàng, cho dù đó là trực tuyến hay tại các cửa hàng.

Bằng cách nào các thương hiệu có thể gắn kết các hoạt động marketing của họ với khách hàng.

Những thay đổi đó của khách hàng có ý nghĩa gì đối với doanh nghiệp hay thương hiệu của bạn và bạn nên điều chỉnh chiến lược marketing của mình như thế nào?

Đây là 4 phương án mà BCG và Google khuyên bạn nên làm:

  • Làm nổi bật các tuỳ chọn mua sắm trên các danh mục sản phẩm.
  • Đánh giá tính kinh tế của toàn bộ hoat động thương mại điện tử.
  • Nâng cao tính thân thiện trên các thiết bị di động.
  • Thúc đẩy lòng trung thành với các khách hàng hiện tại và phát triển tệp khách hàng mới.

1. Làm nổi bật các tuỳ chọn mua sắm trên các danh mục sản phẩm.

Đối với người tiêu dùng, có bốn động lực chính đưa họ đến với các cửa hàng – sự tiện lợi, tính tức thì, trải nghiệm trực tiếp và dùng thử sản phẩm. Từng động lực cũng có các ảnh hưởng khác nhau đến các danh mục sản phẩm.

  • Sự tiện lợi hoặc tính tức thì có khả năng thúc đẩy khoảng 40% người mua sắm tại cửa hàng cho hàng tạp hóa, làm đẹp, đồ vệ sinh cá nhân, chăm sóc thú cưng, chăm sóc sức khỏe, đồ gia dụng nhỏ…
  • Trải nghiệm trực tiếp hoặc dùng thử sản phẩm có thể thúc đẩy người tiêu dùng mua sắm nhiều hơn tại các cửa hàng đồ trang sức, túi xách và phụ kiện, quần áo và giày dép, đồ nội thất gia đình, nệm và các đồ gia dụng quan trọng khác. Ví dụ: các tìm kiếm cho “cửa hàng nội thất gần tôi” đã tăng hơn 100% trên toàn cầu so với năm ngoái.

Đối với các nhà bán lẻ thuộc nhiều danh mục khác nhau, sự kết hợp giữa yếu tố trải nghiệm và dùng thử sản phẩm trước khi mua sắm tại các cửa hàng có thể mang lại nhiều lợi thế đặc biệt.

Ví dụ: Bạn có thể xem xét việc sử dụng các trải nghiệm được hỗ trợ bởi kỹ thuật số như dùng thử sản phẩm bằng công nghệ ảo (virtual try-on) để làm nổi bật trải nghiệm dùng thử sản phẩm cho các danh mục như làm đẹp hoặc hàng gia dụng.

2. Đánh giá tính kinh tế của toàn bộ hoat động thương mại điện tử.

Nghiên cứu của BCG và Google phát hiện ra rằng nhu cầu cần được đáp ứng của người tiêu dùng là rất khác nhau, tùy thuộc vào yếu tố làm thúc đẩy quá trình mua hàng.

Ví dụ: Trong khi mức độ khẩn cấp là thấp đối với các sản phẩm như đồ tiêu dùng cá nhân hoặc các sản phẩm phục vụ cho các dịp đặc biệt sắp tới, nhiều nhà bán lẻ vẫn giao các gói hàng sớm hơn so với nhu cầu của người tiêu dùng.

Ngược lại, khi người tiêu dùng mua sắm các sản phẩm có mức độ khẩn cấp cao hơn chẳng hạn như các thiết bị gia dụng quan trọng, hơn 1/4 người mua sắm nói rằng họ không nhận được chúng đủ nhanh.

Việc hiểu nhu cầu giao hàng của khách hàng và marketing tới họ đều cấp thiết như nhau trong việc tối ưu hóa trải nghiệm của họ và tối ưu hóa cho lợi nhuận của thương hiệu.

3. Nâng cao tính thân thiện trên các thiết bị di động.

Người mua sắm tiếp tục xem trải nghiệm trên các thiết bị di động là ưu tiện hàng đầu, điều này thậm chí còn trở nên rõ rệt hơn trong năm qua.

Kể từ khi đại dịch bùng phát, hơn 1/4 người mua sắm trực tuyến đang mua sắm trên thiết bị di động của họ – mức 44% đối với hàng tạp hóa – mặc dù nhiều người đã truy cập gần như liên tục trên các máy tính cá nhân tại nhà của họ.

Theo Google, các từ khoá tìm kiếm liên quan đến “tải xuống ứng dụng mua sắm trực tuyến” đã tăng hơn 300% trên toàn cầu so với cùng kỳ năm ngoái.

Các nhà bán lẻ cần nhận ra các khía cạnh khác biệt của từng kênh và tối ưu hóa trải nghiệm của khách hàng sao cho phù hợp.

Họ cũng nên cân nhắc việc sử dụng deep-linking (dẫn khách hàng tới các trang cụ thể trong ứng dụng) hoặc thúc đẩy lượt tải xuống của ứng dụng cho các danh mục sản phẩm như hàng tạp hóa, những danh mục mà khách hàng thường mua qua thiết bị di động.

4. Thúc đẩy lòng trung thành với các khách hàng hiện tại và phát triển tệp khách hàng mới.

Vì người mua sắm đang muốn trải nghiệm đa kênh hơn bao giờ hết, các kênh kỹ thuật số sẽ tiếp tục đóng vai trò là điểm tiếp xúc (touchpoints) quan trọng trong hành trình mua sắm của người tiêu dùng.

Theo nghiên cứu của BCG, trung bình 64% khách hàng hiện tại tương tác với ít nhất là một điểm tiếp xúc kỹ thuật số (digital touchpoints) trong suốt hành trình mua sắm của họ, trong khi con số này với các nhóm khách hàng mới là hơn 80%.

Như thường lệ, khi các nhu cầu là không thể đoán trước, các giải pháp tự động có thể giúp thương hiệu tiếp cận đúng khách hàng vào đúng thời điểm nhất có thể.

Bạn có thể tham khảo nhiều Insights hơn để chuẩn bị cho các chiến lược kinh doanh và marketing của mình tại: Think Retail on Air.

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: Link

 

Tra Nguyen

3 khoản đầu tư mà thương hiệu cần làm để bắt kịp xu hướng bán lẻ mới

Các thương hiệu và doanh nghiệp đang phải đối mặt với cái mà chúng ta gọi là “Cuộc di cư bán lẻ vĩ đại” – là làn sóng mà người mua sắm chuyển sang trực tuyến để mua hàng trong thời kỳ đại dịch.

Vào năm 2020, Đông Nam Á có hơn 40 triệu người dùng Internet mới, nghĩa là hơn 70% dân số hiện đang trực tuyến. Những người mua sắm mới đã tạo ra hơn 1/3 doanh số thương mại trực tuyến của năm 2020. (Theo Google).

Trong số này, cứ 10 người thì có 8 người nói rằng họ có ý định tiếp tục mua sắm trực tuyến. Xu hướng này cũng đúng trên toàn cầu: chỉ 23% khách hàng nói rằng họ sẽ quay lại chi tiêu tại cửa hàng sau đại dịch.

Người tiêu dùng đã nâng cao kỳ vọng của họ khi mua sắm. Giờ đây, họ mong đợi các thương hiệu hiểu được sở thích mua sắm của họ, cung cấp những trải nghiệm được cá nhân hóa và mang đến một hành trình mua hàng nhanh chóng và thuận tiện hơn.

Mặc dù sự gián đoạn (disruption) không phải là một điều gì đó quá mới mẻ trong lĩnh vực bán lẻ, nhưng tốc độ và cường độ thay đổi trong năm qua là chưa từng có.

Để bắt kịp với những xu hướng bán lẻ mới hay “Cuộc di cư bán lẻ vĩ đại”, việc chuyển sang tận dụng và đầu tư một cách nhanh chóng các yếu tố kỹ thuật số là điều rất quan trọng.

Dưới đây là 3 khoản đầu tư mà các thương hiệu nên làm để kết nối với những người mua sắm trực tuyến và thúc đẩy sự tăng trưởng trong tương lai.

1. Đầu tư mạnh mẽ vào thương hiệu.

Bị mắc kẹt ở nhà vào suốt năm 2020, hơn 75% người dân ở các quốc gia được khảo sát trên toàn cầu đã chuyển sang khám phá các thương hiệu mới trên môi trường trực tuyến.

Và 30% người mua sắm trực tuyến đã mua ít nhất một nhãn hiệu mới đối với họ, một dấu hiệu cho thấy sự sẵn sàng dùng thử với những nhãn hiệu vốn không quen thuộc.

Để trở nên nổi bật hơn trong bối cảnh bán lẻ ngày càng cạnh tranh ngày nay, các thương hiệu cần phải xây dựng mối liên hệ chặt chẽ hơn với người tiêu dùng và cho mọi người những lý do để họ muốn tương tác với thương hiệu.

Việc thể hiện các giá trị thương hiệu của bạn là một cách để làm điều đó.

Người tiêu dùng sẵn sàng tăng chi tiêu của họ lên tới 31% cho các sản phẩm và thương hiệu thể hiện rõ các giá trị phù hợp với giá trị của họ. (Theo Google)

Đầu tư vào xây dựng thương hiệu cũng mang lại nhiều hiệu quả lâu dài. Mặc dù các hoạt động kích hoạt bán hàng (sales activations) có thể thúc đẩy doanh thu tức thì hơn, nhưng nó thường chỉ tồn tại trong một khoảng thời gian ngắn.

Các doanh nghiệp đầu tư mạnh vào việc xây dựng nhận thức về thương hiệu cũng có khả năng phục hồi tốt hơn.

Sau cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008, các doanh nghiệp đầu tư vào xây dựng thương hiệu đã phục hồi nhanh hơn 9X lần so với những doanh nghiệp khác.

2. Đầu tư vào các ứng dụng và website D2C riêng.

Mặc dù thị trường trực tuyến có thể đóng một vai trò quan trọng trong chiến lược bán hàng của bạn, nhưng việc đầu tư vào các website hay ứng dụng có thể bán trực tiếp đến người tiêu dùng (D2C) sẽ xây dựng mối quan hệ lâu dài hơn với khách hàng.

Mọi người cũng thích tương tác trực tiếp với các thương hiệu hơn:

  • 55% người tiêu dùng nói rằng họ muốn tác trực tiếp với các nền tảng riêng của thương hiệu.
  • 72% người tiêu dùng muốn tương tác qua ứng dụng (mobile app).
  • Người tiêu dùng muốn nhận được những thông tin rõ ràng về sản phẩm và nội dung chất lượng cao từ thương hiệu.

Sự kết nối trực tiếp tới các thương hiệu mang đến cho người tiêu dùng sự an tâm và cho phép các thương hiệu mang đến những trải nghiệm tức thì hơn.

Bạn có thể xây dựng danh tiếng, sự uy tín và lòng tin với khách hàng bằng cách thực hiện những việc như bản địa hóa các kênh truyền thông của mình bằng ngôn ngữ phù hợp với từng khu vực và xuất bản các bài đánh giá xác thực (reviews) của người dùng.

Các website D2C có thể giúp bạn cung cấp các so sánh sản phẩm một cách rõ ràng hơn, hỗ trợ sau bán hàng tốt hơn, cũng như cung cấp các dịch vụ giá trị gia tăng như khách hàng thân thiết hiệu quả hơn.

Trong khi các website D2C có thể được coi là đắt đỏ hơn trong một thị trường đông đúc, người mua sắm sẵn sàng trả thêm tới 20% cho các dịch vụ giá trị gia tăng mà thương hiệu cung cấp.

Tất nhiên, ứng dụng di động D2C cũng đóng một vai trò quan trọng không kém trong hành trình mua sắm. 80% người dùng đã cài đặt ít nhất một ứng dụng bán lẻ và 72% thích tương tác với các thương hiệu thông qua ứng dụng riêng của họ.

3. Đầu tư vào dữ liệu khách hàng của bên thứ nhất.

Các thương hiệu có thể hiểu sâu sắc hơn về khách hàng của họ thông qua vô số dữ liệu của bên thứ nhất (first party data) được thu thập từ các giao dịch thực tế tại các cửa hàng, lượt truy cập vào các website của thương hiệu và tương tác trên các kênh truyền thông mạng xã hội như Facebook hay YouTube.

Dữ liệu khách hàng của bên thứ nhất cũng cung cấp những hiểu biết chính xác về những người bạn đang bán hàng và đó cũng là cách tốt nhất để bạn có thể cá nhân hóa trải nghiệm mua sắm của họ.

Điều này đòi hỏi phải đầu tư mạnh hơn vào các công cụ phân tích trên các website và ứng dụng của bạn để khai thác tốt hơn các thông tin chi tiết của khách hàng.

Nếu bạn đang cảm thấy mình chưa tận dụng tối đa dữ liệu của bên thứ nhất? Bạn không hề cô đơn. Trong khi 87% thương hiệu tại khu vực APAC coi dữ liệu của bên thứ nhất là quan trọng đối với các nỗ lực marketing của họ, hơn một nửa tin rằng họ sử dụng dữ liệu đó dưới mức trung bình hoặc trung bình.

Nhiều thương hiệu cũng lo ngại rằng khách hàng có thể có những lo ngại về quyền riêng tư và thiếu sự tin tưởng vào thương hiệu cũng như các công nghệ của thương hiệu.

Nhưng bạn hãy nhìn nó theo cách này: 70% người dùng sẵn sàng chia sẻ thêm thông tin với các thương hiệu bán lẻ nếu điều đó đồng nghĩa với việc họ có được những trải nghiệm mua sắm tốt hơn. Các thương hiệu sử dụng dữ liệu này để tối ưu trải nghiệm mua sắm trực tuyến đã tăng thêm trung bình 11% doanh thu và tiết kiệm chi phí hơn 18%.

Tại Google, các nghiên cứu nội bộ cho thấy rằng các nhà bán lẻ sử dụng dữ liệu của bên thứ nhất đã có được mức doanh thu trung bình cao hơn 1,5 lần so với những thương hiệu không sử dụng và giúp tăng gấp 2,9 lần doanh thu khi họ sử dụng thêm các giải pháp quản lý đa kênh.

Trở nên thịnh vượng hơn trong “Cuộc di cư bán lẻ vĩ đại”.

Đối mặt với “Cuộc di cư bán lẻ vĩ đại”, các thương hiệu cần phải thích ứng với những chiến lược dài hơi do sự thay đổi liên tục trong hành vi và thói quen của khách hàng.

Bây giờ là lúc để doanh nghiệp đầu tư vào thương hiệu của mình, xây dựng các nền tảng D2C riêng và hiểu sâu hơn khách hàng thông qua dữ liệu của bên thứ nhất.

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: Link

Nam Nguyen

Amazon đang có kế hoạch mở cửa hàng bán lẻ vật lý đầu tiên tại Mỹ

Các cửa hàng vật lý này sẽ hoạt động giống như các cửa hàng bách hóa, đây là sự kiện lớn đánh dấu việc gã khổng lồ thương mại điện tử mở rộng dấu chân của mình trong lĩnh vực bán lẻ truyền thống. Theo Wall Street Journal.

Shutterstock

Một số cửa hàng bách hóa đầu tiên của Amazon dự kiến sẽ mở tại Bang Ohio và California, các cửa hàng này sẽ có diện tích khoảng 30.000 feet (khoảng gần 3000m2) và cung cấp các sản phẩm từ các thương hiệu hàng tiêu dùng nổi tiếng.

Amazon từ chối bình luận về các chi tiết liên quan.

Doanh số bán hàng tại các cửa hàng bách hóa lớn vốn là thiên đường mua sắm cho đến khi có sự gia nhập của các công ty thương mại điện tử, đặc biệt là Amazon.

Cũng kể từ đó, các cửa hàng truyền thống này đã không còn phát triển nữa, thậm chí một số các chuỗi bán lẻ nổi tiếng một thời như Sears, Neiman Marcus và J.C. Penney cũng phải tuyên bố phá sản.

Amazon hiện đang là đơn vị bán lẻ số một thế giới, thống trị không gian mua sắm trực tuyến, công ty này cũng đã đặt cược lớn vào các cửa hàng mua sắm truyền thống với việc mua lại cửa hàng tạp hóa cao cấp Whole Foods vào năm 2017.

Amazon cũng đã thử nghiệm với các cửa hàng vật lý nhỏ chủ yếu bán sách và tạp hóa ở ít nhất 13 bang của Mỹ bao gồm California, Colorado và Washington.

Trong thời gian Covid-19, gã khổng lồ thương mại điện tử này cũng đã được hưởng lợi không ít từ sự gia tăng của hoạt động mua hàng trực tuyến do các lệnh đóng cửa.

Các nhà bán lẻ truyền thống cũng chứng kiến mức doanh số bán hàng trực tuyến tăng vọt, mặc dù tổng doanh số bán hàng giảm do họ buộc phải đóng cửa nhiều các cửa hàng vốn chiếm phần lớn doanh thu của họ.

Doanh số bán hàng của các chuỗi cửa hàng bách hóa như Macy’s Inc (MN) và Kohl’s Corp (KSS.N) cũng đã vượt qua mức tăng trưởng kỳ vọng của Phố Walll, đồng thời họ cũng nâng dự báo về doanh thu và lợi nhuận cả năm của mình khi người tiêu dùng bắt đầu quay lại các cửa hàng và chi tiêu cho nước hoa, giày và quần áo.

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: Link

Nam Nguyen

Người làm marketing và kinh doanh học được gì từ việc Amazon soán ngôi Walmart

Amazon vừa thay thế Walmart để trở thành nhà bán lẻ lớn nhất thế giới bên ngoài Trung Quốc. Dưới đây là cách Amazon đã làm điều đó.

Người làm kinh doanh học được gì từ việc Amazon soán ngôi Walmart

Theo đó, đây là lần đầu tiên trong lịch sử, Amazon đã soán ngôi Walmart để trở thành nhà bán lẻ lớn nhất thế giới bên ngoài Trung Quốc.

Theo báo cáo của tờ New York Times, Amazon đã bán được hơn 610 tỷ USD hàng hóa trong 12 tháng kết thúc vào tháng 6, so với mức doanh số 566 tỷ USD của Walmart cũng trong 12 tháng qua.

Sự tăng trưởng đột biến của Amazon là đỉnh cao về tầm nhìn dài hạn của nhà sáng lập Jeff Bezos, người từng nói rằng sự tiện lợi của mua sắm trực tuyến kết hợp với giao hàng tận nhà cuối cùng sẽ là chìa khoá để thành công. Walmart đã chậm chân trong cuộc đua này.

Vậy chúng ta, với tư cách là những người làm marketing nói riêng và người làm kinh doanh nói chung có thể học hỏi được gì.

Hiển thị cho khách hàng những gì họ muốn, trước khi họ muốn nó.

Jeff Bezos từ lâu đã khẳng định rằng thương mại điện tử là con đường của tương lai. Đó là một lý do khiến công ty này đầu tư mạnh vào Amazon Prime, tập trung vào giao hàng trong một đến hai ngày cho nhiều mặt hàng.

Trong những năm gần đây, Walmart cũng đã dành những khoản tiền khổng lồ để đầu tư vào các dịch vụ thương mại điện tử của mình nhằm nỗ lực cạnh tranh với Amazon, đồng thời tiếp tục duy trì sự giới hạn trong lĩnh vực bán lẻ thực tế (physical retail).

Mô hình kết hợp (hybrid) của Walmart dường như mang lại những lợi thế khác biệt – chẳng hạn như việc giúp mọi người có thể tận mắt nhìn thấy sản phẩm của họ trước khi mua hoặc thử quần áo để đảm bảo chúng vừa vặn.

Nhưng rồi đại dịch Covid-19 ập đến.

Mặc dù nhiều khách hàng vẫn sẵn sàng mua sắm trực tuyến và sau đó nhận hàng hóa của họ từ một cửa hàng thực của Walmart, nhưng ngày càng có nhiều người chấp nhận sự an toàn và tiện lợi do Amazon cung cấp – cung cấp nhiều hàng hóa hơn và thậm chí còn được giao trực tiếp đến tận cửa nhà.

Ngoài ra, Amazon cũng đã tăng gấp đôi chiến lược của mình, bổ sung hàng trăm nhà kho mới và tuyển hàng trăm nghìn công nhân mới để đáp ứng nhu cầu tăng trưởng.

Nói cách khác, Amazon đã nỗ lực hết mình với tầm nhìn của mình và nó đã được đền đáp.

Đừng ghét những người vốn đã nỗ lực để thay đổi cuộc chơi.

Walmart vươn lên dẫn đầu bằng cách hoàn thiện mô hình bán lẻ quy mô lớn của mình. Nó đã xây dựng một mạng lưới hậu cần rộng khắp và vận hành nó giống như một đội đua Công thức 1, tạo ra nhiều khoản tiết kiệm cho khách hàng.

Thay vì cố gắng cạnh tranh trực tiếp theo mô hình của Walmart, Amazon tập trung vào một thứ hoàn toàn khác: làm cho trải nghiệm mua sắm trực tuyến càng thuận tiện càng tốt, để từ đó mọi người có thể yêu thích nó hơn so với việc đến một cửa hàng thực.

Nhưng ngoài việc tập trung vào thương mại điện tử, Amazon cũng khác với Walmart ở một khía cạnh chính khác.

Gần như tất cả doanh số của Walmart đến từ hàng trong kho của chính công ty. Amazon cũng có một kho hàng lớn, nhưng thành công thực sự của nó phụ thuộc vào những người bán bên thứ ba (third-party sellers), những người chỉ đơn giản là sử dụng Amazon làm nền tảng để bán hàng của chính họ.

Gần hai triệu người bán hàng kiểu này niêm yết sản phẩm trên Amazon, và họ chiếm hơn một nửa tổng số mặt hàng được bán của Amazon (theo báo cáo của Times).

Kết quả là gì?

Amazon duy trì ít chi phí hơn, thậm chí tạo ra ít doanh thu hơn – nhưng nó tạo ra nhiều lợi nhuận hơn.

Và bằng cách thay đổi cuộc chơi theo cách này, Amazon hiện đã vươn lên dẫn đầu.

Nhưng rõ ràng là mọi thứ vẫn chưa dừng lại ở đó, những công nghệ tiên tiến trong lĩnh vực thực tế ảo (VR) và thực tế tăng cường (AR) thì sao? Liệu những điều này có khiến khoảng cách giữa Amazon và Walmart tiếp tục được nới rộng ra không?

Thời gian chắc chắn sẽ trả lời điều đó.

Nhưng có một điều chắc chắn là,

Thế giới đã thay đổi, và sẽ không bao giờ quay trở lại như trước.

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: Link

Giang Nguyễn

Doanh số ngành bán lẻ giảm hơn nhiều so với dự báo

Người Mỹ đã mua sắm ít hơn dự kiến của tháng trước khi biến thể Delta ngày càng lan rộng, điều đã tạo nên lo ngại rằng đại dịch có thể một lần nữa đè nặng lên chi tiêu của người tiêu dùng và sự phục hồi kinh tế.

Cục điều tra dân số cho thấy rằng doanh số bán hàng đã giảm 1,1% trong tháng. Đó là một sự sụt giảm mạnh so với mức dự báo 0,3% từ các nhà kinh tế được Refinitiv khảo sát.

Đây cũng là lần giảm thứ hai liên tục trong ba tháng, điều đang cho thấy rằng một nhu cầu bị dồn nén có thể giúp thúc đẩy sự phục hồi đã không còn nữa.

Các dữ liệu kinh tế khác cho thấy biến thể Delta có thể khiến người tiêu dùng tạm dừng mọi hoạt động chi tiêu trong thời gian tới.

Tuần trước, dữ liệu sơ bộ từ Đại học Michigan cho thấy chỉ số tâm lý người tiêu dùng đã lao dốc trong tháng 8, xuống mức thấp nhất kể từ tháng 12/2011.

So sánh với năm 2020.

Ngay cả khi có nhiều biến động chi tiêu do đại dịch, doanh số bán lẻ vẫn vượt xa mức của năm ngoái, tăng gần 16% so với tháng 7 năm 2020.

Ông Gus Faucher, nhà kinh tế trưởng tại PNC cho biết: “triển vọng chi tiêu của người tiêu dùng vẫn khá tích cực.

Nhưng tôi tin rằng tăng trưởng chi tiêu sẽ chuyển từ hàng hóa sang dịch vụ trong vài năm tới, mức tăng trưởng trong hầu hết các danh mục bán lẻ sẽ tiếp tục sụt giảm.”

Trong một bối cảnh khác, Walmart (WMT) đã nâng dự báo doanh thu trong năm của mình bất chấp các mối đe dọa từ biến thể Delta trong thông báo thu nhập ngày 17/8.

Các giám đốc điều hành của công ty này cũng cho biết nhiều khách hàng hơn sẽ quay trở lại các cửa hàng.

Trong tháng 7, doanh số bán hàng tại các nhà bán lẻ trực tuyến giảm 3,1% – riêng các đại lý xe hơi và phụ tùng xe hơi, giảm 3,9%.

Không tính ngành ô tô và phụ tùng xe hơi, doanh số bán lẻ nói chung giảm với tốc độ chậm hơn, giảm 0,4% nhưng vẫn thấp hơn mức dự báo.

Thị trường ô tô đã phải chứng kiến một năm đầy ảm đạm do đại dịch trong năm qua.

Bên cạnh đó, tình trạng thiếu chip và việc đóng cửa các nhà máy cũng làm ảnh hưởng không nhỏ đến ngành xe hơi nói chung.

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: Link

Long Trần