Skip to main content

H&M của Thuỵ Điển khơi mào cuộc chiến giá rẻ với Shein của Trung Quốc

H&M bắt đầu gửi lời tuyên chiến tới hãng thời trang siêu rẻ Shein bằng cách giảm giá, bán đồ rẻ hơn cả Shein, giống như cuộc đua đồ điện tử giá rẻ ở Việt Nam.

H&M khơi mào cuộc chiến giá rẻ với Shein
H&M khơi mào cuộc chiến giá rẻ với Shein

Trong cuộc đua cạnh tranh với startup thương mại điện tử giá rẻ Shein, hãng thời trang có trụ sở tại Thụy Điển H&M đã quyết định giảm giá sâu đến 70% cho sản phẩm áo “croptop” xuống chỉ còn 1,7USD.

Chiến lược giá rẻ của H&M dường như phản ánh một trong những chiến lược cốt lõi của Shein là cạnh tranh để giành khách hàng bằng cách đưa ra mức giá thấp nhất có thể.

Nổi lên như một nhà bán lẻ thời trang nhanh hàng đầu, năm ngoái Shein đã đạt được mức định giá 100 tỷ USD. Điều này khiến cho giá trị vốn hóa của Shein – công ty có trụ sở tại Singapore – còn cao hơn cả H&M và Zara cộng lại.

Đại dịch xảy ra khiến nền kinh tế gặp nhiều khó khăn thì vô hình trung đây lại là thời điểm lý tưởng để Shein có cơ hội tăng trưởng bùng nổ và trở thành một trong số ít các thương hiệu tiêu dùng Trung Quốc giành được sự hoan nghênh trên toàn cầu. Tại Shein, người tiêu dùng có thể tìm thấy trên hàng trăm mặt hàng với giá chỉ vài USD.

Bất chấp những lo ngại về tác động tiềm ẩn của Shein đối với môi trường và điều kiện lao động, người tiêu dùng vẫn tiếp tục đổ xô sử dụng thương hiệu này. Hiện, trung bình mỗi khách hàng của Shein đang chi tới 100 USD mỗi tháng cho quần áo — cao hơn 60% so với mức chi trung bình của phụ nữ Mỹ.

Bên cạnh đó, Shein cũng đã cố gắng tận dụng sức mạnh sản xuất của Trung Quốc, cho phép họ cắt giảm đáng kể thời gian giao hàng.

Các nhà nghiên cứu ước tính lịch trình sản xuất của Shein chỉ kéo dài từ 3 đến 7 ngày, so với khoảng thời gian trung bình là 3 tuần được tiết lộ bởi những doanh nghiệp như H&M.

Tháng này, Shein là nhà bán lẻ quần áo được tìm kiếm nhiều nhất trên Google và là một trong những ứng dụng mua sắm được tải xuống nhiều nhất ở Mỹ.

Trong khi đó, H&M sau một thời gian sa thải nhân viên và đóng cửa nhiều cửa hàng, công ty đang có dấu hiệu phục hồi. Giám đốc điều hành H&M Helena Helmersson cho biết, công ty đã tăng doanh số bán hàng tại nhiều thị trường mặc dù mức chi tiêu của người tiêu dùng còn hạn chế.

Tuy chịu ảnh hưởng của hiện tượng thời tiết cực đoan trong mùa hè năm nay, nhưng, bộ sưu tập hè mới của H&M vẫn gây ấn tượng với người tiêu dùng. Hồi cuối tháng 6, doanh số bán hàng từ ngày 1 đến ngày 27 tháng 6 tăng 10% so với cùng kỳ năm ngoái.

Hiện tại, đại diện phát ngôn của H&M vẫn từ chối bình luận về việc giá một chiếc áo giảm xuống mức 1,7 USD. Trên website công ty, giá bán cho một chiếc áo sơ mi dao động khoảng từ 5 USD đến 237 USD. H&M đang đặt mục tiêu biên lợi nhuận hoạt động là 10% vào năm 2024.

Tuy nhiên, trong cuộc đua khó cân sức này, ngay cả khi H&M có thể thu được nhiều doanh số hơn, thì các trang web thương mại điện tử thời trang khác rẻ hơn vẫn đang tăng trưởng mạnh mẽ hơn. Hiện, ứng dụng mua sắm Temu – cửa hàng 1 đô của Trung Quốc cũng đang bắt đầu vượt qua Shein. Hồi tháng 5, chi tiêu của Mỹ cho Temu cao hơn 20% so với Shein.

Ở Việt Nam, các chuỗi bán đồ điện tử như Thế giới di động hay FPT cũng đang lao vào cuộc chiến giá rẻ chưa có hồi kết. Có vẻ như, thời khủng hoảng, giá rẻ là chiêu thức rất hiệu quả để thu hút khách hàng lẫn “triệt hạ” đối thủ.

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer

 

Theo Quân Bảo/DĐDN

Skype không còn là ứng dụng ưa thích để gọi, video hay nhắn tin

Skype từng là dịch vụ gọi điện và nhắn tin phổ biến hàng đầu thế giới, nhưng từ đại dịch Covid-19, người dùng nền tảng này liên tục giảm.

Skype không còn là ứng dụng ưa thích để gọi, video hay nhắn tin
Skype không còn là ứng dụng ưa thích để gọi, video hay nhắn tin

Skype có tốc độ phát triển được đánh giá là bùng nổ vào những năm 2000. Phần mềm cho phép người dùng có thể thực hiện cuộc gọi thoại, video call, nhắn tin với bạn bè, gia đình mà không mất nhiều chi phí như các cuộc gọi quốc tế thông thường.

Trước tiềm năng lớn, eBay từng muốn thâu tóm Skype, nhưng thương vụ đổ bể và một nhóm đầu tư do Silver Lake đứng đầu đã mua phần lớn cổ phần Skype. Đến 2011, Microsoft đã chi 8,5 tỷ USD để sáp nhập dịch vụ vào tập đoàn.

Dù về tay hãng phần mềm lớn nhất thế giới, Skype vẫn dần thất thế và số lượng người dùng liên tục giảm những năm qua.

Người dùng chuyển sang sử dụng các công cụ đa dạng tính năng hơn như Zoom, WhatsApp, Messenger và thậm chí là Teams của chính Microsoft.

Microsoft liên tục quảng bá Skype trên Outlook và Windows, thậm chí vừa tích hợp chatbot Bing AI mới để giúp ứng dụng này thêm hấp dẫn. Tuy nhiên, các chỉ số về người dùng vẫn không cải thiện.

Tháng 3/2020, Microsoft cho biết Skype có 40 triệu người dùng hoạt động hàng ngày. Hiện con số này giảm xuống chỉ còn 36 triệu. Ngược lại, ứng dụng Teams tăng từ 250 triệu người dùng hàng tháng từ tháng 7/2021 lên hơn 300 triệu trong quý I/2023.

Vẫn có những người dùng trung thành với Skype dù không lạc quan về tương lai của nó. Jaan Tallinn, một trong những kỹ sư sáng lập Skype, cho biết đã rời khỏi nhóm hơn 10 năm nhưng đây vẫn là ứng dụng mặc định của ông cho các cuộc gọi. Ông cũng không biết liệu Skype có thể tồn tại được bao lâu, nhưng hiện mọi thứ vẫn ổn.

Trong khi đó, phát ngôn viên của Microsoft cho rằng Skype vẫn là “lựa chọn tuyệt vời” cho người yêu thích dịch vụ này.

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer

 

Nam Nguyen | MarketingTrips

Lê Diệp Kiều Trang là ai? Tóm tắt tiểu sử của cựu CEO Facebook Việt Nam

Lê Diệp Kiều Trang gắn liền với những dự án startup đình đám cùng với gia thế “khủng” khi có bố, anh trai và chồng đều là những doanh nhân nổi tiếng.

Lê Diệp Kiều Trang là ai
Lê Diệp Kiều Trang là ai? Tóm tắt tiểu sử của cựu CEO Facebook Việt Nam

Thêm một lần nữa cái tên Lê Diệp Kiều Trang cùng chồng là Sonny Vũ được nhắc đến dày đặc trên mạng xã hội khi dự án sản xuất máy in 3D của vợ chồng cựu CEO Facebook Việt bị chấm dứt hoạt động.

Trong giới khởi nghiệp Việt Nam, cái tên Lê Diệp Kiều Trang đã là một định danh nổi tiếng. Hiện tại bà Lê Diệp Kiều Trang đang là đồng sáng lập Quỹ đầu tư Alabaster, chuyên rót vốn vào các dự án khởi nghiệp có quy mô toàn cầu.

Bà Lê Diệp Kiều Trang sinh năm 1980 trong một gia đình làm kinh doanh với bố là ông Lê Văn Trí, Phó Tổng giám đốc Công ty Cao su miền Nam (Casumina), anh trai Lê Trí Thông là CEO CTCP Vàng bạc Đá quý Phú Nhuận (mã: PNJ).

Lê Diệp Kiều Trang từng theo học tại trường THPT chuyên Lê Hồng Phong, TP.HCM. Tiếp đó, bà du học sang Anh quốc, tại trường Oxford. Ngoài ra, bà Trang cũng đã hoàn thành chương trình MBA Sloan của Học viện Công nghệ Massachusettes (MIT) ở Mỹ.

Tên tuổi của bà Lê Diệp Kiều Trang bắt đầu được biết tới đầu tiên với vai trò Giám đốc điều hành kiêm Giám đốc tài chính của Misfit, một công ty khởi nghiệp ở Thung lũng Silicon. Đây là công ty chuyên phát triển các thiết bị theo dõi sức khoẻ và công nghệ nhà ở.

Misfit đã nhanh chóng trở thành công ty dẫn đầu thế giới về thiết bị đeo trong vòng chưa đầy ba năm. Thành công của dự án đánh dấu tên tuổi của Lê Diệp Kiều Trang cùng một đội ngũ nhóm nghiên cứu và phát triển tại Việt Nam, Trung Quốc và Mỹ. Sau đó, dự án này đã được sát nhập vào Tập đoàn Fossil qua thương vụ trị giá 260 triệu USD.

Trước khi gia nhập Misfit, bà Lê Diệp Kiều Trang là chuyên gia tư vấn tại McKinsey và chuyên viên ngân hàng đầu tư tại HSBC. Ngoài ra, bà Kiều Trang từng đảm nhận vai trò Tổng Giám đốc Facebook Việt Nam trong vòng một năm.

Một dự án khởi nghiệp khác cũng mang dấu ấn của Lê Diệp Kiều Trang cùng chồng, đó là Arevo. Năm 2020, bà Lê Diệp Kiều Trang cùng chồng là Sonny Vũ tham gia vào công ty khởi nghiệp Arevo – chuyên cung cấp giải pháp in 3D bằng sợi carbon, với sản phẩm đầu tiên là xe đạp. Startup này đã gọi vốn thành công hơn 7 triệu USD từ cộng đồng trên Indiegogo và 25 triệu USD từ các nhà đầu tư.

Cuối tháng 1/2021, bà Lê Diệp Kiều Trang đại diện Arevo nhận giấy phép đầu tư xây dựng nhà máy in 3D bằng sợi carbon tại khu công nghệ cao TP HCM. Dự án có tổng vốn đầu tư 19,5 triệu USD, dự kiến hoàn thành giai đoạn I trong quý IV năm 2022 và đưa giai đoạn II vào hoạt động 100% trong năm 2025.

Trên website bán hàng, xe đạp Superstrata do Arevo phát triển có giá từ 2.800 USD tới 3.500 USD (khoảng hơn 65 triệu đồng – hơn 82 triệu đồng). Tuy nhiên, dự án này đã chấm dứt hoạt động tại Khu Công nghệ cao TP HCM.

Một sản phẩm khác của vợ chồng bà Lê Diệp Kiều Trang tại dự án này cũng đang nhận được nhiều sự chú ý là sản xuất xe scooter hoàn toàn bằng sợi carbon có tên Scotsman. Sản phẩm được phát triển bởi ông Sonny Vũ được giới thiệu là chiếc xe có trợ lực kép đầu tiên trên thế giới và đang trong giai đoạn nguyên mẫu, chưa sản xuất.

Đến nay, dự án đã thu hút 301 người ủng hộ với số tiền 612.798 USD. Có hai gói tuỳ chọn đóng góp là 2.900 USD cho xe Scotsman 1000 và 3.900 USD cho chiếc Scotsman 2000.

Trong dự án này, bà Lê Diệp Kiều Trang đóng vai trò Giám đốc điều hành (COO), chồng bà giữ vị trí CEO. Theo cập nhật mới nhất trên trang Indiegogo, dự án này đã bị khóa gọi vốn với lý do là “chiến dịch đang được xem xét và không chấp nhận đóng góp”.

Nguyên nhân ngừng hoạt động của Arevo được cho là đến từ những khó khăn trong việc sản xuất vật liệu sợi carbon dùng để in 3D cũng như việc chống chọi với dịch bệnh COVID-19 trong thời gian dài đã làm doanh nghiệp không còn đủ khả năng để duy trì tiếp tục đội ngũ nghiên cứu và phát triển.

Tuy nhiên, theo trang Indiegogo, nhiều người dùng đã lên tiếng gay gắt cho rằng chất lượng xe Superstrata, dịch vụ giao hàng, cũng như cách chăm sóc khách hàng của công ty này. Thậm chí một số khách hàng tố cáo cách kinh doanh của công ty là “lừa đảo” và kêu gọi tẩy chay thái độ hành xử của Arevo Việt Nam.

Theo giấy phép đầu tư, Arevo Việt Nam có số vốn đăng ký 19,5 triệu USD. Đến thời điểm ngừng hoạt động, theo số liệu của Arevo Việt Nam, doanh nghiệp đã chi 165,59 tỉ đồng (gần 36% tổng vốn đầu tư đăng ký), trong đó Arevo Inc. góp hơn 23 tỉ đồng, còn lại hơn 142,5 tỉ đồng là phần vốn huy động từ cổ đông.

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer

Hà Anh  | Theo VTC   

Thêm một startup khác của bà Lê Diệp Kiều Trang bị khoá gọi vốn

Trên trang gây quỹ cộng đồng Indiegogo, hai dự án của vợ chồng bà Lê Diệp Kiều Trang là Scotsman All-Carbon Fiber Scooter và Superstrata Bike, đều đã bị dừng hoạt động.

Thêm một startup khác của bà Lê Diệp Kiều Trang bị khoá gọi vốn
Thêm một startup khác của bà Lê Diệp Kiều Trang bị khoá gọi vốn

Dự án sản xuất xe scooter hoàn toàn bằng sợi carbon có tên Scotsman của ông Sonny Vũ (chồng bà Lê Diệp Kiều Trang – cựu CEO Go Việt và cựu CEO Facebook Việt Nam) được giới thiệu là chiếc xe có trợ lực kép đầu tiên trên thế giới và đang trong giai đoạn nguyên mẫu, chưa sản xuất.

Đến nay, dự án đã thu hút 301 người ủng hộ với số tiền 612.798 USD. Có hai gói tuỳ chọn đóng góp là 2.900 USD cho xe Scotsman 1000 và 3.900 USD cho chiếc Scotsman 2000.

Trong dự án này, bà Lê Diệp Kiều Trang đóng vai trò COO, chồng bà giữ vị trí CEO. 9 tháng trước, lãnh đạo công ty cho biết quá trình phát triển mẫu xe này “phức tạp hơn dự đoán”, dù đã đạt được nhiều bước tiến song “trở ngại đáng kể vẫn còn”.

Lãnh đạo công ty cam kết sẽ hoàn thành trong năm 2023.

Tuy nhiên, theo cập nhật mới nhất dự án này đã bị khóa gọi vốn trên Indiegogo. Lý do trang này đưa ra là “chiến dịch đang được xem xét và không chấp nhận đóng góp”.

Tương tự dự án Superstrata Bike trước đó, Scotsman lần này cũng nhận được không ít lời phàn nàn của những người đóng góp:

“Cuối cùng thì Indiegogo cũng đã gắn cờ chiến dịch này để xem xét. Gần đây, tôi nhận thấy Indiegogo đã mạnh tay với các chiến dịch gây quỹ nhưng chưa thực hiện và chưa hoàn tiền cho người đóng góp.

Tôi hy vọng với câu chuyện này cũng vậy. Vài nghìn đô la quyên góp trong dự án này chắc chắn sẽ là khoản đầu tư tốt hơn ở một dự án khác”, một người đầu tư chia sẻ.

“Tôi muốn tất cả những người đã quyên góp tiền cho dự án này kết nối với tôi để thực hiện một vụ kiện tập thể chống lại công ty và chống lại Sonny Vũ”, một người khác để lại bình luận có phần tiêu cực cho công ty.

Lý do những người ủng hộ dự án quay ra không hài lòng là bởi họ không được công ty phản hồi những thắc mắc về sản phẩm, thậm chí là phớt lờ ý kiến.

“Không có câu trả lời về sản phẩm cuối cùng. Đã quá lâu rồi, và chúng tôi cần được hoàn lại tiền. Số tiền đó không dễ gì chúng tôi có thể kiếm được. Vậy mà họ bỏ mặc chúng tôi.

Cần một lời giải thích. Đã ba năm trôi qua và vẫn không có gì”, một ý kiến khác yêu cầu được công ty hoàn tiền.

Hiện phía vợ chồng bà Lê Diệp Kiều Trang vẫn im lặng trước những thông tin này.

Chúng tôi đang liên hệ với bà Lê Diệp Kiều Trang để ghi nhận phản hồi về sự việc.

Một startup gọi vốn khác của vợ chồng bà Trang trên Indiegogo là sản xuất xe đạp nguyên khối bằng sợi carbon in 3D cũng đã đóng quyên góp. Dự án này có tên là Superstrata Bike và đã trong giai đoạn sản xuất, giao hàng đến người ủng hộ.

Superstrata Bike ra mắt vào thời điểm trước khi đại dịch bùng phát và nhanh chóng huy động hơn 7 triệu USD tiền ủng hộ. Đến nay, hơn 3.301 xe đạp và xe đạp điện in 3D đã được sản xuất và giao tới 2.858 khách hàng tại Việt Nam.

Trên website bán hàng, xe đạp do Arevo phát triển có giá từ 2.800 USD tới 3.500 USD (khoảng hơn 65 triệu đồng – hơn 82 triệu đồng).

Dự án này cũng nhận được phản hồi không tốt từ phía người dùng, đặc biệt về chất lượng hoàn thiện sản phẩm. Trên trang gây quỹ Indiegogo, những người ủng hộ cũng phàn nàn về việc giao hàng và phản hồi chậm của công ty.

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer

Hà Anh  | MarketingTrips   

Châu Âu giới hạn quảng cáo cá nhân hoá của Facebook

Theo quyết định mới đây của Liên minh Châu Âu (EU), Facebook và các nền tảng khác của Meta phải được cấp phép mới có thể hiển thị quảng cáo cá nhân hoá (personalized ads) tại Châu ÂU.

Châu Âu giới hạn quảng cáo cá nhân hoá của Facebook
Châu Âu giới hạn quảng cáo cá nhân hoá của Facebook

Theo đó, Meta sẽ phải giới hạn phạm vi tiếp cận của các quảng cáo được cá nhân hóa của mình ở Liên minh Châu Âu.

Cơ quan Toà án của Châu Âu đã đưa ra quyết định rằng các nền tảng của Meta như Facebook sẽ cần phải được cấp phép trước khi phân phối các quảng cáo được cá nhân hóa ở Châu Âu.

Theo phán quyết, các quảng cáo được tùy chỉnh (custom ads) cũng sẽ không được phép sử dụng để biện minh cho việc sử dụng sai dữ liệu của người dùng.

Trong một tuyên bố với The Wall Street Journal, một phát ngôn viên của Meta cho biết hiện Meta vẫn đang “đánh giá các quyết định của tòa án” và sẽ phản hồi chi tiết hơn trong tương lai.

Cơ quan quản lý của Châu Âu tin rằng Meta đã vi phạm Quy định bảo vệ dữ liệu chung (GDPR) bằng cách yêu cầu người dùng cung cấp dữ liệu để nhắm mục tiêu quảng cáo (Ad Targeting) trên các nền tảng như Facebook, InstagramWhatsApp.

Trong khi Meta cho rằng người dùng trên nền tảng đã tự nguyện cung cấp dữ liệu để được trải nghiệm các quảng cáo cá nhân hoá, EU cho rằng “nó hoàn toàn phụ thuộc vào Meta”.

Kể từ khi iOS 14 cung cấp cho người dùng khả năng từ chối theo dõi quảng cáo trong ứng dụng, doanh thu quảng cáo của Meta đã sụt giảm đáng kể, và quyết định mới của EU có thể sẽ tiếp tục là một rào cản của Meta trong việc tối ưu hoá hiệu suất quảng cáo cho các nhà quảng cáo.

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer

Nam Nguyen | MarketingTrips

Mạng xã hội Threads của Meta sẽ được ra mắt vào ngày 6 tháng 7 tới

Theo thông tin mới đây, Meta sẽ ra mắt mạng xã hội Threads vốn được coi là đối thủ của Instagram vào ngày 6 tháng 7 tới đây.

Mạng xã hội Threads của Meta sẽ được ra mắt vào ngày 6 tháng 7 tới
Mạng xã hội Threads của Meta sẽ được ra mắt vào ngày 6 tháng 7 tới

Theo đó, đối thủ cạnh tranh trực tiếp của Twitter từ Meta là Instagram Threads dự kiến sẽ ra mắt vào ngày 6 tháng 7 sắp tới đây, theo thông tin từ danh sách liệt kê ứng dụng mới của App Store.

Threads hay Instagram Threads như đã đề cập là mạng xã hội tập trung vào văn bản (text) tương tự như Twitter, Mastodon hay Bluesky (mạng xã hội của cựu CEO Twitter).

Mạng xã hội Instagram Threads cũng sẽ được tích hợp với giao thức truyền thông mạng xã hội phi tập trung (decentralized social media protocol) hiện đang được mạng xã hội Mastodon sử dụng, có tên là ActivityPub.

Một quản lý cấp cao của Meta cho biết: “Chúng tôi đã nghe được nhiều ý kiến từ những nhà sáng tạo nội dung và nhân vật của công chúng, những người muốn có một nền tảng mạng xã hội được vận hành một cách lành mạnh.”

Mặc dù Threads về cơ bản sẽ được tải xuống vào thứ 5 tới đây, nhiều ý kiến cũng cho rằng trong khi có thể tải xuống, việc đăng ký và sử dụng có thể không sẵn có tại thời điểm đó.

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer

Hà Anh  | MarketingTrips   

Nhóm tỷ phú giàu nhất thế giới kiếm 852 tỷ USD trong 6 tháng đầu năm 2023

Mỗi thành viên của xếp hạng tỷ phú Bloomberg Billionaires Index đạt mức tăng trưởng tài sản bình quân 14 triệu USD/ngày trong vòng 6 tháng đầu năm 2023.

Nhóm tỷ phú giàu nhất thế giới kiếm 852 tỷ USD trong 6 tháng đầu năm 2023
Nhóm tỷ phú giàu nhất thế giới kiếm 852 tỷ USD trong 6 tháng đầu năm 2023

500 người giàu nhất thế giới chứng kiến tổng tài sản ròng của họ tăng thêm 852 tỷ USD trong nửa đầu năm nay.

Mỗi thành viên của xếp hạng tỷ phú Bloomberg Billionaires Index đạt mức tăng trưởng tài sản bình quân 14 triệu USD/ngày trong vòng 6 tháng qua – Theo Bloomberg.

Đây là nửa đầu năm rực rỡ nhất của các tỷ phú này kể từ nửa sau của năm 2020 – khi nền kinh tế toàn cầu gượng dậy sau đợt sụt giảm vì đại dịch Covid-19.

Việc kiếm tiền với tốc độ ấn tượng của nhóm giàu nhất thế giới diễn ra đồng thời với đà tăng điểm mạnh của thị trường chứng khoán, nhất là chứng khoán Mỹ, khi nhà đầu tư dường như không còn lo lắng nhiều về ảnh hưởng từ chiến dịch tăng lãi suất của các ngân hàng trung ương và cuộc khủng hoảng ngân hàng khu vực ở Mỹ.

Trên thị trường chứng khoán Mỹ, chỉ số S&P 500 tăng 16% và chỉ số Nasdaq tăng 39% trong 6 tháng đầu năm nay, trong bối cảnh cơn sốt công nghệ trí tuệ nhân tạo (AI) thúc đẩy giá cổ phiếu công nghệ tăng bùng nổ và kéo toàn thị trường lên theo.

Trong lúc hai tỷ phú Elon Musk và Mark Zuckerberg còn đang tính có một trận đấm bốc, CEO của Tesla đang dẫn trước nhà sáng lập Facebook về tốc độ gia tăng của tài sản.

Elon Musk, người giàu nhất thế giới, đã “bỏ túi” 96,6 tỷ USD tài sản ròng trong 6 tháng đầu năm nay, nhiều hơn bất kỳ tỷ phú nào khác. Trong khi đó, ông Zuckerberg kiếm được 58,9 tỷ USD trong cùng khoảng thời gian.

Ở chiều ngược lại, tỷ phú Ấn Độ Gautam Adani là người có tài sản ròng giảm mạnh nhất trong 6 tháng, mất 60, tỷ USD. Ông Adani, người đang giữ cương vị Chủ tịch của Adani Group, cũng là người mất nhiều tài sản nhất trong 1 ngày đối với bất kỳ tỷ phú nào trên thế giới từ trước đến nay.

Hôm 27/1, ông chứng kiến tài sản ròng “bốc hơi” 20,8 tỷ USD sau khi công ty bán khống của Mỹ Hindenburg Research cáo buộc tập đoàn của ông có hành vi gian lận kế toán và thao túng giá cổ phiếu – một cáo buộc mà ông Adani phủ nhận.

Hindenburg, công ty được sáng lập bởi Nate Anderson, cũng khiến một tỷ phú khác mất kha khá tài sản trong nửa đầu năm nay, và “nạn nhân” đó là nhà đầu tư lừng danh Carl Icahn.

Công ty Icahn Enterprises LP của ông có cú sụt giảm giá cổ phiếu mạnh nhất trong một ngày từ trước đến nay sau khi Hindenburg tiết lộ đang bán khống cổ phiếu này, cho rằng cổ phiếu công ty này bị thổi phồng giá trị so với tài sản thực tế.

Trong 6 tháng, khối tài sản ròng cá nhân của ông Icahn sụt 13,4 tỷ USD, tương đương mức giảm 57% – mức giảm tương đối lớn hơn bất kỳ độ giảm tài sản của một tỷ phú nào khác trong xếp hạng Bloomberg Billionaires Index trong cùng khoảng thời gian.

Đối với ông chủ của mạng xã hội Twitter, tài sản vẫn đang tiếp tục tăng lên nhanh chóng. Trong phiên giao dịch đầu tiên của tháng 7 vào ngày 3/7, cổ phiếu Tesla tăng 6,9% sau khi hãng công bố sản lượng và số xe được giao tới tay khách hàng lớn hơn dự báo của giới phân tích. Nhờ đó, khối tài sản của ông Musk tăng thêm 13 tỷ USD chỉ sau một đêm.

Từ đầu năm đến nay, cổ phiếu Tesla tăng gần 160%. Elon Musk nhờ đó lấy lại được danh hiệu giàu nhất thế giới, dù đã có thời điểm bị tỷ phú đồ hiệu Pháp Bernard Arnault của LVMH đẩy xuống vị trí số 2.

Theo dữ liệu của Bloomberg Billionaires Index, Elon Musk hiện có 247 tỷ USD tài sản ròng, còn Bernard Arnault có 199 tỷ USD.

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer

Hà Anh  | MarketingTrips   

Apple: Hành trình từ gara đến giá trị thị trường hơn 3000 tỷ USD

Từ văn phòng đầu tiên trong garage nhà Steve Jobs, Apple đã trải qua nhiều thăng trầm trước khi đạt vốn hóa 3.000 tỷ USD dưới thời Tim Cook.

Apple: Hành trình từ gara đến giá trị thị trường hơn 3000 tỷ USD
Apple: Hành trình từ gara đến giá trị thị trường hơn 3000 tỷ USD

Ngày 30/6/2023, Apple là công ty đầu tiên cán mốc 3.000 tỷ USD vốn hóa thị trường.

“Văn phòng” đầu tiên của Apple là nhà để xe của cha mẹ Jobs. Ngoài hai nhà sáng lập trên, Apple còn có một thành viên khác là Ronald Wayne, đảm nhiệm vai trò kinh doanh của công ty. Chính Wayne đã phác thảo logo đầu tiên của Apple bằng tay. Đến 1978, Apple mới có một văn phòng đúng nghĩa với nhân viên và dây chuyền sản xuất Apple II.

Sản phẩm đầu tiên của công ty là Apple I, bo mạch chủ có bộ xử lý và một số bộ nhớ. Phiên bản được bán với giá 666,66 USD nhưng không thành công.

Năm 1977, Apple II ra đời và nhanh chóng trở thành máy tính cá nhân thu hút sự chú ý trên toàn thế giới. Model này do Wozniak thiết kế. Với ứng dụng VisiCalc – phần mềm bảng tính đột phá, Apple có thể bán Apple II cho khách hàng doanh nghiệp.

Năm 1980, Apple phát hành Apple III tập trung vào doanh nghiệp, cạnh tranh với mối đe dọa ngày càng tăng từ IBM và Microsoft. Tuy nhiên sau đó, Steve Jobs chuyển hướng và cho rằng tương lai máy tính sẽ là giao diện người dùng có đồ họa (GUI), giống máy tính ngày nay.

Steve Jobs đã dành hơn ba năm và tiêu tốn số tiền lên đến 50 triệu USD để phát triển máy tính Lisa năm 1983. Đặt theo tên con gái Steve Jobs là Lisa Nicole Brennan-Jobs, Lisa là thiết bị đắt đỏ với giá khởi điểm gần 10.000 USD (tương đương 25.000 USD hiện nay). Mức giá cao đã khiến thiết bị khó tiếp cận người tiêu dùng và không bán chạy.

Sau đó, Jobs lãnh đạo dự án thứ hai Apple Macintosh và người dùng yêu thích nhưng vẫn gặp rào cản về giá. Trong ảnh là Steve Jobs bên cạnh máy Macintosh trong cuộc họp cổ đông ở Cupertino vào 24/1/1984.

Khi ra Macintosh đầu tiên, Apple cũng có CEO mới – John Sculley. Một trong những dấu ấn đầu tiên của Sculley là quảng cáo “1984”, do đạo diễn Ridley Scott sản xuất với chi phí 1,5 triệu USD.

Sau đó, căng thẳng giữa Steve Jobs và Bill Gates, nhà đồng sáng lập Microsoft, bắt đầu leo thang. Ban đầu, Microsoft nỗ lực làm phần mềm cho Macintosh. Tuy nhiên, Bill Gates cũng phát triển một giao diện người dùng riêng có tên Windows.

Macintosh đạt doanh số cao, nhưng không đủ phá vỡ sự thống trị của IBM. Điều này dẫn đến sự xích mích giữa Jobs – người đứng đầu nhóm Macintosh và Sculley – người muốn giám sát chặt chẽ hơn các sản phẩm Apple trong tương lai. Khi đó, hội đồng quản trị của Apple đã chỉ thị cụ thể cho Sculley về việc “kiềm chế” Jobs.

Steve Jobs, John Sculley và Steve Wozniak ra mắt Apple IIc năm 1984. Mọi thứ trở nên căng thẳng năm 1985 khi Jobs cố thực hiện một cuộc lật đổ Sculley.

Tuy nhiên, hội đồng quản trị Apple đã đứng về phía Sculley và Jobs bị cách chức quản lý. Ông rời đi và thành lập công ty máy tính NeXT. Steve Wozniak cũng bán toàn bộ cổ phần của mình tại Apple vì cho rằng công ty đang đi sai hướng.

John Sculley giới thiệu hệ điều hành System 7 trên máy tính Apple năm 1991. Sau khi Jobs rời đi, ông nắm toàn quyền tại Apple.

Công ty thâm nhập vào nhiều thị trường mới, nhưng không thành công. Thất bại nổi tiếng nhất là Newton MessagePad năm 1993. Dù có giá 700 USD, thiết bị không làm được gì nhiều ngoài việc ghi chú và theo dõi danh bạ của người dùng.

Sculley tiếp tục sai lầm và tiêu tốn tiền của Apple vào System 7 và chọn vi xử lý PowerPC của IBM thay vì Intel. Trong khi đó, tầm ảnh hưởng của Microsoft ngày một lớn khi Bill Gates bán Windows 3.0 với giá phải chăng, hỗ trợ nhiều cài đặt mở rộng cho người dùng.

Sculley từ chức sau khi Apple không đạt được mục tiêu doanh thu quý đầu 1993. Hội đồng quản trị Apple đưa Michael Spindler lên làm CEO. Nhưng vận may của Apple tiếp tục sa sút khi Windows nổi lên như ngôi sao mới. Năm 1996, hội đồng quản trị Apple đã thay thế Spindler bằng Gil Amelio.

Nhiệm kỳ của Amelio cũng lận đận không kém. Dưới triều đại của ông, cổ phiếu Apple chạm mức thấp nhất trong 12 năm, một trong những nguyên nhân là Steve Jobs bán 1,5 triệu cổ phiếu Apple trong một giao dịch.

Trước nguy cơ Apple có thể bị sụp đổ, tháng 2/1997, Amelio đã đề xuất hội đồng quản trị mua lại công ty NeXT của Steve Jobs với giá 429 triệu USD và mời ông quay lại công ty.

Trong ảnh là Gil Amelio (trái) và Steve Jobs trong sự kiện bổ nhiệm Jobs làm CEO tạm thời hôm 19/6/1997. Cùng năm, chiến dịch marketing nổi tiếng “Think Different” (Nghĩ khác) của Apple nhằm tôn vinh các nghệ sĩ, nhà khoa học và nhạc sĩ nổi tiếng cũng gây tiếng vang lớn.

Ngày 6/7/1997, Steve Jobs công bố khoản đầu tư trị giá 150 triệu USD vào Apple từ Microsoft. Dưới sự dẫn dắt của ông, hai công ty đã “làm lành”. Sự kiện cũng bắt đầu kỷ nguyên mới về phần cứng và phần mềm của Apple.

Steve Jobs đã để Janathan Ive chịu trách nhiệm thiết kế iMac – chiếc máy tính tất cả trong một được phát hành năm 1998. Đến 2000, Jobs giới thiệu Mac OS X dựa trên hệ điều hành của NeXT Computers.

Sau đó, Apple tiếp tục giới thiệu hai sản phẩm thay đổi thế giới là máy nghe nhạc iPod năm 2001 và điện thoại iPhone năm 2007. Khi iPhone đời đầu bán ra, khách hàng đã xếp hàng dài bên ngoài các cửa hàng ở Mỹ để được sở hữu.

Tim Cook tiếp quản Apple sau khi Steve Jobs qua đời năm 2011. Dưới thời của Cook, Apple đã phát hành thêm 17 mẫu iPhone mới.

Hãng cũng giới thiệu các sản phẩm phần cứng mới như Apple Watch và AirPods. Công ty cũng mở rộng sang dịch vụ để thúc đẩy tăng trưởng khi doanh số iPhone chững lại. Apple hiện cung cấp dịch vụ truyền phát nhạc và video, hệ thống thanh toán, ví…

Tháng 8/2020, Apple đạt được cột mốc mới, trở thành công ty trị giá hai nghìn tỷ USD. Nhưng giai đoạn này, Giám đốc thiết kế Jony Ive quyết định rời công ty.

CEO Tim Cook ra mắt kính Vision Pro trị giá gần 3.500 USD hồi tháng 6. Đây là sản phẩm phần cứng mới nhất của Apple và dự kiến được phát hành năm 2024.

Chưa đầy một tháng sau sự kiện, Apple trở thành công ty đại chúng đầu tiên kết thúc phiên giao dịch với mức vốn hóa thị trường (Market Cap) 3000 tỷ USD. Cổ phiếu công ty đạt 193,97 USD khi đóng phiên giao dịch hôm 30/6.

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer

Hà Anh  | MarketingTrips   

Thuật toán của TikTok khiến nhiều nhà sáng tạo nội dung kiệt sức

TikTok có thể giúp nhiều người nổi tiếng nhanh chóng, nhưng không bền vững. Vì vậy, nhiều người phải liên tục đăng tải video mới với hy vọng duy trì được “độ phủ” của mình, và điều này đang khiến không ít người cảm thấy “kiệt sức”.

Thuật toán của TikTok khiến nhiều nhà sáng tạo nội dung kiệt sứcThuật toán của TikTok khiến nhiều nhà sáng tạo nội dung kiệt sứcThuật toán của TikTok khiến nhiều nhà sáng tạo nội dung kiệt sức
Thuật toán của TikTok khiến nhiều nhà sáng tạo nội dung kiệt sức

Sự phổ biến ngày càng tăng của TikTok được thúc đẩy một phần nhờ thuật toán của ứng dụng này, hứa hẹn mang lại sự nổi tiếng nhanh chóng cho những người sáng tạo nội dung, ngay cả khi họ chưa có nhiều người theo dõi.

Điều này khiến nhiều người dùng TikTok có thói quen đăng tải video liên tục, với hy vọng rằng một ngày nào đó video của họ sẽ có mặt trên xu hướng và được nhiều người xem. May mắn hơn, họ có thể kiếm tiền nhờ video của mình.

Tuy nhiên, với khoảng 150 triệu người dùng tại Mỹ dành hơn 90 phút mỗi ngày cho ứng dụng xem video ngắn này, nguồn cấp dữ liệu do AI hỗ trợ của TikTok đang ngày càng trở nên bão hòa.

Hàng triệu nhà sáng tạo nội dung vẫn tiếp tục đăng tải video của họ, nhưng có không ít trong số đó bị flop (không nổi bật như những video cũ). Vì vậy, để tiếp tục thu hút sự chú ý của người theo dõi, họ phải đăng nhiều video hơn nữa với hy vọng sẽ cải thiện tình hình.

Sean Atkins, chủ tịch công ty phân phối nội dung sáng tạo Jellysmack, chia sẻ tại một sự kiện truyền thông mới tổ chức tuần trước: “Bất kỳ nền tảng mạng xã hội nào không được xây dựng xung quanh cá nhân hoặc thực thể sẽ gặp phải vấn đề này”.

Ông Atkins cũng chỉ ra sự khác biệt giữa TikTok và các nền tảng mạng xã hội khác như Instagram và Twitch.

Theo đó, trái với TikTok, người dùng Instagram và Twitch phát triển kênh của họ từ việc theo dõi các cá nhân và xây dựng mối quan hệ trực tiếp với người theo dõi.

Đối với những người có ảnh hưởng muốn kiếm tiền từ phương tiện truyền thông mạng xã hội, việc có số lượng người theo dõi lớn là yếu tố cần thiết, giúp họ có thể kiếm các hợp đồng quảng cáo trị giá hàng trăm tới hàng nghìn USD/bài đăng từ nhiều thương hiệu.

Kịch bản đẹp nhất với những người có ảnh hưởng đó là họ có thể hướng người tiêu dùng mua sản phẩm yêu thích nhờ niềm tin vào nhiều video từng đăng trước đó, chứ không phải chỉ nhờ một video duy nhất “vô tình” trở nên phổ biến trên mạng xã hội.

Các nhà sáng tạo nội dung trên TikTok cho biết sẽ rất khó để một kênh/tài khoản TikTok có thể phát triển bền vững nếu chỉ dựa vào tính lan truyền (Viral).

TikTok vẫn trả khoảng 3 cent/1.000 lượt xem video. Họ cũng có một quỹ riêng để chi trả tiền cho những người có ảnh hưởng nhất định được lựa chọn.

Việc liên tục phải đăng tải các video lên TikTok là điều không dễ với nhiều người, đặc biệt trong bối cảnh các nền tảng cạnh tranh như YouTube đang xây dựng kế hoạch chi trả nhiều hơn cho người sáng tạo nội dung.

Người dùng TikTok có thể nhanh nổi, nhưng không bền vững. Bạn sẽ khó lòng nhìn thấy video của nhiều người dùng TikTok phổ thông “nổi bật” trở lại. Các video của họ thường sẽ chỉ nổi bật trên xu hướng một vài lần nếu họ không đầu tư theo hướng chuyên nghiệp.

Thuật toán của TikTok dựa trên sở thích người dùng là yếu tố cốt lõi giúp nền tảng này phát triển nhanh chóng, và khiến nhiều đối thủ “ghen tị”. Tuy nhiên, chính thuật toán này cũng đang khiến các nhà sáng tạo nội dung kiệt sức.

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer

 

Nam Nguyen | MarketingTrips

Competitive Advantage: Khi nào dữ liệu có thể xây dựng lợi thế cạnh tranh (P2)

Không ít người làm marketing cho rằng, khi doanh nghiệp càng có nhiều khách hàng, họ càng có thể thu thập thêm nhiều dữ liệu (Data) và khi phân tích nhiều hơn các dữ liệu này họ càng có thể thu hút thêm được nhiều khách hàng hơn, đồng thời có thể tạo ra nhiều lợi thế cạnh tranh hơn, tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, đây là một tư duy sai lầm.

Competitive Advantage: Khi dữ liệu có thể xây dựng lợi thế cạnh tranh
Competitive Advantage: Khi dữ liệu có thể xây dựng lợi thế cạnh tranh

Nhiều marketer và nhà lãnh đạo doanh nghiệp cho rằng họ có thể sử dụng năng lực về dữ liệu khách hàng (customer data) để tạo ra hay giành lấy các lợi thế cạnh tranh lớn.

Bằng cách có càng nhiều khách hàng, họ càng có thể thu thập nhiều dữ liệu hơn và từ những dữ liệu đó, khi được phân tích bằng các công cụ máy học hoặc trí tuệ nhân tạo (AI), cho phép họ cung cấp một sản phẩm hoặc dịch vụ tối ưu hơn để từ đó thu hút được nhiều khách hàng hơn.

Mục tiêu chính của doanh nghiệp khi này là loại bỏ các đối thủ cạnh tranh của mình giống như cách mà các doanh nghiệp hoạt động theo mô hình mạng lưới lớn có thể làm với các doanh nghiệp khác.

Tuy nhiên, thực tế là nhiều người làm marketing và kinh doanh một mặt đánh giá quá cao sức mạnh của các dữ liệu khách hàng nói chung, mặt khác họ chưa phân biệt được khi nào thì các dữ liệu khách hàng thực sự có thể giúp xây dựng lợi thế cạnh tranh so với các đối thủ khác trong ngành.

Trong khi lợi thế có được khi có nhiều khách hàng và dữ liệu hơn trông có vẻ hoạt động giống với các mô hình nền tảng hay mạng lưới (platforms, networks), trong đó một sản phẩm ví dụ như nền tảng mạng xã hội – sẽ trở nên có giá trị hơn khi có nhiều người sử dụng nó hơn và cuối cùng, khi nền tảng thu hút được một lượng lớn người dùng, điều này khiến các đối thủ khó thâm nhập và cạnh tranh hơn.

Nhưng trong thực tế, sức mạnh có được từ các mô hình mạng lưới thường tồn tại lâu hơn và có xu hướng mạnh hơn. Để thiết lập vị thế cạnh tranh, doanh nghiệp vừa cần có các hiệu ứng theo kiểu mạng lưới vừa phải liên tục học tập dựa trên dữ liệu (data-enabled learning). Tuy nhiên, có rất ít doanh nghiệp có thể phát triển cả hai.

Trong những điều kiện thích hợp, dữ liệu có được từ khách hàng có thể giúp doanh nghiệp xây dựng hệ thống phòng thủ cạnh tranh (competitive defenses), ngay cả khi không có hiệu ứng kiểu mạng lưới.

Trong bài viết này, hãy cùng phá xem, để dữ liệu có thể mang lại lợi thế cạnh tranh hay giúp xây dựng hệ thống phòng thủ cạnh tranh, dữ liệu được thu thập từ khách hàng cần có những điều kiện gì và doanh nghiệp liệu có thể tận dụng nó ra sao.

Tiếp phần 2.

(Bạn có thể xem lại phần 1 tại: Khi nào dữ liệu có thể xây dựng lợi thế cạnh tranh (P1)

4. Dữ liệu của doanh nghiệp có phải là dữ liệu độc quyền không? Có nghĩa là dữ liệu đó không thể mua từ các nguồn khác, không thể sao chép dễ dàng.

Về bản chất, việc có được các dữ liệu khách hàng duy nhất (unique customer data) với ít hoặc không có dữ liệu thay thế là rất quan trọng để tạo ra một rào cản có thể bảo vệ được thương hiệu hay xây dựng được các lợi thế cạnh tranh cho thương hiệu.

Adaviv là một công ty khởi nghiệp ở khu vực Boston chuyên cung cấp hệ thống quản lý cây trồng cho phép người trồng liên tục theo dõi tình trạng của cây cối.

Hệ thống này dựa trên AI (trí tuệ nhân tạo), phần mềm thị giác máy tính (computer vision) và kỹ thuật ghi nhận dữ liệu độc quyền khác có thể theo dõi các kết quả sinh trắc mà mắt người không thể nhìn thấy, chẳng hạn như các dấu hiệu ban đầu của bệnh hoặc thiếu vi chất dinh dưỡng.

Sau đó, hệ thống sẽ chuyển dữ liệu thành các thông tin chuyên sâu (insights) mà người trồng trọt có thể sử dụng để ngăn chặn dịch bệnh bùng phát và từ đó cải thiện năng suất.

Adaviv phục vụ càng nhiều người trồng trọt thì phạm vi các biến thể, điều kiện nông nghiệp và các yếu tố khác mà Adaviv có thể tìm hiểu càng rộng và cũng từ đây những dự báo của Adaviv cho khách hàng mới và khách hàng hiện tại càng chính xác.

Những dữ liệu này của Adaviv có thể gọi là độc quyền, ít có khả năng mua từ bên ngoài hay sao chép, chính các dữ liệu này đã mang lại những lợi thế cạnh tranh đặc biệt cho doanh nghiệp.

Ở một khía cạnh khác, với sự tiến bộ ngày càng lớn của công nghệ, nhiều dữ liệu khác lại có thể được thay thế một cách dễ dàng. Một ví dụ điển hình đó là các phần mềm nhận dạng giọng nói (speech-recognition).

Trước đây, người dùng cần đào tạo phần mềm để nó hiểu giọng nói và kiểu giọng nói của từng cá nhân và càng sử dụng nhiều thì phần mềm càng trở nên chính xác.

Thị trường này từng bị chi phối và thống trị bởi một số ít các doanh nghiệp. Tuy nhiên, như đã phân tích khi các công nghệ hỗ trợ như trí tuệ nhân tạo hay học máy càng trở nên phổ biến và dễ tiếp cận hơn, hệ thống này có thể được đào tạo dựa trên các bộ dữ liệu giọng nói có sẵn công khai và chỉ mất một khoảng thời gian ngắn để học cách hiểu giọng nói của từng cá nhân.

Những tiến bộ này đã cho phép nhiều doanh nghiệp khác cung cấp các ứng dụng nhận dạng giọng nói mới (dịch vụ chăm sóc khách hàng tự động qua điện thoại, trợ lý ảo…) và hiển nhiên, các dữ liệu mà doanh nghiệp có được khi này không thể là rào cản bảo vệ chính doanh nghiệp.

5. Độ khó của việc bắt chước sản phẩm (cải tiến sản phẩm) dựa trên các dữ liệu khách hàng ra sao?

Ngay cả khi dữ liệu khách hàng có được là duy nhất hoặc độc quyền và tạo ra những hiểu biết có giá trị, thì chúng cũng khó xây dựng được các lợi thế cạnh tranh bền vững nếu những cải tiến về sản phẩm có được có thể bị đối thủ cạnh tranh sao chép mà không cần phải có các dữ liệu tương tự.

Dưới đây là một số yếu tố mà doanh nghiệp có thể cân nhắc và đánh giá về điều này.

  • Liệu những cải tiến của sản phẩm có thể được giấu kín hoặc liên quan đến một quy trình sản xuất phức tạp khiến chúng khó bị sao chép hay không?

Pandora, một dịch vụ phát nhạc trực tuyến là thương hiệu đã được hưởng lợi từ rào cản này. Sản phẩm của Pandora tận dụng hàng loạt các dịch vụ độc quyền và phân loại hàng triệu bài hát trên cơ sở khoảng 450 thuộc tính khác nhau, điều này cho phép Pandora tùy chỉnh các đài phát thanh (radio stations) theo sở thích của từng người dùng.

Người dùng càng nghe nhiều từ đài của họ và xếp hạng các bài hát cao hoặc thấp, thì Pandora càng có thể điều chỉnh các lựa chọn âm nhạc phù hợp với người dùng đó.

Các đối thủ khác không thể dễ dàng bắt chước vì quá trình này gắn liền sâu sắc với nhiều sản phẩm và dịch vụ độc quyền.

  • Các insight có được từ dữ liệu khách hàng thay đổi nhanh đến mức nào. Insight thay đổi càng nhanh thì đối thủ càng khó bắt chước.

Ví dụ: nhiều tính năng thiết kế của giao diện Google Maps có thể dễ dàng bị sao chép (sự thật là Apple Maps và một số ứng dụng khác đã sao chép).

Nhưng một phần quan trọng khác trong hệ giá trị của Google Maps đó là khả năng dự báo lượng traffic và đề xuất các tuyến đường tối ưu, tính năng này khó sao chép hơn nhiều vì nó tận dụng dữ liệu người dùng theo thời gian thực, thứ mà sẽ trở nên vô giá trị trong một thời điểm khác (thậm chí là vài phút sau đó).

Chỉ những doanh nghiệp có một lượng dữ liệu lớn từ người dùng mới có thể cạnh tranh với Google (và cả Apple).

6. Dữ liệu khách hàng có được từ một người dùng chỉ giúp cải thiện sản phẩm cho chính người dùng đó hay cho cả những tập người dùng khác?

Lý tưởng nhất là dữ liệu có được vừa giúp chính người dùng đó lẫn những người dùng hay khách hàng khác.

Khi dữ liệu từ một người dùng chỉ giúp cải thiện sản phẩm cho chính người đó, doanh nghiệp có thể tùy chỉnh riêng cho từng người dùng, tuy nhiên, chi phí cho điều này thường là không hề nhỏ.

Ngược lại, khi dữ liệu từ một người dùng lại có thể giúp cải thiện sản phẩm cho cả những người dùng khác, điều này cuối cùng có thể tạo ra thứ được gọi là “hiệu ứng mạng lưới” mà MarketingTrips đã đề cập đến khá nhiều lần trong phần 1.

Trong khi cả 2 loại dữ liệu đều giúp tạo ra các rào cản gia nhập (đối với các đối thủ), loại dữ liệu thứ 2 lại mang lại lợi thế lớn trong việc tìm kiếm các khách hàng mới.

Ví dụ: Pandora, mặc dù là doanh nghiệp tiên phong trong lĩnh vực phát nhạc trực tuyến nhưng sau đó đã bị tụt lại phía sau so với Spotify và Apple Music.

Như đã phân tích, các dữ liệu có được giúp Pandora điều chỉnh các bài hát theo từng sở thích cá nhân của người dùng, tuy nhiên vì mỗi người có một sở thích và hành vi khác nhau, Pandora không thể tận dụng dữ liệu cũ (của từng người dùng hiện tại) để tìm kiếm hay áp vào các khách hàng khác.

Ngược lại, Spotify và Apple Music tập trung nhiều hơn vào việc cung cấp cho người dùng các tính năng chia sẻ và khám phá, chẳng hạn như khả năng tìm kiếm và nghe những bài hát yêu thích của người khác, điều này giúp tạo ra một hiệu ứng mạng lưới trực tiếp và thu hút thêm khách hàng mới.

Dịch vụ của Pandora vẫn chỉ khả dụng ở Mỹ (nơi có lượng người dùng trung thành cao), trong khi Spotify và Apple Music đã trở thành những thương hiệu toàn cầu.

Pandora đã được Sirius XM mua lại với giá 3,5 tỷ USD vào tháng 2 năm 2019, Spotify thì đã trở thành công ty đại chúng vào tháng 4 năm 2018 và tính đến đầu tháng 11 năm 2019, giá trị của Spotify là 26 tỷ USD.

Bài học mà người làm marketing và kinh doanh có thể rút ra là gì, trong khi khả năng tùy chỉnh sản phẩm (hay dịch vụ) dựa trên việc học hỏi từ dữ liệu của một người dùng riêng lẻ giúp giữ chân các khách hàng hiện tại, nhưng nó lại không thể dẫn đến kiểu tăng trưởng theo cấp số nhân mà hiệu ứng mạng lưới có thể tạo ra.

7. Các insight có được từ dữ liệu người dùng có thể được tích hợp vào sản phẩm nhanh đến mức nào?

Các chu kỳ học tập và thay đổi nhanh chóng khiến các đối thủ cạnh tranh khó bắt kịp, đặc biệt nếu có nhiều chu kỳ cải tiến sản phẩm được diễn ra trong một hành trình khách hàng sử dụng và trải nghiệm sản phẩm.

Ngược lại, nếu phải mất nhiều năm hoặc phải dự vào các thế hệ sản phẩm mới để áp dụng việc cải tiến dựa trên dữ liệu, các đối thủ cạnh tranh hiện có sẽ có nhiều cơ hội hơn để đổi mới và bắt đầu thu thập dữ liệu người dùng của riêng họ.

Từ góc nhìn này, các lợi thế cạnh tranh có được từ dữ liệu khách hàng sẽ trở nên mạnh hơn khi việc học hỏi từ khách hàng sẽ nhanh chóng được chuyển thành các cải tiến sản phẩm cho chính những khách hàng đó thay vì chỉ dành cho khách hàng tương lai.

KẾT LUẬN.

Ngay cả khi với các sản phẩm tiêu dùng bình thường cũng có thể trở nên thông minh và có ý nghĩa hơn, ví dụ như các thế hệ quần áo mới giờ đây có thể phản ứng lại với các điều kiện thời tiết khác nhau, theo dõi số dặm di chuyển và hơn thế nữa.

Việc học tập dựa trên dữ liệu từ đó sẽ được sử dụng để nâng cao và cá nhân hóa ngày càng nhiều các sản phẩm và dịch vụ của doanh nghiệp.

Tuy nhiên, doanh nghiệp hay thương hiệu sẽ không thể xây dựng được vị thế cạnh tranh tốt hay tạo ra các rào cản gia nhập ngành với các đối thủ nếu những giá trị được tạo ra từ dữ liệu không đủ lớn và bền vững, nếu dữ liệu không phải là độc quyền, đối thủ dễ dàng sao chép các cải tiến của sản phẩm hay không thể tạo ra các hiệu ứng tăng trưởng kiểu mạng lưới.

Trong những thập kỷ tới, việc cải thiện các sản phẩm và dịch vụ từ dữ liệu khách hàng sẽ là điều kiện tiên quyết để doanh nghiệp tiếp tục ở lại thị trường, hay được xem là rào cản cạnh tranh so với các doanh nghiệp mới.

Những doanh nghiệp tốt và có giá trị nhất trong tương lai gần sẽ là những doanh nghiệp vừa được xây dựng dựa trên hiệu ứng mạng lưới (Network/Platforms Effects) vừa được thúc đẩy (và bảo vệ) bằng cách học hỏi liên tục dựa trên dữ liệu. Alibaba, Amazon, App Store của Apple và các nền tảng mạng xã hội như Facebook là những minh chứng sống.

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer

Hà Anh  | MarketingTrips   

Chuỗi Mellower Coffee của Trung Quốc rời khỏi thị trường Việt Nam

Trải qua 2 năm đại dịch, ngành F&B đã có nhiều biến động khiến cho nhiều chuỗi cà phê ngoại gặp khó trong việc bám trụ thị trường Việt Nam. Chuỗi Mellower Coffee của Trung Quốc rời khỏi thị trường Việt Nam

Chuỗi Mellower Coffee của Trung Quốc rời khỏi thị trường Việt Nam
Chuỗi Mellower Coffee của Trung Quốc rời khỏi thị trường Việt Nam

“Với trái tim nặng trĩu, chúng tôi phải chia sẻ với các bạn, Mellower Coffee đã không thể tiếp tục hoạt động tại Việt Nam”, phía Mellower Coffee thông báo trên mạng xã hội.

Mellower Coffee – chuỗi cà phê đặc sản của Trung Quốc đã tuyên bố chính thức đóng cửa tại Việt Nam sau khoảng 4 năm gia nhập thị trường.

Tại Việt Nam, Mellower Coffee lần đầu xuất hiện vào năm 2019, tại tòa nhà Deutsches Haus trên đường Lê Duẩn, TP. HCM. Tiếp đó, thương hiệu mở thêm chi nhánh tại tòa nhà The Metropolitan, Quận 1, thay thế cho cửa hàng Coffee Bean & Tea Leaf.

Giá đồ uống ở Mellower khá cao so với mặt bằng chung, dao động từ 49.000-100.000 đồng, với những món cà phê được yêu cầu riêng, mức giá có thể hơn 200.000 đồng.

Hiện tại, Mellower Coffee đã có hơn 80 cửa hàng trên toàn thế giới và có mặt ở nhiều quốc gia lân cận như Hàn Quốc, Singapore và Thái Lan.

Tiếp bước Mellower Coffee, chuỗi Auntie Anne’s – thương hiệu cà phê và bánh của Mỹ cũng chia tay thị trường Việt Nam sau 4 năm hoạt động.

Auntie Anne’s cũng gia nhập thị trường Việt Nam năm 2019. Ngoài cà phê, chuỗi này tập trung vào bánh Pretzel – món ăn đường phố được yêu thích nhất tại Mỹ.

Trải qua hơn 30 năm phát triển, thương hiệu này đã được nhượng quyền và có mặt ở 26 quốc gia. Tại Việt Nam, thương hiệu này có mặt ở Hà Nội, TP. HCM và Đà Nẵng với nhiều chi nhánh ở các trung tâm thương mại và các khu vực trung tâm.

Trước thời điểm Auntie Anne’s, Mellower Coffee chia tay thị trường Việt Nam, những chuỗi cà phê phong cách ngoại như Gloria Jean’s, New York Dessert Coffee hay The Coffee Bean & Tea Leaf đều đã gặp thất bại.

Theo báo cáo “Kinh doanh ẩm thực tại Việt Nam năm 2022” thực hiện bởi iPos.vn, VIRAC, nước ta hiện có gần 338.600 nhà hàng và quán cà phê.

Ngân sách “đi cà phê” của người Việt dao động từ 40.000-70.000 đồng. Vào các dịp đặc biệt, ngân sách ăn uống này có thể tăng lên khoảng 500.000 đồng/mỗi người.

2023 khả năng trở thành cuộc chiến dành thị phần giữa các chuỗi lớn khi các chủ đầu tư nhỏ lẻ thận trọng. Theo đó, quý 4/2022 chứng kiến sự chững lại của ngành F&B so với cùng kỳ nhiều năm trước.

Các thương hiệu lớn như Highlands Coffee, The Coffee House vẫn bền bỉ mở rộng chuỗi, tuy nhiên cạnh tranh ngày một tăng đến từ các thương hiệu mới, đang tạo nên tiếng vang như Phê La, Katinat…

Trải qua 2 năm đại dịch, ngành F&B đã có nhiều biến động, nhu cầu đối với các sản phẩm này hồi phục mạnh mẽ sau thời kì giãn cách.

Mặc dù kinh tế năm 2023 được dự báo có nhiều khó khăn, tuy nhiên theo Euromonitor, giá trị thị trường năm 2023 dự kiến sẽ tăng 18% so với 2022. Sau khi hồi phục và tăng trưởng mạnh mẽ, ngành F&B sẽ tiếp tục phát triển với tốc độ ổn định và dự kiến sẽ đạt giá trị 938.305 tỷ đồng vào năm 2026.

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer

Theo Việt Hưng | The Leader   

Dự án khởi nghiệp vướng lùm xùm của cựu giám đốc Facebook Việt Nam

Những tranh cãi xung quanh dự án xe đạp in 3D Supertrata vẫn chưa đi đến hồi kết. Đây là dự án do vợ chồng ông Sonny Vũ và bà Lê Diệp Kiều Trang đứng ra điều hành.

Dự án khởi nghiệp vướng lùm xùm của cựu giám đốc Facebook Việt Nam
Dự án khởi nghiệp vướng lùm xùm của cựu giám đốc Facebook Việt Nam

Được quảng cáo là chiếc xe đạp in 3D nguyên khối bằng carbon đầu tiên trên thế giới với khối lượng khung nặng chưa đầy 1,3 kg, dự án Superstrata do startup Arero phát triển từng thu hút nhiều sự quan tâm của nhà đầu tư và người dùng.

Theo cập nhật tính đến tháng 2 trên nền tảng gọi vốn cộng đồng Indiegogo, Arvero đã hoàn thành 96% đơn hàng, giao 3.301 chiếc xe tới 2.858 người dùng trên khắp thế giới.

Thế nhưng vài tháng trở lại đây, thay vì tiếp tục nhận được sự hưởng ứng, dự án xe đạp in 3D liên tục bị phản ánh về chất lượng sản phẩm lẫn độ uy tín của đội ngũ đứng sau. Tại Việt Nam, một số người dùng cũng bày tỏ sự thất vọng khi nhận sản phẩm sau thời gian dài mòn mỏi chờ đợi.

Giao hàng lâu, chất lượng kém.

Theo giới thiệu, Superstrata sở hữu nhiều điểm đặc biệt như khung xe liền khối, không cần đinh, keo cũng như không có mối nối, từ đó đảm bảo vững chắc khi có va chạm. Nhờ công nghệ in 3D, chiếc xe còn có thể được thiết kế theo hình thức “may đo” dựa trên số đo cơ thể của khách hàng.

Mỗi chiếc Supertrata có giá bán dao động trên dưới 3.000 USD, tương đương khoảng 70 triệu đồng. Trên thực tế đây là mức giá tương đối cao cho một mẫu xe đạp được sản xuất bởi một thương hiệu chưa chứng minh được tên tuổi.

Dù xuất hiện và cho phép đặt hàng trên nền tảng Indiegogo từ năm 2020, nhiều người dùng cho biết phải đến mất 1-2 năm sau mới nhận được hàng. Bên cạnh đó, sự hạn chế trong liên lạc cũng khiến khách hàng không được cập nhật đầy đủ và thường xuyên về tiến độ đơn hàng.

Một trong những vấn đề khác mà dự án gây bức xúc là vi phạm cam kết tới khách hàng. Theo đó, phần người dùng tỏ ra bất ngờ khi phải trả thêm cước phí vận chuyển trong khi được khẳng định miễn phí trước đấy.

Sau khi nhận xe, nhiều người dùng tỏ ra ngán ngẩm khi chất lượng không như mong đợi. Các chi tiết như ốc vít, nước sơn hay ty phuộc có độ hoàn thiện thấp gây ảnh hưởng đến trải nghiệm sử dụng. Không ít khách hàng đã phải mang xe ra cửa hàng sửa chữa do sản phẩm thường xuyên mắc lỗi kỹ thuật.

Mặt khác, bất chấp việc nhận được những góp ý từ cộng đồng mua hàng, đội ngũ thực hiện dự án hiếm khi đưa ra phản hồi hay lời giải thích.

Trong một bài viết vào tháng 2, BikeRadar thậm chí đánh giá Superstrata là chiếc xe gây thất vọng. Tạp chí chuyên về xe đạp đồng thời khuyên người dùng không nên trải nghiệm sản phẩm do có chất lượng thấp và không đem lại nhiều giá trị.

Công ty do cựu giám đốc Facebook Việt Nam điều hành.

Nói thêm về Arevo, đây là startup hoạt động trong lĩnh vực khoa học vật liệu được sáng lập vào tháng 5/2013 tại thung lũng Silicon bởi Hemant Bheda và Wiener Mondesir. Hiện công ty này chuyên hợp tác với các nhà sản xuất để phát triển sản phẩm chế tạo từ carbon nguyên khối với đặc tính siêu nhẹ, siêu bền trên quy mô lớn.

Arevo từ lâu đã là startup nhận được sự quan tâm của nhiều nhà đầu tư. Lần gần nhất công ty huy động vốn thành công là vào cuối năm 2021 với khoản đầu tư 25 triệu USD do Khosla Ventures dẫn đầu, nâng tổng giá trị huy động được lên con số 85 triệu USD.

Một trong những điểm đáng chú ý của startup này là đội ngũ điều hành với những cái tên như Sonny Vũ (Vũ Xuân Sơn) và Lê Diệp Kiều Trang. Năm 2020, cặp vợ chồng này được bổ nhiệm lần lượt vào các vị trí giám đốc điều hành và giám đốc tài chính của Arevo.

Arevo hoạt động tại 3 quốc gia gồm Mỹ, Nhật Bản và Việt Nam. Chi nhánh Việt Nam được thành lập vào tháng 11/2020 với pháp nhân là Công ty TNHH Arevo Việt Nam. Ông Sonny và bà Trang cũng trực tiếp điều hành chi nhánh này.

Không chỉ nổi tiếng trong giới khởi nghiệp, Lê Diệp Kiều Trang là cái tên quen thuộc trong giới công nghệ khi bà từng có thời gian làm Giám đốc Facebook Việt Nam (năm 2018) và CEO Go-Viet (năm 2019). Tuy nhiên quãng thời gian làm việc của bà tại các tập đoàn lớn tương đối ngắn ngủi, đều chưa đầy một năm.

Bên cạnh đó, nữ doanh nhân này còn được biết đến là con gái ông Lê Văn Trí (Phó tổng giám đốc Công ty Cao su miền Nam) và em gái ông Lê Trí Thông (CEO Công ty CP Vàng bạc Đá quý Phú Nhuận).

Trong khi đó, ông Sonny Vũ nổi tiếng với thương vụ bán công ty sản xuất thiết bị theo dõi sức khoẻ thông minh Misfit Wearables (được thành lập cùng cựu CEO Apple John Sculley) cho Fossil Group với giá 260 triệu USD. Bản thân ông Sonny sau này cũng được bổ nhiệm làm giám đốc công nghệ tại tập đoàn này.

Hai vợ chồng bà Trang cũng cùng nhau thành lập và điều hành quỹ đầu tư Alabaster chuyển đầu tư vào các công ty khởi nghiệp công nghệ.

Nhiều dự án thất bại, bỏ ngỏ.

Ngay sau khi đứng lên vị trí điều hành, một trong những động thái đầu tiên của CEO Arevo là ký kết hợp tác dự án sản xuất máy in 3D tại Khu Công nghệ cao TP.HCM vào tháng 8/2020 với tổng số vốn đầu tư khoảng 19,5 triệu USD.

Tuy nhiên vào tháng 5, ông Nguyễn Anh Thi, Trưởng Ban quản lý Khu công nghệ cao TP.HCM) đã ký văn bản xác nhận công ty Arevo Việt Nam ngưng hoạt động tại đây.

Năm 2021, Arevo cũng từng đề xuất dự án có quy mô vốn 135 triệu USD với diện tích 10,68 ha tại Khu Công nghệ cao Đà Nẵng.

Mục tiêu của dự án bao gồm sản xuất vật liệu composite sợi carbon nền polymer dành cho công nghệ in 3D, sản xuất sản phẩm từ dịch vụ và giải pháp thiết kế in 3D từ sợi carbon, sản xuất phần mềm (thiết kế, mô phỏng, điều khiển máy in) và sản xuất máy in 3D.

Thành phố Đà Nẵng sau đó cũng đã trao chứng nhận đăng ký đầu tư cho doanh nghiệp này. Dẫu vậy trong danh mục thống kê doanh nghiệp tại khu công nghệ cao và các khu công nghiệp tại Đà Nẵng không có tên công ty nào mang tên Arevo.

Phóng viên đã liên lạc với trưởng ban quản lý nhưng không nhận được phản hồi. Trong khi đó, một phó trưởng ban quản lý cho biết không nắm được thông tin về tình hình cũng như hiện trạng của dự án này.

Ngoài Arevo với sản phẩm xe đạp in 3D Superstrata, ông Sonny Vũ còn gọi vốn cho một dự án khác là sản xuất xe scooter mang thương hiệu Scotsman đang vướng lùm xùm. Tương tự Superstrata, Scotsman cũng được giới thiệu là dòng phương tiện có trọng lượng nhẹ do phần khung bằng carbon.

Xe scooter Scotsman thậm chí có mặt bằng giá cao hơn nhiều Superstrata, dao động 3.000-4.000 USD. Sau thời gian ngắn xuất hiện trên Indiegogo, sản phẩm này đã huy động được 610.000 USD từ 301 người ủng hộ. Tuy nhiên đến nay nền tảng huy động vốn cộng đồng đã khoá bình luận và ngừng cho phép góp vốn vào dự án này.

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer

Hà Anh  | MarketingTrips   

Yahoo Nhật Bản có thể chấm dứt thoả thuận hợp tác với Google

Theo đó, theo thông tin mới đây từ Nikkei, Yahoo Nhật Bản đang cân nhắc việc lựa chọn tìm kiếm một đối tác cung cấp công nghệ tìm kiếm (search engine technology) khác thay cho Google hiện tại.

Yahoo Nhật Bản có thể chấm dứt thoả thuận hợp tác với Google
Yahoo Nhật Bản có thể chấm dứt thoả thuận hợp tác với Google

Hợp đồng của Yahoo với Google sẽ hết hạn vào cuối tháng 3 năm 2025. Để xác định xem có nên gia hạn tiếp thỏa thuận hay không, Yahoo Nhật Bản đã bắt đầu một cuộc kiểm tra kỹ thuật nội bộ có tên là “bucket test”.

Z Holdings, chủ sở hữu của Yahoo Nhật Bản, đã công bố kế hoạch đưa Yahoo và LINE vào dưới sự bảo trợ của mình vào tháng 10 và thành lập một công ty mới có tên là LINE Yahoo.

Cổ đông chính của LINE Yahoo sẽ là Naver, một gã khổng lồ cung cấp các dịch vụ Internet của Hàn Quốc, hiện chiếm hơn 60% thị phần trong thị trường tìm kiếm của nước này.

Trong bối cảnh hiện tại, Naver đang nỗ lực phát triển công nghệ tìm kiếm kết hợp với AI tổng quát nhằm mục đích “xuất khẩu” công cụ tìm kiếm sang Nhật Bản và các quốc gia mà LINE đang rất phổ biến.

Theo báo cáo tài chính của Z Holdings, Yahoo đã ký hợp đồng với Google Châu Á Thái Bình Dương (APAC) từ tháng 7 năm 2010.

Theo các điều khoản của thỏa thuận, Yahoo Nhật Bản được phép tự do phát triển và kết hợp các chức năng bổ sung để phân biệt kết quả tìm kiếm của mình với kết quả tìm kiếm của các đối thủ cạnh tranh khác.

Ở một khía cạnh khác, chính phủ Nhật Bản cũng đang theo dõi tác động của việc Yahoo thay đổi đối tác. Với sự phát triển nhanh chóng của các công cụ tìm kiếm kết hợp với trí tuệ nhân tạo (AI), các nhà cung cấp công nghệ tìm kiếm cũng có thể ảnh hưởng rất lớn đến việc bảo vệ quyền riêng tư của người tiêu dùng và cả an ninh kinh tế.

Cụ thể, liên quan đến việc sáp nhập LINE và Yahoo, vào năm 2021, LINE bị phát hiện là đã cho phép một doanh nghiệp có liên kết với Trung Quốc truy cập dữ liệu cá nhân của người dùng trong nước.

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer

Nam Nguyen | MarketingTrips

Twitter giới hạn số lượng tweet người dùng có thể đọc mỗi ngày

Hôm 1/7, hàng nghìn người đã báo cáo về các sự cố khi truy cập mạng xã hội Twitter, sau khi ông chủ Elon Musk giới hạn hầu hết người dùng chỉ được xem 600 tweet mỗi ngày.

Twitter giới hạn số lượng tweet người dùng có thể đọc mỗi ngày
Twitter giới hạn số lượng tweet người dùng có thể đọc mỗi ngày

Bước thay đổi chính sách do tỷ phú công nghệ Elon Musk đưa ra bắt đầu có hiệu ứng lan tỏa vào đầu ngày 1/7. Theo trang web Downdetector chuyên theo dõi sự cố gián đoạn, có thời điểm, trên 7.500 người đã cùng lúc báo cáo sự cố khi sử dụng dịch vụ của mạng xã hội “chim xanh”.

Mặc dù đó là tỷ lệ tương đối nhỏ trong số hơn 200 triệu người dùng trên toàn thế giới của Twitter, nhưng sự cố đã lan rộng đủ để khiến từ khóa #TwitterDown (Twitter bị lỗi) trở thành xu hướng ở một số nơi trên thế giới.

Tình trạng gián đoạn truy cập trên xảy ra một ngày sau khi Twitter bắt đầu yêu cầu mọi người đăng nhập vào dịch vụ để xem được các tweet và hồ sơ cá nhân. Đây là sự thay đổi so với thông lệ lâu năm của Twitter.

Trong một dòng tweet chia sẻ hôm 30/6, ông Musk mô tả các hạn chế mới là một biện pháp tạm thời bởi nguồn dữ liệu đang bị sử dụng nhiều đến mức làm suy giảm dịch vụ cho người dùng bình thường.

Các tài khoản chưa được xác minh sẽ tạm thời bị giới hạn đọc 600 bài đăng mỗi ngày trong khi các tài khoản đã được xác minh sẽ có thể lướt tối đa 6.000 bài đăng mỗi ngày.

Điều đó đồng nghĩa với việc người dùng sẽ bị “khóa” Twitter trong ngày sau khi đọc hết hạn mức vài trăm tweet.

Sau khi tỷ phú Elon Musk mua lại Twitter vào tháng 10/2022, công ty truyền thông xã hội này đã phải đối mặt với nhiều tháng hỗn loạn, bao gồm việc bất ngờ sa thải hàng nghìn nhân viên, bị chỉ trích về việc kiểm duyệt nội dung lỏng lẻo dẫn đến nhiều bài đăng gây ảnh hưởng trong xã hội.

Trong bối cảnh đó, nhiều nhà quảng cáo cũng đã chấm dứt hợp đồng với Twitter.

Tháng 4/2023, công ty Insider Intelligence dự báo doanh thu từ quảng cáo của Twitter sẽ giảm 28% xuống còn 2,98 tỷ USD trong năm 2023.

Insider Intelligence cho biết người dùng không còn hứng thú với Twitter như trước, sau khi ông Musk trở thành lãnh đạo công ty. Công ty này ước tính thời gian người dùng dành cho nền tảng mạng xã hội sẽ giảm 2 phút, xuống còn 34 phút/ngày.

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer

Hà Anh  | MarketingTrips   

Thuật toán của Facebook và Instagram: Meta cập nhật một số thông tin mới

Trong một bài phỏng vấn mới đây, người đứng đầu các vấn đề toàn cầu của Meta đã chia sẻ một số thông tin mới về cách thuật toán của Facebook và Instagram hoạt động.

Thuật toán của Facebook và Instagram: Meta cập nhật một số thông tin mới
Thuật toán của Facebook và Instagram: Meta cập nhật một số thông tin mới

Theo đó, Ông Nick Clegg, Chủ tịch phụ trách các vấn đề toàn cầu của Meta chia sẻ:

“Hàng tỷ người dùng lên Facebook và Instagram mỗi ngày để chia sẻ những câu chuyện, kết nối với người cùng sở thích và khám phá nội dung.

Để trải nghiệm mỗi người được cá nhân hóa hơn, chúng tôi dùng AI để quyết định nội dung nào sẽ xuất hiện trên bảng tin”.

Clegg cho rằng với tiến bộ vượt bậc của AI, mọi người vừa hào hứng vừa lo sợ, nên cách tốt nhất để giải quyết những lo ngại này là thẳng thắn và cởi mở.

Cách AI của Meta phân bổ nội dung và ảnh hưởng của nó tới thuật toán của Facebook và Instagram.

Meta cho biết, hầu hết nội dung trên Facebook, Instagram được chia làm 22 “thẻ hệ thống”. Mỗi thẻ chứa thông tin chi tiết về cách AI xếp hạng và đề xuất nội dung. Thuật toán (Algorithm) sẽ dự đoán giá trị của tin tức với từng người dùng, từ đó quyết định cái gì sẽ được ưu tiên xuất hiện ở vị trí tốt.

Đầu tiên, AI phân tích hành vi, thói quen, sở thích của mỗi người từ những bài họ đăng hoặc chia sẻ lại. Hệ thống sẽ xếp bài đăng vào một trong 22 thẻ tương ứng. Từ đó, AI lựa chọn nội dung cùng loại để phân phối ngược lại trên bảng tin của người dùng.

Tuy nhiên, Meta cũng lưu ý họ dùng một số thuật toán, thước đo khác để phân phối thông tin chứ không chỉ dựa vào 1-2 phép tính đơn giản. Ví dụ, AI còn đánh giá bài viết đó có giá trị với người dùng không để tiếp tục đề xuất những bài khác trong tương lai.

“Chúng tôi kết hợp các yếu tố để dự đoán nội dung gần nhất với sở thích người dùng. Nhiều thuật toán dựa vào hành vi, số khác lại dựa trên các khảo sát và phản hồi của người dùng”, Clegg nói.

Mạng xã hội cũng dùng AI để lọc và loại bỏ nội dung có hại nhằm giúp hạn chế việc phân phối những bài viết chấp lượng thấp. Nền tảng cũng đang cố gắng xóa nội dung xấu khỏi bảng tin người dùng nhưng không tiết lộ tiêu chí cụ thể do lo ngại người dùng có thể “lách luật”.

Thời gian tới, Facebook sẽ cho phép người dùng nhấp vào một nội dung, xem lại lịch sử hoạt động để hiểu vì sao AI lại đề xuất nội dung đó đến mình. Meta cho biết sau khi thử nghiệm trên Facebook, tính năng này sẽ được mở rộng sang cả mạng xã hội Instagram.

Cách lựa chọn của người dùng cũng ảnh hưởng đến thuật toán của Facebook và Instagram.

Clegg nói Facebook cũng cung cấp cho người dùng một số công cụ để tự chọn trải nghiệm của mình với AI. Nếu không muốn trí tuệ nhân tạo phân phối nội dung, người dùng có thể bật chế độ “Không cá nhân hóa” trong phần cài đặt.

Trong mỗi video, bài viết được đề xuất, họ cũng có thể thông báo cho nền tảng biết họ quan tâm hoặc không quan tâm. Ngoài ra, Facebook cũng sẽ có những tùy chọn khác như hiển thị thêm hoặc hiển thị ít hơn nội dung tương tự. Người dùng có thể tìm thấy tùy chọn này trong phần cài đặt mở rộng.

Mạng xã hội này cho biết đã phát hành hơn 1.000 mô hình AI, thư viện, dữ liệu cho toàn bộ người dùng, nhà nghiên cứu nhằm minh bạch tối đa thuật toán.

Người phát ngôn của Meta tiết lộ trong vài tuần tới, họ sẽ bắt đầu triển khai bộ công cụ mới dành cho các nhà nghiên cứu, trong đó có Thư viện nội dung Meta và API.

Thư viện gồm dữ liệu từ các bài đăng, trang, nhóm và sự kiện công khai trên mạng xã hội Facebook. Dữ liệu từ Thư viện có thể được tìm kiếm, khám phá và lọc trên giao diện đồ họa người dùng hoặc thông qua API lập trình.

Về cơ bản, sự bùng nổ của AI trong thời gian qua đã thu hút sự chú ý lớn của cơ quan quản lý khắp thế giới. Nhiều người lo ngại các nền tảng lớn như Meta dùng AI để thu thập, quản lý, sử dụng dữ liệu cá nhân của người dùng.

Sau bài học quản lý sai dữ liệu người dùng trong vụ bê bối Cambridge Analytica, CEO Meta Mark Zuckerberg có thể đang muốn chủ động hơn trong việc minh bạch hoạt động với người dùng và cơ quan quản lý.

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer

Nam Nguyen | MarketingTrips

Facebook đối đầu Apple và Google: Cho phép quảng cáo để tải trực tiếp ứng dụng

Meta, công ty mẹ của Facebook, Instagram và WhatsApp cho biết các nhà quảng cáo sẽ sớm có thể quảng cáo để người dùng có thể tải xuống trực tiếp ứng dụng mà không cần phải truy cập các cửa hàng ứng dụng của Apple (App Store) và Google (CH Play).

Facebook đối đầu Apple và Google: Cho phép quảng cáo để tải trực tiếp ứng dụng
Facebook đối đầu Apple và Google: Cho phép quảng cáo để tải trực tiếp ứng dụng

Theo đó, Meta sẽ sớm cho phép các nhà phát triển tự giới thiệu các ứng dụng của họ trên nền tảng, đồng thời người dùng cũng có thể tải xuống trực tiếp ứng dụng (của bên thứ ba) mà không cần rời khỏi các nền tảng của Meta như Facebook hay Instagram.

Trước mắt, Meta có kế hoạch cho phép người dùng tại châu Âu tải xuống trực tiếp các ứng dụng từ quảng cáo trên Facebook, loại quảng cáo mới này dự kiến sẽ được giới thiệu vào cuối năm nay.

Động thái của Meta diễn ra trong bối cảnh châu Âu đang đưa ra các Đạo luật mới cho thị trường kỹ thuật số (EU Digital Markets Act), trong đó yêu cầu các nền tảng như Google và Apple phải cho phép các nhà phát triển khác cung cấp các giải pháp thay thế trong việc tải xuống ứng dụng (Mobile App) thay vì bắt buộc phải truy cập vào các cửa hàng ứng dụng tương ứng như App Store và Google Play.

Quay trở lại vào năm 2020, trong bối cảnh có nhiều tranh cãi về cấu trúc tính phí mua hàng trong ứng dụng của Apple, CEO của Meta, Mark Zuckerberg, đã gọi cách tiếp cận của Apple là ‘độc quyền’ và có hại cho sự cạnh tranh.

Cụ thể, Apple đã tính phí từ khoảng 30% cho mỗi giao dịch mua hàng trong ứng dụng của mình, khoản phí được cho là quá cao.

Trong khi mọi thứ dường như chỉ mới bắt đầu, nhiều nguồn tin cho biết Meta đang tận dụng cơ hội để khám phá các tùy chọn mới cho nhà phát triển ứng dụng cũng như những người muốn kiếm thêm thu nhập trực tiếp từ sự hiện diện của họ trên các nền tảng của Meta.

Quảng cáo cài đặt trực tiếp ứng dụng chỉ là bước đầu tiên trong quá trình này.

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer

Nam Nguyen | MarketingTrips

Sony gia nhập thế giới thực tế ảo (VR) với Mocopi

Theo thông tin mới đây, gã khổng lồ công nghệ Sony cho biết hệ thống đo lường và theo dõi chuyển động ảnh đại diện kỹ thuật số (Digital Avatar) Mocopi sẽ sớm khả dụng trước với những người dùng tại Mỹ.

Sony gia nhập thế giới thực tế ảo (VR) với Mocopi
Sony gia nhập thế giới thực tế ảo (VR) với Mocopi

Sony vừa công bố rằng hệ thống theo dõi chuyển động hình ảnh đại diện kỹ thuật số Mocopi hiện đã khả dụng tại Bắc Mỹ.

Công cụ này cho phép người dùng điều khiển hình ảnh đại diện kỹ thuật số của họ trong thời gian thực, sử dụng chuyển động toàn thân (full body movement) nhờ vào 6 cảm biến chuyển động và ứng dụng điện thoại thông minh riêng biệt.

Ngoài khả năng kiểm soát chuyển động của cơ thể theo thời gian thực, tính năng mới có thể được sử dụng trong video và hình ảnh chuyển động 3D thông qua một SDK (công cụ tích hợp) nhập dữ liệu chuyển động vào phần mềm liên kết.

SDK hiện đã có sẵn cho các bộ phần mềm phát triển 3D lớn như Unity, MotionBuilder hay Unreal Engine. Sony cho biết hiện nền tảng cũng đang mở rộng số lượng các đối tác liên kết với mục tiêu phát triển các dịch vụ và tính năng độc đáo của công cụ.


Về mặt kỹ thuật, các cảm biến (sensors) sẽ được gắn vào đầu, hông, mắt cá chân và cổ tay của người dùng, với mỗi cảm biến nhỏ chỉ nặng khoảng 8 gam. Sau khi được gắn qua dây đai Velcro, người dùng có thể kết nối với ứng dụng qua Bluetooth và bắt đầu ghi âm.

Các cảm biến hoàn toàn không dây, hoạt động nhờ vào bộ thu Bluetooth và bao gồm cả pin đã được tích hợp sẵn. Trong khi hệ thống sẽ cung cấp sẵn nhiều ảnh đại diện để người dùng lựa chọn, họ cũng có thể tự xây dựng các hình ảnh cho riêng mình.

Hệ thống Mocopi của Sony hiện đã có sẵn với mức giá 450 USD và sẽ bắt đầu giao hàng từ ngày 14 tháng 7 tới.

Hành động của Sony được cho là tích cực trong việc nhanh chóng gia nhập vào thế giới thực tế ảo (VR) và Metaverse, các công nghệ được dự báo là tương lai của thế giới internet đa tương tác.

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer

Nam Nguyen | MarketingTrips

Competitive Advantage: Khi nào dữ liệu có thể xây dựng lợi thế cạnh tranh (P1)

Không ít người làm marketing cho rằng, khi doanh nghiệp càng có nhiều khách hàng, họ càng có thể thu thập thêm nhiều dữ liệu (Data) và khi phân tích nhiều hơn các dữ liệu này họ càng có thể thu hút thêm được nhiều khách hàng hơn, đồng thời có thể tạo ra nhiều lợi thế cạnh tranh hơn, tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, đây là một tư duy sai lầm.

Competitive Advantage: Khi dữ liệu có thể xây dựng lợi thế cạnh tranh
Competitive Advantage: Khi dữ liệu có thể xây dựng lợi thế cạnh tranh

Nhiều marketer và nhà lãnh đạo doanh nghiệp cho rằng họ có thể sử dụng năng lực về dữ liệu khách hàng (customer data) để tạo ra hay giành lấy các lợi thế cạnh tranh lớn.

Bằng cách có càng nhiều khách hàng, họ càng có thể thu thập nhiều dữ liệu hơn và từ những dữ liệu đó, khi được phân tích bằng các công cụ máy học hoặc trí tuệ nhân tạo (AI), cho phép họ cung cấp một sản phẩm hoặc dịch vụ tối ưu hơn để từ đó thu hút được nhiều khách hàng hơn.

Mục tiêu chính của doanh nghiệp khi này là loại bỏ các đối thủ cạnh tranh của mình giống như cách mà các doanh nghiệp hoạt động theo mô hình mạng lưới lớn có thể làm với các doanh nghiệp khác.

Tuy nhiên, thực tế là nhiều người làm marketing và kinh doanh một mặt đánh giá quá cao sức mạnh của các dữ liệu khách hàng nói chung, mặt khác họ chưa phân biệt được khi nào thì các dữ liệu khách hàng thực sự có thể giúp xây dựng lợi thế cạnh tranh so với các đối thủ khác trong ngành.

Trong khi lợi thế có được khi có nhiều khách hàng và dữ liệu hơn trông có vẻ hoạt động giống với các mô hình nền tảng hay mạng lưới (platforms, networks), trong đó một sản phẩm ví dụ như nền tảng mạng xã hội – sẽ trở nên có giá trị hơn khi có nhiều người sử dụng nó hơn và cuối cùng, khi nền tảng thu hút được một lượng lớn người dùng, điều này khiến các đối thủ khó thâm nhập và cạnh tranh hơn.

Nhưng trong thực tế, sức mạnh có được từ các mô hình mạng lưới thường tồn tại lâu hơn và có xu hướng mạnh hơn. Để thiết lập vị thế cạnh tranh, doanh nghiệp vừa cần có các hiệu ứng theo kiểu mạng lưới vừa phải liên tục học tập dựa trên dữ liệu (data-enabled learning). Tuy nhiên, có rất ít doanh nghiệp có thể phát triển cả hai.

Trong những điều kiện thích hợp, dữ liệu có được từ khách hàng có thể giúp doanh nghiệp xây dựng hệ thống phòng thủ cạnh tranh (competitive defenses), ngay cả khi không có hiệu ứng kiểu mạng lưới.

Trong bài viết này, hãy cùng phá xem, để dữ liệu có thể mang lại lợi thế cạnh tranh hay giúp xây dựng hệ thống phòng thủ cạnh tranh, dữ liệu được thu thập từ khách hàng cần có những điều kiện gì và doanh nghiệp liệu có thể tận dụng nó ra sao.

Năng lực thu thập và sử dụng dữ liệu đã thay đổi mạnh nhờ vào công nghệ.

Về bản chất, các doanh nghiệp được xây dựng trên dữ liệu đã có từ rất lâu, ví dụ các đơn vị tổng hợp thông tin như Thomson Reuters hay Bloomberg.

Các doanh nghiệp này được “bảo vệ” bởi các rào cản gia nhập ngành đáng kể do tính kinh tế theo quy mô liên quan đến việc thu thập và cấu trúc một lượng dữ liệu khổng lồ, tuy nhiên, mô hình kinh doanh của họ không liên quan đến việc thu thập dữ liệu từ khách hàng và khai thác các dữ liệu đó để thấu hiểu khách hàng hay tối ưu sản phẩm (và dịch vụ).

Thu thập thông tin khách hàng và sử dụng các thông tin đó để tạo ra các sản phẩm và dịch vụ tốt hơn không phải là một chiến lược mới, nhưng quá trình này trước đây diễn ra khá chậm, bị giới hạn về phạm vi và khó mở rộng quy mô.

Đối với các nhà sản xuất ô tô, các doanh nghiệp hàng tiêu dùng nhanh (FMCG) và nhiều nhà sản xuất truyền thống khác, nó đòi hỏi doanh nghiệp phải thu thập dữ liệu bán hàng (sales data), tiến hành khảo sát khách hàng và cả việc tổ chức các nhóm phỏng vấn tập trung (focus groups).

Dữ liệu bán hàng thường là dữ liệu bán hàng tổng hợp, tức không liên kết với khách hàng cá nhân và vì các cuộc khảo sát và nhóm tập trung lại rất tốn kém cả ngân sách và thời gian nên dữ liệu có được đa phần là dữ liệu từ một lượng nhỏ khách hàng.

Tuy nhiên, điều này sau đó đã thay đổi đáng kể với sự ra đời của các đám mây công nghệ (Cloud Computing), các công nghệ điện toán đám mây mới cho phép doanh nghiệp nhanh chóng thu thập, xử lý và có được insights từ một lượng dữ liệu khổng lồ.

Các sản phẩm và dịch vụ được kết nối qua internet giờ đây có thể trực tiếp thu thập thông tin hay dữ liệu về khách hàng, bao gồm cả các thông tin cá nhân, hành vi tìm kiếm, ưu tiên nội dung, thông tin liên hệ, các bài đăng trên mạng xã hội, và hơn thế nữa.

Với sự hỗ trợ của các thuật toán dựa trên công nghệ máy học hay trí tuệ nhân tạo, các dịch vụ của doanh nghiệp sau đó có thể được tự động điều chỉnh sao cho phù hợp với không chỉ là các tập khách hàng lớn mà đến cả từng khách hàng cá nhân riêng biệt.

Trong khi rõ ràng là việc thu thập và phân tích dữ liệu đang trở nên dễ dàng hơn bao giờ hết, khi người làm marketing có nhiều cách hơn để thấu hiểu khách hàng của họ, điều này không có nghĩa là doanh nghiệp có thể tạo ra các rào cản hay hệ thống phòng thủ cạnh tranh trước đối thủ.

Xây dựng các rào cản hay lợi thế cạnh tranh bằng quá trình học tập dựa trên dữ liệu.

Để có thể xác định mức độ bền vững của cái gọi là lợi thế cạnh tranh từ quá trình thu thập và học tập dựa trên dữ liệu, các doanh nghiệp nên trả lời bảy câu hỏi:

1. Độ lớn của các giá trị được tạo ra từ các dữ liệu khách hàng?

Giá trị được tạo ra (tăng thêm) càng cao thì cơ hội tạo ra các lợi thế cạnh tranh về lâu dài càng lớn.

Hãy xem xét một doanh nghiệp có giá trị của dữ liệu khách hàng rất cao là Mobileye, một nhà cung cấp các hệ thống hỗ trợ người lái tiên tiến (ADAS), bao gồm cả khả năng cảnh báo ngăn ngừa va chạm và chệch làn đường cho các phương tiện.

Mobileye chủ yếu bán các hệ thống của mình cho các nhà sản xuất ô tô, những nhà sản xuất này sẽ thử nghiệm chúng một cách kỹ lưỡng trước khi tích hợp chúng vào các sản phẩm của họ.

Điều tối kỵ đối với các hệ thống lái là thiếu sự an toàn và dữ liệu thử nghiệm là điều cần thiết để cải thiện độ chính xác của chúng. Bằng cách thu thập dữ liệu này từ nhiều khách hàng của mình, Mobileye đã có thể nâng độ chính xác của ADAS lên mức 99,99%.

Mặc dù doanh nghiệp có được rất nhiều sự hiểu biết về sản phẩm từ việc thu thập dữ liệu, nhưng chúng lại không thể đảm bảo tạo ra các rào cản bảo vệ doanh nghiệp.

Ngược lại với các doanh nghiệp như Mobileye, giá trị của việc học hỏi từ dữ liệu khách hàng là tương đối thấp đối với các nhà sản xuất TV thông minh.

Trong khi việc cá nhân hoá nội dung có thể phù hợp (tạo ra giá trị) với các đơn vị như Netflix hay Amazon, nó lại gần như vô giá trị đối với các nhà sản xuất TV.

Khách hàng của các doanh nghiệp này chủ yếu xem xét các yếu tố như kích thước TV, chất lượng hình ảnh, tính dễ sử dụng và độ bền khi đưa ra quyết định mua hàng.

Nếu việc thu thập dữ liệu hay học hỏi từ khách hàng đóng một vai trò quyết định, có lẽ mảng kinh doanh TV thông minh sẽ kém cạnh tranh hơn.

2. Giá trị cận biên (marginal value) của việc học tập dựa trên dữ liệu giảm nhanh đến mức nào?

Nói cách khác, bao lâu thì doanh nghiệp đạt đến điểm mà ở đó khi dữ liệu khách hàng được thu thập hay bổ sung nhiều hơn không còn giúp tạo ra giá trị nữa? Giá trị biên giảm càng chậm thì rào cản cạnh tranh được tạo ra càng mạnh.

Với câu hỏi này, người làm kinh doanh hay marketer nên đánh giá giá trị của việc học tập dữ liệu dựa trên mức độ sẵn sàng chi trả của khách hàng chứ không phải theo các chỉ số khác ví dụ như tỷ lệ khách hàng trả lời tin nhắn hay tỷ lệ nhấp chuột tiềm năng.

Khi giá trị cận biên của việc học hỏi từ dữ liệu khách hàng vẫn cao ngay cả sau khi doanh nghiệp đã có được một lượng khách hàng rất lớn, các sản phẩm và dịch vụ có xu hướng có nhiều lợi thế cạnh tranh hơn. Các công cụ tìm kiếm trực tuyến như Baidu và Google chính là minh chứng cho điều này.

Mặc dù Microsoft đã đầu tư nhiều năm và hàng tỷ đô la vào Bing, nhưng nó đã không thể lay chuyển sự thống trị của Google trong lĩnh vực tìm kiếm. Tất cả các công cụ tìm kiếm và hệ thống đều cần một lượng lớn dữ liệu người dùng để có thể cung cấp các kết quả đáng tin cậy một cách nhất quán.

Một ví dụ ngược lại về một doanh nghiệp mà giá trị cận biên của dữ liệu người dùng đã giảm xuống nhanh chóng khi có được một lượng lớn dữ liệu và khách hàng nhất định đó là máy điều nhiệt thông minh. Những sản phẩm này chỉ cần vài ngày để tìm hiểu sở thích về nhiệt độ của người dùng trong suốt cả ngày.

Trong bối cảnh này, việc học tập dựa trên dữ liệu khách hàng không thể mang lại nhiều lợi thế cạnh tranh cho doanh nghiệp.

Mặc dù là đơn vị ra mắt máy điều nhiệt thông minh đầu tiên kể từ năm 2011, Nest (được Google mua lại vào năm 2014) hiện phải đối mặt với sự cạnh tranh đáng kể từ những đối thủ mới như Ecobee và Honeywell.

3. Mức độ liên quan của dữ liệu người dùng giảm nhanh ra sao?

Nếu dữ liệu trở nên “lỗi thời” nhanh chóng, thì tất cả những thứ khác đều như nhau, đối thủ cạnh tranh khi này sẽ dễ dàng thâm nhập thị trường hơn vì họ không cần phải cạnh tranh với năng lực học tập dựa trên dữ liệu được tính bằng thời gian của các doanh nghiệp ra đời trước.

Tất cả dữ liệu mà Mobileye đã tích lũy được trong nhiều năm từ các nhà sản xuất ô tô vẫn có giá trị với các phiên bản hiện tại của sản phẩm. Dữ liệu về người dùng mà các công cụ tìm kiếm như Google đã thu thập trong nhiều thập kỷ cũng vậy.

Mặc dù một số từ khoá có thể sẽ ít được tìm kiếm hơn và nhiều từ khoá tìm kiếm mới cũng không ngừng xuất hiện, lịch sử dữ liệu tìm kiếm được thu thập trong nhiều năm, các thuật toán đề xuất và xếp hạng nội dung, cùng với đó là các cấu trúc dữ liệu hành vi khác có được từ người dùng lại vô cùng giá trị.

Điều này giải thích lý do tại sao cả Mobileye và Google Search rất khó bị loại bỏ ra khỏi thị trường mặc dù họ đã có mặt từ rất lâu.

Tuy nhiên, đối với các trò chơi xã hội (social games) dành cho máy tính và thiết bị di động, giá trị của việc học hỏi từ dữ liệu người dùng có xu hướng giảm nhanh chóng. Năm 2009, thị trường này cất cánh khi Zynga giới thiệu trò chơi FarmVille rất thành công.

Trong khi các doanh nghiệp phụ thuộc nhiều vào việc phân tích dữ liệu người dùng để đưa ra các quyết định (thiết kế và tối ưu trò chơi), nhưng hóa ra những hiểu biết sâu sắc họ có được từ một trò chơi lại không thể giúp họ có nhiều lợi thế hơn với các trò chơi mới khác: Các trò chơi xã hội thông thường thường có xu hướng nhất thời và sở thích của người dùng (người chơi game) cũng thay đổi nhanh chóng theo thời gian, điều này khiến các dữ liệu mà doanh nghiệp có được không giúp họ phát triển bền vững hơn trong tương lai.

Mặc dù đã từng rất thành công, Zynga đã ngừng sản xuất các phiên bản mới, và vào năm 2013, hãng đã mất gần một nửa lượng người dùng.

Zynga đã được thay thế bởi các nhà sản xuất trò chơi mới như Supercell (Clash of Clans) và đế chế Epic Games (Fortnite). Sau khi đạt đỉnh 10,4 tỷ USD vào năm 2012, giá trị thị trường của Zynga giảm xuống dưới mức 4 tỷ USD trong hầu hết 6 năm tiếp theo.

Hết phần 1!

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer

Nam Nguyen | MarketingTrips

TikTok Subscriber-Only: TikTok mở rộng chương trình kiếm tiền mới

TikTok Subscriber-Only là chương trình nhằm mục tiêu thúc đẩy doanh thu cho các nhà sáng tạo của TikTok trên nền tảng, trong đó người dùng phải đăng ký (Subscribe) để được xem nội dung (video) từ nhà sáng tạo.

TikTok Subscriber-Only: TikTok mở rộng chương trình kiếm tiền mới
TikTok Subscriber-Only: TikTok mở rộng chương trình kiếm tiền mới

Theo thông báo mới đây từ TikTok, nhiều nhà sáng tạo hơn hiện có thể kiếm thêm thu nhập từ các nội dung độc quyền của họ, người dùng hay người hâm mộ họ có thể trả tiền (Subscriber) để được xem các video.

Tính năng này sẽ được tích hợp sẵn trong gói LIVE Subscriptions mà TikTok đã ra mắt vào năm ngoái, tuy nhiên thời điểm đó chỉ cho phép những người phát trực tiếp (live-streamers) kiếm thêm thu nhập bằng cách chia sẻ các video độc quyền.

Theo giải thích của TikTok:

“Subscriber-Only Videos là những video độc quyền mà chỉ người đăng ký (subscribers) mới có thể xem được. Tính năng mới này giúp nhà sáng tạo có thể thúc đẩy các kết nối có ý nghĩa hơn với cộng đồng người hâm mộ yêu thích của họ.”

Ở thời điểm ban đầu, TikTok chỉ muốn áp dụng tính năng mới này cho những luồng phát trực tiếp (live streaming), tuy nhiên tính đến thời điểm hiện tại, ngoài châu Á, các thị trường khác như Mỹ hay châu Âu vẫn chưa thực sự mặn mà với hình thức này, đó là nguyên nhân chính khiến TikTok mở rộng Subscriber-Only Videos ra ngoài các video được phát trực tiếp để hỗ trợ nhà sáng tạo.

Trong một khía cạnh khác, thương mại trực tiếp (Live Commerce) vẫn là ưu tiên hàng đầu trong chiến lược phát triển thương mại điện tử của TikTok, hình thức mua sắm này cũng là nguồn doanh thu chính của Douyin, phiên bản của TikTok tại thị trường Trung Quốc.

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer

Hà Anh  | MarketingTrips   

Gã khổng lồ thương mại điện tử Shein nộp hồ sơ IPO tại Mỹ

Shein được định giá hơn 60 tỷ USD, có thể trở thành công ty đại chúng từ Trung Quốc có giá trị lớn nhất tại Mỹ kể từ sau DiDi Global, nếu thương vụ IPO diễn ra thành công.

Shein của Trung Quốc nộp hồ sơ IPO tại Mỹ
Shein của Trung Quốc nộp hồ sơ IPO tại Mỹ

Shein, hãng thời trang nhanh trực tuyến (Online Fast Fashion) của Trung Quốc được định giá hơn 60 tỷ USD, mới đây đã nộp hồ sơ đăng ký với các cơ quan quản lý tại Mỹ để thực hiện việc phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng (IPO), hãng tin Reuters dẫn nguồn từ những nguồn tin thân cận với vấn đề này.

Nếu thương vụ IPO diễn ra thành công, hãng thời trang nhanh Shein có thể trở thành công ty đại chúng đến từ Trung Quốc có giá trị lớn nhất tại Mỹ, kể từ khi gã khổng lồ ngành gọi xe công nghệ Didi Global niêm yết tại Sàn giao dịch Chứng khoán New York vào năm 2021 với mức định giá 68 tỷ USD.

Didi sau đó đã bị hủy niêm yết khỏi Sàn giao dịch Chứng khoán New York trong bối cảnh chính quyền Bắc Kinh siết chặt quy định đối với các công ty công nghệ Trung Quốc, liên quan tới các quy tắc bảo mật dữ liệu và chống độc quyền.

Shein đã bí mật gửi hồ sơ đăng ký IPO của mình với Ủy ban Chứng khoán và Sàn giao dịch Mỹ (SEC), các nguồn tin cho biết. Các nguồn tin cũng nói thêm rằng thương vụ IPO của Shein tại Mỹ có thể diễn ra trước thời điểm cuối năm 2023.

Chia sẻ qua email, người phát ngôn của hãng thời trang nhanh Shein cho biết phía công ty “phủ nhận những tin đồn này”, đồng thời không đưa ra bình luận khi được yêu cầu cung cấp thêm thông tin chi tiết. Phía SEC cũng từ chối bình luận về vấn đề này.

Để thúc đẩy các kế hoạch IPO của mình, Shein đang “bỏ qua” những căng thẳng gia tăng gần đây giữa Mỹ và Trung Quốc về vấn đề như thương mại, công nghệ nhạy cảm, nhân quyền và địa chính trị.

Thương vụ IPO của Shein bị phản đối bởi một nhóm gồm khoảng 20 đại diện của lưỡng đảng Mỹ, những người đã yêu cầu phía SEC xác minh rằng công ty không “cưỡng bức lao động”, trước khi cho phép Shein được niêm yết trên Sàn giao dịch Chứng khoán New York.

Phía Shein cho biết họ tuân thủ các tiêu chuẩn và đáp ứng đầy đủ về mặt đạo đức trong việc tìm nguồn cung ứng, đồng thời bác bỏ cáo buộc rằng họ vận chuyển nguồn cung từ một khu vực nhạy cảm của Trung Quốc.

Các nhà lập pháp Mỹ cũng đang tìm cách hạn chế quyền miễn thuế “de minimis”, được sử dụng rộng rãi bởi các nhà bán lẻ thương mại điện tử như Shein trong việc gửi đơn đặt hàng từ Trung Quốc đến Mỹ.

Một bản tóm tắt được các cơ quan chức năng tại Mỹ đưa ra vào hồi tháng 4 đã cáo buộc Shein lợi dụng quyền miễn trừ để trốn thuế, đồng thời nhập khẩu các mặt hàng được sản xuất bất hợp pháp.

Shein đã được định giá hơn 60 tỷ USD sau vòng gọi vốn tư nhân trị giá 2 tỷ USD vào tháng 3. General Atlantic, Mubadala, Tiger Global và Sequoia Capital China nằm trong số các nhà đầu tư đã rót vốn vào hãng thời trang nhanh.

Shein đã để mắt đến việc IPO tại Mỹ trong ít nhất ba năm, nhưng đã bị cản trở bởi những cơn gió ngược, bao gồm sự giám sát của Mỹ đối với các hoạt động tài chính – kế toán của các công ty Trung Quốc và biến động của thị trường do ảnh hưởng từ đại dịch COVID-19 cũng như xung đột giữa Nga và Ukraine.

Người sáng lập công ty, Chris Xu, đã chuyển trụ sở chính của công ty từ Nam Kinh, thủ phủ của tỉnh Giang Tô phía Đông Trung Quốc đến Singapore hơn một năm trước, một động thái giúp Shein lách các quy định mới nghiêm ngặt của Trung Quốc về việc niêm yết ở nước ngoài.

Shein đã từng bước trở thành một thế lực mới trong ngành thương mại điện tử nhờ sự kết hợp giữa kinh nghiệm chuỗi cung ứng, thiết kế quần áo dựa trên dữ liệu và các lỗ hổng về thuế ở Trung Quốc và Mỹ đã xuất hiện trong thời điểm hai quốc gia có nhiều căng thẳng về thương mại.

Mới nhất, gã khổng lồ ngành thời trang nhanh cho biết sẽ mở rộng dấu ấn của mình ở châu Âu và Mexico, bằng việc bán nhiều sản phẩm sản xuất tại địa phương hơn, nhằm đa dạng hóa chuỗi cung ứng vốn đang chỉ tập trung ở thị trường nội địa Trung Quốc.

Trước đó, vào tháng 4/2022, phía Shein cũng từng cân nhắc một vòng gọi vốn ở mức định giá khoảng 100 tỷ USD, các nguồn tin thân cận với vấn đề chia sẻ cùng Bloomberg.

Tháng 5/2021, Shein cũng cho biết công ty được định giá “nhiều tỷ USD” và chưa có kế hoạch thực hiện IPO trong ngắn hạn. Trong cùng năm, Shein đã vượt qua Amazon để trở thành ứng dụng mua sắm được tải về nhiều nhất từ các kho ứng dụng Mỹ.

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer

Hà Anh  | MarketingTrips   

Vốn hoá của Apple chính thức vượt 3.000 tỷ USD

Kết thúc phiên giao dịch ngày 30/6 (theo giờ Mỹ), giá trị vốn hoá (Market Cap) của Apple đã lần đầu tiên vượt mốc 3.000 tỷ USD.

Vốn hoá của Apple chính thức vượt 3.000 tỷ USD
Vốn hoá của Apple chính thức vượt 3.000 tỷ USD

Dẫn số liệu từ Refinitiv, Reuters cho biết kết thúc phiên giao dịch, cổ phiếu Apple tăng 2,31% để lên mức 193,97 USD cổ phiếu. Với mức giá này, giá trị vốn hóa của Apple đã cán mốc 3.051 tỷ USD. Đáng chú ý đây là phiên thứ 4 liên tiếp cổ phiếu của Apple thiết lập kỷ lục mới.

Apple là công ty đầu tiên đạt vốn hóa 3.000 tỷ USD trong một phiên giao dịch vào tháng 3/1/2022, nhưng đóng cửa ở mức thấp hơn.

Cổ phiếu Apple lập kỷ lục mới được đánh giá nhờ những tín hiệu tích cực trong cuộc chiến chống lạm phát tại Mỹ cũng như các nhà đầu tư đặt cược khả năng nhà sản xuất iPhone sẽ thành công trong việc khai thác các thị trường mới.

Báo cáo từ Bộ Thương mại Mỹ cho thấy, chỉ số giá chi tiêu tiêu dùng cá nhân (PCE) của Mỹ trong tháng 5 tăng ít hơn so với tháng 4, phản ánh sự tiến bộ trong cuộc chiến chống lạm phát của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ FED.

Vốn hoá của Apple chính thức vượt 3.000 tỷ USD
Vốn hoá của Apple chính thức vượt 3.000 tỷ USD

Thống kê cho thấy, giá trị vốn hóa của Apple đã tăng đến 49% kể từ đầu năm 2023. Mức tăng này được cho là đến từ việc các nhà đầu tư tin tương cuộc chiến chống lạm phát của FED sắp đi đến hồi kết cũng như sự lạc quan về tiềm năng trong lĩnh vực trí tuệ nhân tạo (AI).

Ngoài ra, trong báo cáo quý gần đây nhất, dù cho doanh thu và lợi nhuận suy giảm nhưng đều đánh bại kỳ vọng của các nhà đầu tư.

Cùng với đó việc Apple liên tục mua lại cổ phiếu của mình cũng như kết quả tài chính ổn định cũng giúp giá trị vốn hóa của Apple liên tục tăng bất chấp bất ổn của kinh tế toàn cầu.

“Nhiều người đặt cược vào đà giảm của Apple đang vò đầu bứt tai. Bởi họ tin rằng Apple sẽ trải qua một ‘giai đoạn tăng trưởng đứt đoạn’ trong bối cảnh khó khăn. Nhưng chúng tôi tin chắc rằng điều ngược lại sẽ xảy ra.

Gã khổng lồ công nghệ Mỹ đang hướng tới đợt tăng trưởng mạnh mẽ trong vòng 12-18 tháng tới”, chuyên gia phân tích Dan Ives của Wedbush nhận định.

Không chỉ Apple, những phiên giao dịch gần đây cũng chứng kiến đà tăng giá mạnh cổ phiếu của các ông lớn công nghệ như: Nvidia, Tesla..

Thống kê cho thấy, giá cổ phiếu của Tesla và Meta (công ty mẹ của Facebook) đã tăng gấp đôi trong năm nay. Còn Nvidia đã tăng đến 190% để gia nhập câu lạc bộ 1.000 tỷ USD.

Hiện sau Apple, có 4 công ty Mỹ khác có giá trị vốn hóa hơn 1.000 tỷ USD là: Alphabet (công ty mẹ của Google), Amazon, Nvidia và Microsoft. Đáng chú ý, Microsoft xếp thứ 2 với giá trị vốn hóa hơn 2.500 tỷ USD.

Sự khác biệt lớn nhất giữa Gen Y và Gen Z chốn công sở

Trong khi Millennials hay Gen Y đặt ra mục tiêu, động lực rõ ràng cho sự nghiệp thì Gen Z quan tâm nhiều hơn đến mức lương, chế độ đãi ngộ và khả năng sếp đầu tư cho mình.

https://marketingtrips.com/marketing/thi-truong-la-gi-hieu-ve-thi-truong-trong-marketing-va-kinh-doanh/
https://marketingtrips.com/marketing/thi-truong-la-gi-hieu-ve-thi-truong-trong-marketing-va-kinh-doanh/

Theo một nghiên cứu từ nền tảng nhân sự HiBob, khi đề cập đến mục tiêu về công việc của Gen Y (sinh năm 1981-1996) và Gen Z (sinh năm 1997-2012), hai nhóm nhân khẩu học này có suy nghĩ riêng biệt.

Damien Andreasen, phó chủ tịch của HiBob, cho biết phần lớn kết quả đều hướng đến cách tiếp cận và những chuẩn mực khác nhau mà các thế hệ cân nhắc khi đi làm.

Những người sinh năm 1981-1996 thường quan tâm đến động lực để thúc đẩy bản thân.

“Họ sẽ hỏi ‘Tại sao tôi lại làm điều này? Tác động của tôi là gì? Tôi đang cung cấp gì cho ngành công nghiệp lớn hơn?’. Họ nhận thức rất rõ mục đích trong công việc và sự phát triển phía trước, ít nhất là 6-12 tháng”, ông Andreasen nói với News.com.

Thế hệ này còn chú ý đến một công việc có ý nghĩa cho bản thân họ, tạo dựng mối quan hệ tốt với người quản lý, được tiếp cận công nghệ mới nhất và văn hóa công ty.

“Miễn là Millennials có cơ hội phát triển và thăng tiến trong sự nghiệp, họ sẽ hạnh phúc”, Eclincher đúc kết.

Nhưng với những người sinh năm 1997-2012, các nhà tuyển dụng cần phải đưa ra mức lương đủ hấp dẫn.

Điều đó cho thấy khoảng thời gian nắm giữ vị trí hiện tại của một nhân sự đã bị thu hẹp đáng kể.

Phó chủ tịch của HiBob nhận xét đây là điểm đặc trưng trong cách nghĩ của thế hệ Z.

“Khi nói đến Gen Z, yếu tố hấp dẫn họ là những công ty khởi nghiệp, doanh nghiệp mở rộng quy mô”, ông Andreasen nói.

Các nguyên tắc từng được coi là bình thường đã thay đổi khá nhiều kể từ khi những nhân sự Gen Z gia nhập lực lượng lao động.

Bên cạnh thu nhập, thế hệ Z cũng mong muốn cấp trên thể hiện rõ ý định đầu tư vào các kỹ năng của họ để tiếp tục thăng tiến.

“Đó là điều chưa bộc lộ ở các thế hệ trước”, Andreasen nói thêm.

Sự thiếu hụt nhân tài trên thị trường cũng là một yếu tố củng cố cho cách tiếp cận của Gen Z. Nhiều người sẽ không ngần ngại rời đi nếu ông chủ không thể cung cấp thêm quyền lợi.

Mặt khác, Gen Z không cứng nhắc trong việc “work from home” như một số người vẫn nghĩ. Họ thích lịch trình kết hợp linh hoạt ở văn phòng hoặc bất cứ nơi nào họ muốn.

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer

Hà Anh  | MarketingTrips   

[Download] Xu hướng sở thích và hành vi của người dùng trên YouTube

YouTube vừa công bố báo cáo mới, nêu bật các xu hướng tiêu thụ nội dung (Content) trên nền tảng, các sở thích và hành vi đang ngày càng thay đổi của người dùng và hơn thế nữa trong 2023.

[Download] Xu hướng sở thích và hành vi của người dùng trên YouTube
[Download] Xu hướng sở thích và hành vi của người dùng trên YouTube
Với tên gọi là YouTube Creative Trends 2023, báo cáo cung cấp và phân tích những thay đổi quan trọng mới nhất về sở thích và hành vi của người dùng YouTube trên 14 quốc gia khác nhau, cùng với đó là nhiều phân tích nội bộ từ YouTube.

Đối với báo cáo năm nay, YouTube đã xác định 4 chủ đề phụ chính cần lưu ý:

  • Yếu tố cá nhân hóa được áp dụng rộng rãi trên môi trường trực tuyến – Các công cụ và định dạng sáng tạo mới đã làm tăng kỳ vọng của người xem về những trải nghiệm được cá nhân hoá (tuỳ chỉnh) nhiều hơn theo sở thích của riêng họ.
  • Đa dạng hoá trải nghiệm – Đồng thời, người xem cũng đang tương tác theo những cấp độ khác nhau với từng trải nghiệm khác nhau. Nhà sáng tạo nội dung nên nỗ lực để mang lại nhiều trải nghiệm đa dạng cho người hâm mộ (người xem) của họ.
  • Đa dạng hoá định dạng nội dung – Người sáng tạo cũng nên tìm cách đa dạng hóa định dạng đầu ra của mình để đáp ứng các nhu cầu khác nhau của người xem, chẳng hạn như podcast, video ngắn, trực tiếp, v.v.
  • Khả năng sáng tạo được hỗ trợ bởi AI – Các công cụ sáng tạo mới cho phép người dùng tương tác và gia nhập theo những cấp độ khác nhau, điều này cũng mang lại nhiều cơ hội mới cho những người sáng tạo có thể khơi xậy các xu hướng mới.

YouTube cũng đã xuất bản một loạt các video hướng dẫn mới, cung cấp một cách khác để diễn giải các dữ liệu hiện có.

Bạn có thể đọc toàn bộ báo cáo YouTube Creative Trends 2023 của YouTube tại đây.

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer

Nam Nguyen | MarketingTrips

Google Ads giới thiệu Demand Gen và Video View: Giải pháp quảng cáo dựa trên AI mới

Google vừa giới thiệu Google Ads Demand Gen và Google Ads Video View mới, giải pháp quảng cáo dựa trên sức mạnh của trí tuệ nhân tạo (AI) để đơn giản hoá quá trình xây dựng và nhắm mục tiêu quảng cáo. Vậy Demand Gen (Demand Generation) và Video View là gì trong Google Ads, hãy cùng MarketingTrips tìm hiểu chi tiết trong bài viết này nhé.

Google giới thiệu Demand Gen và Video View: Giải pháp quảng cáo dựa trên AI mới
Google giới thiệu Demand Gen và Video View: Giải pháp quảng cáo dựa trên AI mới

Theo đó, các tuỳ chọn quảng cáo mới của Google Ads là Demand GenVideo View thông qua sức mạnh của AI sẽ cho phép nhà quảng cáo xây dựng các chiến dịch quảng cáo và nhắm mục tiêu quảng cáo (Targeting) một cách đơn giản hơn.

Các chiến dịch quảng cáo Google Ads Demand Gen cho phép các thương hiệu tối đa hóa việc sử dụng nội dung video và hình ảnh bằng cách chuyển chúng sang các định dạng quảng cáo khác nhau của Google, nhằm tối đa hóa phạm vi tiếp cận và thu hút các nhóm người dùng khác nhau.

Các định dạng quảng cáo khác nhau của Google có thể sử dụng từ Demand Gen.
Các định dạng quảng cáo khác nhau của Google có thể sử dụng từ Demand Gen.

Google Ads Demand Gen (Demand Generation) là gì?

“Với Google Ads Demand Gen, những nội dung (tài sản quảng cáo) hình ảnh và video hoạt động tốt nhất của thương hiệu sẽ được tích hợp trên hầu hết các điểm tiếp xúc với người dùng vốn tập trung vào yếu tố giải trí và trực quan nhất như YouTube, YouTube Shorts, Khám phá (Discover) và Gmail. Những sản phẩm này tiếp cận hơn 3 tỷ người dùng hàng tháng.”

Quy trình xây dựng chiến dịch quảng cáo với Demand Gen.
Quy trình xây dựng chiến dịch quảng cáo với Demand Gen.

Demand Gen cho phép người làm marketing quản lý các chiến dịch trên từng nền tảng, trong đó các yếu tố trong quảng cáo được sử dụng lại phù hợp với từng nền tảng (định dạng nội dung và quảng cáo).

Sau đó, marketer có thể nhắm mục tiêu quảng cáo bằng cách sử dụng AI của Google hoặc các phân khúc đối tượng tương tự (Lookalike Segments) trên danh sách đối tượng hiện có.

Bên cạnh giới thiệu Demand Gen, Google cũng sẽ ra mắt các chiến dịch quảng cáo Google Ads Video View mới, chiến dịch này sẽ cho phép các thương hiệu tối đa hóa số lượt xem từ các video phát trực tuyến (live-stream), trong nguồn cấp dữ liệu (feed) và cả từ YouTube Shorts, tất cả đều có trong một chiến dịch duy nhất.

“Trong thử nghiệm ban đầu, các chiến dịch Video View đã đạt được số lượt xem trung bình nhiều hơn 40% so với các chiến dịch tính phí trên từng lượt xem (cost-per-view).”

Về bản chất, các tuỳ chọn quảng cáo mới của Google cũng tương tự Facebook sẽ hướng đến việc đơn giản hoá quá trình nhắm mục tiêu quảng cáo, xây dựng quảng cáo thông qua AI, nhà quảng cáo giờ đây chỉ cần quan tâm đến yếu tố sáng tạo đầu vào, chất lượng sản phẩm hay ra quyết định dựa trên các kết quả có được.

Ngoài các giải pháp quảng cáo mới, Google cũng đang tìm cách cải thiện trải nghiệm mua sắm trực tuyến bằng AI tổng hợp mới được sử dụng để thử quần áo.

Theo Google:

“Việc thử quần áo trên môi trường ảo cho phép người dùng quan sát thực tế các mẫu khác nhau với các kích cỡ hay màu sắc khác nhau khi được mặc lên người.”

“Bắt đầu từ hôm nay, người mua sắm ở Mỹ hầu như có thể thử áo của phụ nữ từ các thương hiệu trên Google, bao gồm Anthropologie, Everlane, H&M và LOFT.”

Cuối cùng, Google cũng đã thêm các bộ lọc mới vào công cụ tìm kiếm cho phép người dùng thêm các điều kiện hay yêu cầu bổ dung khi tìm kiếm sản phẩm như: giá bán, màu sắc, các mẫu ưa thích…

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer

Nam Nguyen | MarketingTrips

YouTube có thể cấm người dùng xem video nếu họ chặn quảng cáo

Tính năng đang thử nghiệm mới của YouTube sẽ cấm người dùng xem video nếu phát hiện người dùng sử dụng app chặn quảng cáo.

YouTube có thể cấm người dùng xem video nếu họ chặn quảng cáo
YouTube có thể cấm người dùng xem video nếu họ chặn quảng cáo

Trên diễn đàn Reddit, thành viên Reddit_n_Me chia sẻ ảnh chụp thông báo của YouTube trên máy tính, cảnh cáo khả năng phát video trên nền tảng sẽ bị khóa nếu người này xem 3 video trong lúc bật công cụ chặn quảng cáo.

“Có vẻ bạn đang sử dụng công cụ chặn quảng cáo. Tính năng phát video sẽ bị chặn trừ khi YouTube được đưa vào danh sách ngoại lệ, hoặc tắt trình chặn quảng cáo“, thông báo trong ảnh chụp cho thấy.

Dựa trên hình ảnh, người dùng có 2 tùy chọn: cho phép quảng cáo hiển thị trên YouTube hoặc dùng thử YouTube Premium, gói dịch vụ trả tiền để loại bỏ quảng cáo.

Theo WinFuture, nhiều khả năng Google đang thử nghiệm áp dụng chính sách này cho nhóm nhỏ người dùng. Một câu hỏi khác là cách phát hiện người dùng chặn quảng cáo, cũng như phản ứng của nhà phát triển app chặn quảng cáo.

Bên dưới phần bình luận, nhiều thành viên bày tỏ phản đối nếu tính năng này được áp dụng rộng rãi. Một số ý kiến chấp nhận xem quảng cáo giữa video, nhưng chỉ phù hợp nếu quảng cáo ngắn và thời lượng video không quá dài.

Quảng cáo đã xuất hiện trên YouTube từ khá lâu. Chính sách này giúp tăng doanh thu và trả tiền cho nhà sáng tạo nội dung, góp phần giúp người dùng xem video miễn phí.

Ngày 17/5, YouTube cho biết sẽ sớm thêm quảng cáo “không thể bỏ qua” với độ dài 30 giây, dành cho nhóm nội dung nổi bật. Điều này không có nghĩa những quảng cáo ngắn hơn sẽ biến mất hoàn toàn.

Việc YouTube ngày càng lạm dụng quảng cáo khi nâng thời lượng, tần suất xuất hiện khiến nhiều người không hài lòng. Trong khi đó, tình trạng quảng cáo lừa đảo, nội dung sai sự thật được giải quyết khá chậm.

Theo Android Authority, nhiều người tìm cách bỏ qua quảng cáo bằng cách sử dụng app xem video của bên thứ ba, cài công cụ chặn quảng cáo hoặc trả tiền để mua YouTube Premium.

Google chưa đưa ra bình luận về hình ảnh trên. Tuy nhiên, hãng từng áp dụng một số biện pháp xử lý chặn quảng cáo, bao gồm buộc các app như YouTube Vanced ngừng hoạt động.

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer

Hà Anh  | MarketingTrips   

Baidu tuyên bố chatbot của mình tốt hơn ChatGPT của OpenAI

Baidu cho biết chatbot Ernie của họ đã vượt qua ChatGPT trong trong các bài kiểm tra đầu vào đại học, cấp bằng luật sư.

Baidu tuyên bố chatbot của mình tốt hơn ChatGPT của OpenAI
Baidu tuyên bố chatbot của mình tốt hơn ChatGPT của OpenAI

Ngày 27/6, trang chủ Baidu dẫn kết quả nghiên cứu được công bố trên tạp chí China Science Daily rằng mô hình AI tổng quát Ernie 3.5 dùng cho chatbot Ernie đã tăng khả năng suy luận lên gấp 17 so với bản tiền nhiệm 3.0.

Với nâng cấp này, Ernie vượt qua ChatGPT của OpenAI trong một số bài kiểm tra điểm chuẩn. Cụ thể, cả hai cùng thi các bài kiểm tra tuyển sinh đầu vào đại học và điều kiện để cấp bằng luật sư. AI của Baidu đều có thành tích tốt hơn đối thủ.

Tuy nhiên, đây đều là những bài kiểm tra bằng tiếng Trung. Khi chuyển sang tiếng Anh, chatbot của Trung Quốc lại thua siêu AI của phương Tây.

Trong bài kiểm tra AGIEval do Microsoft phát hành bằng tiếng Trung với hơn 13.000 câu hỏi trắc nghiệm thuộc 50 chủ đề khác nhau, Ernie 3.5 được 64,37 điểm trong khi ChatGPT được 40,27 điểm. Nhưng khi chuyển sang đề tiếng Anh, mô hình của OpenAI được 66,55 điểm còn AI của Baidu được 50,59 điểm.

Tiến sĩ Haifeng Wang, Giám đốc công nghệ của Baidu, cho biết, những cải tiến này cho thấy Ernie đã đạt được tiến bộ đáng kinh ngạc trong việc sáng tạo, hỏi đáp, suy luận cũng như viết mã.

“Bản nâng cấp sẽ tăng tốc đáng kể những cải tiến tiếp theo của mô hình Ernie 3.5. Siêu AI có thể giảm đáng kể chi phí đào tạo, sử dụng trong khi có thể nâng cao trải nghiệm người dùng”.

Ông Wang cho biết, để cải thiện hiệu năng của chatbot, đội ngũ kỹ sư đã dùng mô hình đào tạo song song, kết hợp dữ liệu điện toán có độ chính xác cao và mở rộng bằng plugin (phần mềm bổ trợ). Cùng với nguồn dữ liệu được tối ưu hóa, đội ngũ của Wang nói Ernie không chỉ thông minh hơn mà còn an toàn với người dùng.

“Ernie 3.5 còn có thêm một kỹ thuật gọi là cải tiến đoạn mã kiến thức. Mô hình này giúp phân tích các truy vấn của người dùng rồi xác định những nội dung có liên quan. Từ đó sử dụng biểu đồ tri thức và công cụ tìm kiếm để cho ra câu trả lời tương ứng cho người dùng”, ông Wang giải thích.

Thuật toán này giúp cải thiện khả năng hiểu biết của chatbot và tận dụng được kho tàng tri thức khổng lồ có sẵn trên Internet. Ngoài ra Ernie còn tăng khả năng logic, tính toán, học mã thông qua mô hình dữ liệu logic quy mô lớn.

Baidu cho biết, trong tương lai, siêu AI của họ sẽ tích hợp thêm nhiều plugin như Baidu Search – tìm kiếm thông tin theo thời gian thực, ChatFile – tóm tắt văn bản và hỏi đáp. Mô hình lắp ghép này cho phép Erine có được nhiều plugin chất lượng cao bên thứ ba.

Theo CNBC, những bước tiền của Ernie cho thấy AI của Baidu đã vươn lên dẫn đầu ở Trung Quốc chỉ sau 3 tháng ra mắt, vượt qua trí tuệ nhân tạo của Alibaba.

Ernie lần đầu được giới thiệu ngày 16/3, được mệnh danh là “ChatGPT của Trung Quốc”. Nhưng khi đó, Baidu khiến công chúng thất vọng vì màn trình diễn của CEO Robin Li chỉ có những câu hỏi và nội dung được chuẩn bị sẵn. Cùng lúc đó, đối thủ OpenAI đã nâng cấp lên GPT-4 và được Microsoft tích hợp vào công cụ tìm kiếm Bing cùng nhiều sản phẩm khác.

Khi đó, Reuters dẫn lời hai nhân viên Baidu cho biết hãng công nghệ Trung Quốc đã phải vật lộn để bắt kịp OpenAI và tinh chỉnh Ernie. “Chúng tôi chỉ có thể tự mình nghiên cứu. OpenAI mất hơn một năm để đào tạo ChatGPT và cần thêm một năm nữa cho GPT-4. Có nghĩa là Baidu đã chậm hai năm”, một nhân viên nói.

Tuy nhiên chỉ ba tháng sau bản thử nghiệm đầu tiên, Baidu cho thấy những bước phát triển đáng kể của Ernie. CNBC đánh giá nỗ lực nghiêm túc của Baidu khắc họa rõ nét cuộc cạnh tranh khốc liệt trên mặt trận AI giữa Trung Quốc và Mỹ.

Khương Nha (theo CNBC)

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer

Ngành quảng cáo và làn sóng AI (trí tuệ nhân tạo)

Ngành marketingquảng cáo từ lâu đã dựa vào trí tuệ nhân tạo (AI) để tối ưu hóa các chiến dịch quảng cáo nhưng sự bùng nổ gần đây của AI (trí tuệ nhân tạo) đang làm biến đổi nhiều khía cạnh về sáng tạo mới.

Ngành quảng cáo và làn sóng AI (trí tuệ nhân tạo)
Ngành quảng cáo và làn sóng AI (trí tuệ nhân tạo)

Các công ty quảng cáo thường có xu hướng mở rộng quy mô theo sự phát triển chung của công nghệ. Như Brian Wieser, một nhà phân tích quảng cáo, gần đây đã chia sẻ, số lượng nhân sự tại các công ty quảng cáo lớn đã tăng khoảng 80% từ năm 2012 đến năm 2022 bất chấp sự gia tăng của các công nghệ tự động hoá tiếp thị (Marketing Automation) đã giúp phần nào tối ưu hoá quy trình.

WPP, tập đoàn quảng cáo lớn nhất thế giới gần đây đã công bố một thỏa thuận với công ty chip AI hàng đầu NVIDIA. Các nhân viên sáng tạo của WPP sẽ có khả năng tích hợp việc sáng tạo nội dung 3D với AI để tăng tính cá nhân hoá của nội dung quảng cáo.

Code and Theory, một công ty thiết kế thuộc sở hữu của Stagwell, đã đạt được một thoả thuận AI tương tự với Oracle vào đầu tháng này.

Trong khi đó, Publicis vào tuần trước đã mua lại toàn bộ cổ phần của Publicis Sapient AI Labs, một liên doanh mà họ đồng thành lập vào năm 2020, để “tăng tốc” các dịch vụ AI của mình.

Omnicom mặt khác cũng đang hợp tác với Microsoft để thử nghiệm các cách tích hợp AI vào các giải pháp kinh doanh và sáng tạo của mình.

Ngày nay, hoạt động marketing có sử dụng AI chiếm gần một nửa (45%) tổng số quảng cáo trên toàn cầu, theo GroupM, một công ty quảng cáo thuộc WPP. Đến năm 2032, AI sẽ ảnh hưởng đến 90% tổng doanh thu quảng cáo với hơn 1300 tỷ USD.

Phần lớn quá trình chuyển đổi sáng tạo của quảng cáo sẽ bắt nguồn từ khả năng xây dựng các hình ảnh và video độc đáo bằng cách sử dụng những mô tả chi tiết đầu vào (tương tự như cách tương tác với ChatGPT), thay vì chỉ duyệt qua thư viện lưu trữ có sẵn.

Các công cụ AI sáng tạo cũng sẽ cho phép marketer thử nghiệm nhiều loại quảng cáo hơn để đo lường hiệu quả. Những cơ hội này sẽ đòi hỏi người làm marketing và quảng cáo phải phát triển những kỹ năng mới nhiều hơn nữa.

John Wren, chủ tịch và CEO của Omnicom Group, cho biết trong một cuộc gọi với nhà đầu tư vào tháng trước: “Về lâu dài, tôi nghĩ rằng những nhân viên sáng tạo của chúng tôi – đội ngũ mà tôi gọi là những người lao động tri thức – sẽ thấy công việc của mình được nâng cao nhiều hơn.”

Các công ty quảng cáo lớn nhất thế giới đang thúc đẩy những thay đổi này một cách nhanh chóng bằng cách giới thiệu các giải pháp sáng tạo mới cho các nhà quảng cáo.

Google tuần trước cũng đã ra mắt một công cụ AI mới cho phép người làm marketing cá nhân hóa các quảng cáo mua sắm.

Meta đã công bố một loạt các tính năng sáng tạo dựa trên AI vào đầu tháng này, bao gồm một tính năng cho phép marketer tạo hình nền cho quảng cáo bằng văn bản.

Snapchat cho biết vào đầu tháng 5 rằng họ đang thử nghiệm các liên kết được tài trợ trong quảng cáo, được phát triển bởi AI.

Dan Gardner, chủ tịch điều hành và đồng sáng lập của Code and Theory, cho biết: “Thông thường, khi sự thay đổi diễn ra – dù đó là sự thay đổi lớn về công nghệ hay phương tiện truyền thông mạng xã hội hay thậm chí khi nền kinh tế thay đổi – đó thường là điều tốt cho những công ty thuộc các lĩnh vực liên quan.”

Các công ty quảng cáo có thể sẽ đảm nhận vai trò lớn hơn trong việc tuân thủ, trách nhiệm giải trình và đo lường hiệu quả.

“Các nhà quảng cáo vẫn chịu trách nhiệm về nội dung quảng cáo của họ”, Phó Giám đốc Quảng cáo của Google Dan Taylor nói với Axios vào tuần trước khi thảo luận về các tính năng AI mới của Google.

Ông nói thêm rằng các quảng cáo do AI tạo ra sẽ “đều phải trải qua tất cả các kiểm tra về chính sách và bản quyền của chúng tôi”, nghĩa là sẽ có nhiều quảng cáo cần được kiểm tra, lọc và tính toán.

“Mặc dù khó có thể dự đoán tương lai một cách chính xác, tôi cho rằng miễn là những người có liên quan đưa ra các quyết định một cách sáng suốt, các công ty quảng cáo vẫn sẽ thu về được những kết quả tích cực,” Wieser lưu ý.

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer

Theo Quân Bảo | DĐDN

LinkedIn thử nghiệm cơ hội kiếm tiền cho nhà sáng tạo

Theo thông báo mới đây, mạng xã hội chuyên nghiệp LinkedIn hiện đang thử nghiệm các tính năng mới cho phép nhà sáng tạo kiếm tiền trên nền tảng.

LinkedIn thử nghiệm cơ hội kiếm tiền cho nhà sáng tạo
LinkedIn thử nghiệm cơ hội kiếm tiền cho nhà sáng tạo

Không chỉ được biết đến với tư cách là nền tảng mạng xã hội việc làm hoặc mạng xã hội chuyên nghiệp, LinkedIn hiện cũng đang tập trung nhiều hơn vào việc hỗ trợ các nhà sáng tạo nội dung số trên nền tảng.

Theo đó, theo thông báo mới đây, LinkedIn sẽ cung cấp cơ hội kiếm tiền cho những người dùng sử dụng chế độ nhà sáng tạo (Creator Mode), tuỳ chọn cho phép nhà sáng tạo hợp tác với thương hiệu trong các chiến dịch quảng cáo.

Để giúp thương hiệu theo dõi được hiệu suất của các chiến dịch, LinkedIn cũng sẽ cung cấp tuỳ chọn để nhà sáng tạo chia sẻ dữ liệu phân tích với doanh nghiệp.

Về bản chất, tính năng mới của LinkedIn vừa một mặt giúp các nhà sáng tạo hay người có ảnh hưởng (Influencer) kiếm thêm thu thập tương tự như các nền tảng khác, mặt khác có thể giúp thương hiệu thúc đẩy chiến dịch theo cách “thân thiện” hơn với những nội dung do người dùng tạo ra (User-generated Content).

Creator Mode hay chế độ nhà sáng tạo của LinkedIn hiện đã có sẵn cho tất cả người dùng LinkedIn có từ 150 kết nối (connections) trở lên và thường xuyên chia sẻ nội dung gốc.

Ở một khía cạnh khác, trong tương lai gần, LinkedIn cũng có thể xây dựng chương trình chia sẻ doanh thu quảng cáo như cách mà YouTube hay TikTok đang làm.

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer

Hà Anh  | MarketingTrips   

Tối ưu chiến lược định giá động trong thương mại điện tử

Tối ưu hóa giá cả thương mại điện tử hay còn gọi là định giá động, là một chiến lược định giá mà bất cứ đơn vị nào đang vận hành các cửa hàng trực tuyến đều cần biết và triển khai.

chiến lược định giá động
Tối ưu chiến lược định giá động trong thương mại điện tử

Tối ưu hóa giá cả thương mại điện tử (e-commerce price optimization), đôi khi được gọi là định giá động (dynamic pricing) là hành động trong đó người bán hàng cố gắng đưa ra mức giá tốt nhất cho sản phẩm dựa trên nhu cầu của thị trường.

Đây là một quá trình chủ động, người bán phải nắm rõ giá cả của mình chênh lệch ra sao với đối thủ, từ đó tối ưu giá bán, sao cho vừa bán được hàng nhiều vừa giữ biên lợi nhuận ổn định.

Chiến lược định giá động trái ngược với mô hình chiến lược định giá truyền thống. Bởi theo cách truyền thống, các bên bán sẽ đặt ra một tỷ suất lợi nhuận nhất định dựa trên giá vốn, để rồi đưa ra giá bán cố định, không có bất kỳ điều chỉnh nào.

Về mặt lý thuyết, quá trình tối ưu hóa giá cả trên thương mại điện tử (eCommerce) có thể được thực hiện thủ công. Tuy nhiên trên thực tế, trong một thế giới mà người mua có quá nhiều sự lựa chọn và ngày càng hiểu biết về công nghệ, thì các bên bán cũng cần áp dụng công nghệ để có thể tối ưu hóa giá cả trên quy mô lớn.

Hay nói một cách dễ hiểu hơn, muốn đi theo chiến lược định giá động, thì bên bán cần tiến hành phân tích đối thủ và nhu cầu thị trường.

Việc này thậm chí phải diễn ra từng ngày, từng tuần, với khối lượng sản phẩm lên đến hàng trăm, hàng nghìn. Do đó làm thủ công mà vẫn đạt được hiệu quả là việc bất khả thi.

Cách hoạt động của các ứng dụng tối ưu hóa giá cả trên các nền tảng bán hàng trực tuyến.

Hiện nay có nhiều phần mềm hỗ trợ tối ưu hóa giá cả cho người bán, chẳng hạn Prisync, Price2Spy, Vendavo, Omnia Dynamic Pricing, hoặc Sku Grid. Có phần mềm hoạt động tốt tùy theo nền tảng bán hàng, chẳng hạn Amazon, WooCommerce, Shopify, v.v., có cái lại tùy theo mô hình kinh doanh hoặc sản phẩm của người bán.

Đa số các phần mềm đều sử dụng trí tuệ nhân tạo (AI) hoặc máy học (Machine Learning) để theo dõi biến động giá hằng ngày. Từ các thông tin này, người bán có thể đưa ra quyết định điều chỉnh giá phù hợp.

Chẳng hạn nếu phần mềm cho thấy các đối thủ đều đang tăng giá cho một sản phẩm nhất định nào đó, thì đó là tín hiệu tốt để người bán làm theo. Nếu không, thì rất có thể người bán đang bán rẻ hơn giá hiện tại của thị trường (Market), phần nào đó ảnh hưởng đến biên lợi nhuận.

Một số ứng dụng khác hoạt động theo kiểu mỗi ngày đều tính lại giá cho mỗi sản phẩm. Dĩ nhiên giá này phải thỏa mãn theo các tiêu chí dữ liệu đầu vào.

Chẳng hạn người bán sử dụng phần mềm, thiết lập các chỉ số mong muốn như giá phải thấp hơn 5% so với giá thấp nhất đến từ các đối thủ, đồng thời phải giữ được 10% lợi nhuận. Khi đó phần mềm sẽ tổng hợp dữ liệu, đưa ra giá cả phù hợp và tự động thay đổi giá trên các cửa hàng online.

Rủi ro của chiến lược định giá động.

Khi áp dụng chiến thuật theo dõi giá cả của đối thủ cạnh tranh, các nhà bán có thể tự tay cắt đi lợi nhuận của mình, khi mà bên nào cũng mải mê giảm giá để thu hút người mua.

Cần nhớ là trong chiến lược này, có hai điều quan trọng mà các doanh nghiệp phải biết cách cân bằng, đó là giá cả cạnh tranh và lợi nhuận.

Theo các chuyên gia, các bên bán không cần phải áp dụng chiến lược định giá động cho tất cả mặt hàng, vì nhu cầu mỗi hàng hóa là khác nhau.

Chẳng hạn người tiêu dùng sẽ muốn mua iPhone với giá tốt nhất, nhưng họ có thể chọn mua cáp sạc hoặc các phụ kiện khác với giá không phải rẻ nhất.

Do đó, điều quan trọng là người bán phải xác định được đâu là mặt hàng chủ lực của mình trên thị trường. Khi đó, họ có thể bán các mặt hàng này theo kiểu cạnh tranh giá, còn những mặt hàng khác thì có thể bán theo chiến lược giá truyền thống.

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer

Theo Quân Bảo | DĐDN

Nike từ bỏ chiến lược D2C sau nhiều năm trung thành

Trong 6 năm qua, Nike cắt đứt quan hệ với nhiều đối tác bán lẻ trung gian và tập trung vào mô hình bán trực tiếp đến người tiêu dùng D2C (Direct to Consumer). Giờ đây, thương hiệu bắt đầu quay lại hàn gắn với những đối tác này khi D2C bộc lộ nhiều điểm yếu.

Nike từ bỏ chiến lược D2C sau nhiều năm trung thành
Nike từ bỏ chiến lược D2C sau nhiều năm trung thành

Mới đây nhất, Designer Brands, công ty mẹ của hãng bán lẻ DSW, thông báo sẽ bắt đầu bán dụng cụ thể thao thương hiệu Nike từ tháng 10. Quay trở lại quá khứ gần hai năm về trước, mối làm ăn giữa Nike và Designer Brands chấm dứt khi Nike quyết định không phân phối hàng hóa đến DSW nữa.

Không chỉ DSW, đầu tháng này Macy’s cũng thông báo hàng hóa Nike sẽ quay trở lại các cửa hàng Macy’s trong mùa thu. Hiện tại Macy’s chỉ bán giày Nike, nhưng sau này danh mục hàng hóa sẽ mở rộng hơn, từ quần áo cho đến phụ kiện, bán cả online lẫn những cửa hàng chủ chốt.

Macy’s và DSW chắc hẳn đều rất vui mừng khi Nike quay trở lại với họ. Lý do cũng chẳng có gì bất ngờ, vì hàng hóa của Nike luôn chiếm doanh số rất lớn. Chẳng hạn trong năm 2020, 7% doanh số của DSW đến từ thương hiệu Nike. Nike quay lại, đồng nghĩa với doanh thu cũng quay lại.

Điều ngạc nhiên là vì sao Nike lại quay lưng với chiến lược “tiếp cận khách hàng trực tiếp” mà họ từng thông báo và thực thi từ năm 2017. Trong chiến lược này, Nike cắt đứt quan hệ hợp tác với hàng chục đơn vị bán lẻ.

Thay vào đó, họ tập trung xây dựng mô hình bán trực tiếp đến khách hàng (D2C), chỉ hợp tác với một số ít đối tác bán lẻ chủ chốt như Dick’s Sporting Goods (DKS) và Foot Locker (FL). Tính đến 9/2021, Nike ngừng hợp tác với khoảng 50% đối tác bán lẻ.

Mọi chuyện tưởng chừng như sẽ tiếp diễn theo cách đó. Nhưng đến tháng 3 năm nay, trong cuộc họp với nhà đầu tư, CEO John Donahoe tuyên bố bán buôn “vẫn sẽ là một phần quan trọng trong chiến lược” của Nike.

Nguyên nhân khiến Nike từ bỏ chiến lược D2C.

Nhà phân tích Robert Drbul của quỹ đầu tư Guggenheim cho biết sự thay đổi về chiến lược có thể đến từ việc Nike đang cố thích nghi với một môi trường kinh tế vĩ mô “biến động và không ổn định”, trong đó người tiêu dùng đang dần giảm chi tiêu.

Theo ông, trong tình thế đó, cộng với việc phân khúc thời trang và giày thể thao vốn dĩ rất cạnh tranh và phân mảnh, thì việc ưu tiên kết nối với những nhà bán buôn là điều dễ hiểu. Về cổ phiếu của Nike, ông Drbul xếp hạng “Nên mua” (Buy), nhưng ông giảm giá từ 145 USD xuống còn 135 USD.

Nhà phân tích Abbie Zvejnieks của Piper Sandler cũng đưa ra nhận định tương tự. Ông cho rằng Nike nối lại quan hệ với DSW và Macy’s, đồng thời dần từ bỏ chiến lược D2C là vì Nike đang dần mất thị phần trong một số phân loại hàng hóa, chẳng hạn trẻ em. Ông đánh giá cổ phiếu của Nike ở mức “Trung bình” (Neutral) với mức giá 112 USD.

Đối với tương lai của hướng đi này, ông Drbul cho rằng mặc dù doanh số bán buôn của Nike trong quý gần đây nhất tăng 18%, thì sang năm sau mọi chuyện có thể không ổn định như vậy. Ông dự đoán doanh số bán buôn có thể giảm 6% trong năm tài chính 2024.

Còn ông Zvejnieks cho rằng các khó khăn trong mảng bán buôn sẽ kéo dài đến hết nửa sau của năm, dài hơn những gì được dự đoán trước đó.

Về phía Nike, họ dự kiến doanh số bán buôn sẽ tăng trưởng ở mức trung bình trong vài quý tới.

Nike sẽ có buổi báo cáo thu nhập quý 4 vào cuối tháng 6. Tại đây, các nhà đầu tư sẽ có thêm một số thông tin về chiến lược bán buôn của công ty.

Kết thúc năm 2022, doanh thu toàn cầu của Nike là hơn 46 tỷ USD.

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer

 

Theo Quân Bảo | DĐDN

Vốn hoá của Apple sắp chạm ngưỡng 3000 tỷ USD và dự báo đạt 4000 tỷ vào 2025

Đóng cửa phiên giao dịch ngày 28/6, vốn hóa thị trường của Apple đạt khoảng 2.980 tỷ USD. Trước đó, vốn hóa của công ty này lần đầu chạm ngưỡng 3.000 tỷ USD vào tháng 1/2022.

Vốn hoá của Apple sắp chạm ngưỡng 3000 tỷ USD và dự báo đạt 4000 tỷ vào 2025
Vốn hoá của Apple sắp chạm ngưỡng 3000 tỷ USD và dự báo đạt 4000 tỷ vào 2025

Trong một báo cáo mới công bố ngày 28/6, các nhà phân tích của công ty môi giới và quản lý tài sản Wedbush nhận định cổ phiếu Apple sẽ sớm vượt qua mức vốn hóa 3.000 tỷ USD trong năm 2023 này và có thể đạt tới 4.000 tỷ USD trong vào năm 2025.

Đóng cửa phiên giao dịch ngày 28/6, giá cổ phiếu Apple tăng 1,5% lên hơn 188 USD/cổ phiếu, kéo dài đà tăng từ đầu năm nay và đưa vốn hóa của nhà sản xuất iPhone lên khoảng 2.980 tỷ USD.

Chỉ cần mã này tăng thêm 1,4% nữa và duy trì ở mức đó, Apple sẽ trở thành công ty niêm yết đầu tiên tại Mỹ đạt vốn hóa 3.000 tỷ USD khi chốt phiên. Trước đó, vốn hóa của Apple lần đầu chạm ngưỡng 3.000 tỷ USD trong phiên giao dịch ngày 3/1/2022.

“Cổ phiếu Apple có thể còn tăng thêm nữa”, các nhà phân tích của Wedbush nhận định và ước tính mức định giá hợp lý của công ty này là 3.500 tỷ USD. “Theo kịch bản thị trường giá lên, Apple có thể cán mốc vốn hóa 4.000 tỷ USD vào năm 2025”.

Theo các nhà phân tích của Wedbush, lý do chính cho nhận định lạc quan đó là mảng kinh doanh dịch vụ của Apple. Nhóm này ước tính mảng dịch vụ của Apple có thể đạt doanh thu 100 tỷ USD vào năm 2024, tăng từ 50 tỷ USD của năm 2020.

“Chỉ riêng tiềm năng doanh thu từ dịch vụ cũng giúp mang về vốn hóa 1.400 tỷ USD”, báo cáo của Wedbush viết.

Trong khi đó, iPhone 15 sắp ra mắt có thể cũng được hưởng lợi khi mà khoảng 25% người dùng trung thành của Apple vẫn chưa nâng cấp điện thoại iPhone của họ trong 4 năm qua.

“Chúng tôi cho rằng Phố Wall đã đánh giá thấp cơ hội từ việc người dùng Apple nâng cấp điện thoại lên iPhone 15 với khoảng 25% khách hàng trung thành của hãng chưa nâng cấp iPhone trong vòng 4 năm qua”, nhà phân tích Daniel Ives của Wedbush nói trong báo cáo.

Ngoài hai “cơn gió xuôi” nói trên, Apple cũng có tiềm năng tích hợp trí tuệ nhân tạo (AI) vào cửa hàng ứng dụng Vision Pro App store – một lợi thế lớn so với các đối thủ, theo nhận định của các nhà phân tích Wedbush.

“Những người đặt cược rằng cổ phiếu Apple sẽ giảm cũng như những người vẫn còn hoài nghi đang tiếp tục vò đầu bứt tai bởi nhiều người từng gọi Apple là ‘câu chuyện tăng trưởng bị phá vỡ’ của năm nay.

Trong khi chúng tôi tin chắc rằng điều ngược lại sẽ xảy ra”, các nhà phân tích của Wedbush nói và tin rằng nhà sản xuất iPhone sẽ “phục hồi tăng trưởng” trong vòng 1-1,5 năm tới.

Không chỉ nhóm phân tích của Wedbush, nhiều chiến lược gia Phố Wall cũng có quan điểm lạc quan rằng giá cổ phiếu Apple sẽ tăng mạnh tronng thời gian tới. Fairlead Strategies cũng đưa ra mức giá mục tiêu cho cổ phiếu này tương tự như Wedbush, đồng thời dự báo Apple sẽ đạt vốn hóa 4.000 tỷ USD trong dài hạn.

Theo dữ liệu từ Dow Jones Market Data, tính từ ngày niêm yết, Apple đã mất 7.874 phiên giao dịch để đạt vốn hóa 500 tỷ USD vào ngày 29/2/2012.

Từ đó, công ty cần thêm 1.617 phiên giao dịch nữa để cán mốc vốn hóa 1.000 tỷ USD vào ngày 2/8/2018. Sau đó, Apple chỉ mất 466 phiên để tiến lên vốn hóa 1.500 tỷ USD và thêm 50 phiên để đạt 2.00 tỷ USD.

258 phiên giao dịch sau đó, vốn hóa (Market Cap) của Apple đạt 2.500 tỷ USD. Tuy nhiên, để chinh phục mốc 3.000 tỷ USD đang cần nhiều thời gian hơn bởi từ mốc 2.500 tỷ USD đến nay đã là 447 phiên.

Từ đầu năm đến nay, giá cổ phiếu Apple đã tăng khoảng 46%, nằm trong xu hướng tăng của các mã cổ phiếu Big Tech như Nvidia Corp. (tăng 183%), Meta Platforms (tăng 137%), Amazon (tăng 54%), Microsoft (tăng 40%) và Alphabet (tăng 36%).

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer

Hà Anh  | MarketingTrips   

Predictive Targeting: Microsoft giới thiệu công cụ quảng cáo dựa trên AI mới

Microsoft Advertising vừa tiết lộ công cụ quảng cáo dựa trên AI (trí tuệ nhân tạo) mới, cho phép nhà quảng cáo nhắm mục tiêu quảng cáo (Ad Targeting) theo hướng dự báo (Predictive Targeting).

Predictive Targeting
Predictive Targeting: Microsoft giới thiệu công cụ quảng cáo dựa trên AI mới

Theo đó, Microsoft vừa thông báo ra mắt tính năng nhắm mục tiêu quảng cáo theo hướng dự báo Predictive Targeting, một công cụ quảng cáo dựa trên AI mới.

Predictive Targeting sẽ dựa vào công nghệ máy học (machine learning) để giúp các nhà quảng cáo tiếp cận các nhóm đối tượng tiềm năng mới với khả năng thúc đẩy tỷ lệ chuyển đổi cao hơn.

Predictive Targeting của Microsoft có thể giúp tìm các nhóm đối tượng tiềm năng.

Predictive Targeting của Microsoft có thể giúp tìm các nhóm đối tượng tiềm năng.
Predictive Targeting của Microsoft có thể giúp tìm các nhóm đối tượng tiềm năng.

Predictive Targeting (một hình thức Targeting) sẽ phân tích các tín hiệu từ quảng cáo và trang đích (Landing Page) hiện tại của nhà quảng cáo cũng như dữ liệu đối tượng của Microsoft để xác định các tập đối tượng tiềm năng mới.

Công cụ này cũng tự động nhắm mục tiêu quảng cáo đến những đối tượng có nhiều khả năng chuyển đổi nhất mà không yêu cầu nhà quảng cáo phải xây dựng chiến lược nhắm mục tiêu theo đối tượng bằng cách thủ công.

Tiết kiệm thời gian & Tăng hiệu quả.

Microsoft cho biết Predictive Targeting có thể tăng tỷ lệ chuyển đổi của nhà quảng cáo lên trung bình 46% trong khi quy trình nhắm mục tiêu quảng cáo cũng trở nên dễ dàng và thuận tiện hơn.

Các nhà quảng cáo giờ đây không còn phải dành nhiều thời gian nghiên cứu để xác định đối tượng mục tiêu của thương hiệu, thay vào đó có thể dựa vào các thuật toán của Microsoft để tìm kiếm các giải pháp mới hiệu quả hơn nhiều.

ROI và ROAS của chiến dịch cũng được chứng minh là cao hơn nhiều.

Predictive Targeting có thể được sử dụng linh hoạt cho các nhu cầu khác nhau.

Tính năng Predictive Targeting có thể được sử dụng độc lập hoặc kết hợp với các chiến lược nhắm mục tiêu theo đối tượng hiện tại của nhà quảng cáo.

Khi được sử dụng độc lập, công cụ có chức năng tìm kiếm các giải pháp toàn diện để khám phá và tiếp cận các nhóm đối tượng phù hợp.

Khi được sử dụng kết hợp, nó có thể giúp nhà quảng cáo mở rộng phạm vi tiếp cận và tìm kiếm những khách hàng tiềm năng (Lead) mới bên ngoài các nhóm đối tượng hiện có.

Kích hoạt tính năng nhắm mục tiêu mới.

Predictive Targeting hiện sẽ là phương pháp nhắm mục tiêu quảng cáo mặc định với hình thức Quảng cáo theo đối tượng (Audience Ads).

Nhà quảng cáo chỉ cần kích hoạt công cụ và sau đó các thuật toán của Microsoft sẽ bắt đầu quá trình tìm kiếm các nhóm đối tượng phù hợp.

Nhà quảng cáo cũng có thể tắt tính năng nhắm mục tiêu mới này và xác định đối tượng bằng cách thủ công trước đó.

Microsoft khuyến nghị các nhà quảng cáo nên sử dụng các nội dung quảng cáo hấp dẫn với khách hàng mục tiêu, đặt giá thầu tự động, mở rộng phạm vi tiếp cận cho các nhóm quảng cáo và liên tục quan sát hiệu suất của chiến dịch.

Theo Microsoft, Predictive Targeting hay khả năng nhắm mục tiêu quảng cáo theo hướng dự báo sẽ là tương lai của hoạt động quảng cáo được nhắm mục tiêu.

Bạn có thể tìm hiểu thêm về công cụ quảng cáo dựa trên AI của Microsoft tại: Microsoft Ads.

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer

Nam Nguyen | MarketingTrips

Điều ít biết đằng sau thương hiệu Bánh kẹo Hải Hà

Hai cổ đông lớn của Bánh kẹo Hải Hà là bà Trương Thị Bửu và ông Lưu Văn Vũ đều có mối liên hệ với bà Lưu Thị Tuyết Mai (SN 1965), cũng được biết đến là người sáng lập Mesa Group – tập đoàn đa ngành hoạt động trong các lĩnh vực phân phối bán lẻ, nhà hàng, ẩm thực, bất động sản, viễn thông…

Điều ít biết về thương hiệu Bánh kẹo Hải Hà
Điều ít biết về thương hiệu Bánh kẹo Hải Hà

Người Mesa Group tại Bánh kẹo Hải Hà.

Vào tháng 2.2018, sự xuất hiện của bà Lưu Thị Tuyết Mai (SN 1965) – người sáng lập Mesa Group và các cộng sự của mình tại Công ty cổ phần (CTCP) Bánh kẹo Hải Hà (HNX: HHC) đã giúp ổn định sóng gió ở thượng tầng công ty bánh kẹo này sau 1 năm Vinataba thoái vốn (tháng 3.2017).

Bà Lưu Thị Tuyết Mai thành lập Mesa Group vào năm 1995, tập đoàn này đã phát triển thành một tập đoàn đa ngành, nổi tiếng là nhà phân phối P&G lớn nhất tại Việt Nam. Mesa Group cũng là đơn vị đi đầu trong việc nhượng quyền các thương hiệu lớn…

Ngoài ra, bà Tuyết Mai đã 2 lần được Forbes Việt Nam chọn vào top 50 người phụ nữ có ảnh hưởng nhất Việt Nam (năm 2017 và năm 2019).

Cũng là chủ của thương hiệu mì tôm lâu đời Colusa-Miliket và Lương thực Vĩnh Hà.

Hiện nay, bà Mai đang nắm giữ đến 82,186% cổ phần Công ty TNHH Dịch vụ và thương mại Mesa; đảm nhiệm vai trò Chủ tịch HĐQT Công ty Cổ phần Thạnh Mỹ Lợi; Thành viên HĐQT CTCP Xây dựng và Chế biến Lương thực Vĩnh Hà (UpCOM: VHF), Chủ tịch HĐQT Công ty Cổ phần Thực phẩm Colusa-Miliket (UpCOM: CMN)…

Sau 6 năm Vinataba thoái vốn khỏi HHC, “người” Mesa Group hiện nay đang nắm giữ nhiều chức vụ quan trọng trong ban lãnh đạo tại Bánh kẹo Hải Hà.

Thông tin từ Nghị quyết Đại hội đồng cổ đông năm 2023 của Bánh Kẹo Hải Hà cho biết, danh sách HĐQT công ty hiện nay bao gồm Chủ tịch HĐQT là ông Hoàng Hùng, các thành viên là ông Tăng Minh Vương, bà Nguyễn Thị Phúc Lộc, bà Đỗ Thị Hồng Thuỷ và ông Lê Mạnh Linh.

Trong đó, ông Hoàng Hùng từng đảm nhiệm vai trò Quản lý đầu tư tài chính tại CTCP Thạnh Mỹ Lợi, Trưởng ban kiểm soát CTCP lương thực thực phẩm Colusa-Miliket; Bà Nguyễn Thị Phúc Lộc từng đảm nhiệm nhiều chức vụ như Giám đốc kinh doanh Công ty TNHH Dịch vụ và thương mại Mesa; bà Đỗ Thị Hồng Thuỷ còn là trưởng phòng hành chính pháp lý Công ty TNHH Dịch vụ và thương mại Mesa..

Thắng lớn sau 5 năm đầu tư cổ phiếu HHC.

Không chỉ người Mesa Group chắc chân tại Bánh kẹo Hải Hà, người nhà bà Lưu Thị Tuyết Mai cũng đang lãi đậm với khoản đầu tư vào HHC sau 6 năm.

Kết thúc phiên giao dịch ngày 27.6.2023, thị giá cổ phiếu HHC của CTCP Bánh kẹo Hải Hà đạt 104.000 đồng/cổ phiếu.

Được biết, danh sách cổ đông lớn tại Bánh kẹo Hải Hà hiện nay bao gồm ông Lưu Văn Vũ và bà Trương Thị Bửu khi mỗi người đang sở hữu 3.942.000 cổ phiếu (tương ứng 24% vốn điều lệ). Với thị giá hiện tại, ước tính số tiền mà ông Lưu Văn Vũ và bà Trương Thị Bửu đang nắm giữ từ cổ phiếu HHC là gần 410 tỉ đồng.

Trước đó, vào ngày 29.5.2017, ông Vũ và bà Bửu đã lần lượt mua vào 3.942.000 cổ phiếu HHC, qua đó nâng tỉ lệ sở hữu tại HHC từ 0% lên 24%.

Tại ngày 29.5.2017, giá trị thị trường HHC giao dịch ở mức 50.000 đồng/cổ phiếu, tương ứng với số tiền ông Lưu Văn Vũ và bà Trương Thị Bửu đã chi ra khoảng 197 tỉ đồng. Như vậy, sau 5 năm đầu tư vào HHC, hai cá nhân nói trên đang thu lãi gấp đôi số tiền đã bỏ ra.

Được biết, bà Trương Thị Bửu và ông Lưu Văn Vũ đều có mối liên hệ với bà Lưu Thị Tuyết Mai. Cụ thể, bà Bửu có cùng địa chỉ đăng ký với ông Lưu Văn Thọ, 2 cá nhân này cùng đứng tên nhiều tài sản hiện đang được sử dụng để thế chấp tại các ngân hàng.

Trong khi đó, theo báo cáo quản trị Bánh kẹo Hải Hà năm 2018, cả ông Lưu Văn Thọ và ông Lưu Văn Vũ đều là người nhà, có liên quan đến bà Lưu Thị Tuyết Mai.

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer

Hà Anh  | MarketingTrips

Trung Quốc theo đuổi AI và Metaverse bằng hạ tầng mạng 5G

Thế hệ mạng 5G tiếp theo sẽ hướng đến phục vụ các ứng dụng tích hợp trí tuệ nhân tạo (AI) và vũ trụ ảo (metaverse) – những công nghệ đang là xu hướng hiện nay.

Trung Quốc theo đuổi AI và Metaverse bằng hạ tầng mạng 5G
Trung Quốc theo đuổi AI và Metaverse bằng hạ tầng mạng 5G

Mạng 5G thương mại chính thức triển khai tại Trung Quốc từ năm 2019 thông qua 4 nhà mạng di động chính. Sau 4 năm phát triển, Bắc Kinh đang hướng đến công nghệ 5G nâng cấp (thường gọi 5.5G) với ưu điểm tiêu thụ năng lượng thấp hơn, tăng cường khả năng điện toán và hỗ trợ tốt cho ứng dụng trí tuệ nhân tạo, metaverse.

Thượng Hải, một trong những thành phố phát triển nhất ở Trung Quốc, cũng có kế hoạch thúc đẩy ngành công nghiệp metaverse vượt mốc 6,94 tỉ USD vào năm 2025.

Thành phố đang nghiên cứu chiến lược “Shanghai Format” tập trung vào 5G, AI, metaverse và tăng cường trải nghiệm xe tự hành, theo ông Wang Tianguang – Cục trưởng Cục Truyền thông Thượng Hải.

Tính đến tháng 3.2023, Trung Quốc có gần 2,85 triệu trạm 5G trên cả nước, chiếm 25,3% tổng số trạm thu phát sóng tại đây và có hơn 43% dữ liệu truy cập internet từ di động trên nền tảng 5G. Cuối tháng 5.2023, số người dùng di động sử dụng 5G ở quốc gia tỉ dân đạt 651 triệu, tương đương 38,1% lượng thuê bao di động.

Tại diễn đàn thảo luận về phát triển công nghệ mạng 5G do Huawei tổ chức ở Thượng Hải (Trung Quốc) ngày 27.6 trước thềm sự kiện MWC Shanghai (diễn ra ngày 28.6 tại Thượng Hải), đại diện China Mobile – nhà mạng lớn nhất Trung Quốc cho biết mạng 5.5G sẽ có các ứng dụng mới như AI, metaverse cũng như đi sâu vào hỗ trợ đa ngành công nghiệp hơn, không chỉ dừng lại ở công nghệ mạng phục vụ viễn thông.

Ông Li Huidi, Phó chủ tịch điều hành China Mobile xem mạng 5.5G là công nghệ mạng di động không dây “AI thông minh, tích hợp đám mây, ít phát thải carbon và hiệu quả” trong tương lai.

Các ứng dụng trên nền tảng 5G đã bao phủ hơn 60% lĩnh vực công nghiệp khác nhau liên quan đến quá trình phát triển kinh tế quốc gia, trong đó có thể kể đến như internet phục vụ công nghiệp, thành phố thông minh, tiêu thụ thông tin, an ninh công cộng, dầu khí, năng lượng thông minh, giáo dục, y tế, nông nghiệp, kho vận, khai khoáng…

Là cơ sở hạ tầng mới đầu tiên hỗ trợ sự phát triển của nền kinh tế kỹ thuật số, 5G đã được triển khai nhanh hơn bất kỳ thế hệ công nghệ truyền thông di động nào trước đây kể từ khi được sử dụng thương mại trong bốn năm qua, trở thành một động lực mạnh mẽ cho sự phát triển của nền kinh tế số.

Ông Cao Ming, Chủ tịch bộ phận sản phẩm mạng không dây của Huawei cho biết 5G đã thay đổi cuộc sống và công việc của tất cả mọi người, trở thành một động lực quan trọng cho sự phát triển của nền kinh tế số, cho phép các nhà khai thác đạt được thành công trong kinh doanh.

Vị lãnh đạo đánh giá 5G giúp nâng cao trải nghiệm cá nhân đồng thời thúc đẩy quá trình tiêu thụ dữ liệu, tăng doanh thu trung bình trên mỗi khách hàng (ARPU).

Lấy ví dụ tại Thái Lan, ông Cao Ming cho biết trung bình một người dùng tại đây dùng 30 GB dữ liệu với ARPU là 15 USD khi sử dụng mạng 4G/LTE, nhưng chuyển sang mạng 5G, con số trên tăng lần lượt là 50 GB và 17 USD, tương đương mức tăng trưởng gần gấp đôi về mặt dữ liệu sử dụng và khoảng 15% thêm đối với ARPU.

“Mạng 5G sẽ bước vào một giai đoạn mới của sự phát triển nâng cấp và hội tụ ngành. Ba đến năm năm tới sẽ là giai đoạn quan trọng đối với việc mở rộng các ứng dụng 5G ở Trung Quốc và thậm chí trên toàn thế giới.

Phát triển mạng 5G đang đối mặt với những cơ hội và nhiệm vụ chiến lược mới, cần được chia sẻ bởi tất cả các bên trong ngành.

Chúng tôi sẽ thúc đẩy đổi mới và khám phá ứng dụng toàn cầu, thúc đẩy sự trưởng thành của các ngành công nghiệp và hệ sinh thái mới, xây dựng sự thịnh vượng của hệ sinh thái 5G”, ông Cao Ming phát biểu.

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer

Hà Anh  | MarketingTrips

Thuật toán LinkedIn: Đây là cách LinkedIn đánh giá bài đăng

Cũng tương tự như bất kỳ nền tảng mạng xã hội nào khác, LinkedIn cũng thường xuyên cập nhật mới thuật toán để phù hợp với bối cảnh mới, cùng MarketingTrips khám phá những thay đổi trong thuật toán của LinkedIn trong bài viết này.

Thuật toán LinkedIn
LinkedIn thay đổi thuật toán: Đây là cách LinkedIn đánh giá bài đăng

Để mở đầu cho những cập nhật thuật toán mới của LinkedIn, Dan Roth, người đứng đầu bộ phận biên tập của LinkedIn cho biết: “Khi mọi thứ trở nên lan truyền (Viral) trên LinkedIn, đó thường là dấu hiệu cho chúng tôi biết rằng chúng tôi cần xem xét lại cách chúng tôi phân phối nội dung trên nền tảng.”

Với các thuật toán được cập nhật mới, trong khi có một số nội dung sẽ được ưu tiên hơn, một số nội dung khác sẽ có ít cơ hội được hiển thị hơn, thậm chí là được liệt kê vào nhóm nội dung vi phạm.

Một số nội dung về thuật toán mới của LinkedIn sẽ được MarketingTrips đề cập trong bài bai gồm:

  • Những thay đổi lớn trong nguồn cấp dữ liệu (News Feed) của LinkedIn.
  • Làm thế nào bài đăng của doanh nghiệp hay nhà sáng tạo có thể được chú ý nhiều hơn.
  • Tại sao thuật toán của LinkedIn lại tìm cách hạn chế các kiểu nội dung lan truyền.
  • Những ưu tiên mới trong thuật toán đề xuất và phân phối nội dung của LinkedIn.

Bên dưới là nội dung chi tiết.

Thuật toán mới của LinkedIn đang tìm cách giải quyết vấn đề gì?

Về tổng thể, lượng người dùng của mạng xã hội LinkedIn vẫn không ngừng tăng trưởng trong những năm gần đây. Lượng nội dung được chia sẻ tăng 42% mỗi năm, nội dung được xem tăng 27% và hiện cứ mỗi 1 giây có 3 người dùng đăng ký mới ứng dụng.

Trong suốt thời kỳ đại dịch, các bài đăng trên LinkedIn của mọi người trở nên cá nhân hơn nhiều. Thay vì các bài đăng chỉ nói về công việc hay chuyện công sở như trước kia, các nội dung giờ đây bao gồm cả về nhà cửa, quan điểm sống, hình ảnh gia đình, cuộc sống cá nhân và hơn thế nữa.

Bên cạnh đó, không ít người dùng hiện đang tìm cách để đánh lừa thuật toán với mục tiêu có nhiều lượt thích (Like) hơn, nhiều người theo dõi (Follower) hơn hay có nhiều tương tác hơn với các bài đăng hơn.

Như là điều tất yếu, người người dùng chuyên nghiệp trên LinkedIn đang phàn nàn về cách họ trải nghiệm nền tảng, họ muốn LinkedIn là LinkeIn trước kia, là nền tảng thiên về yếu tố chuyên môn, công việc, mạng lưới chia sẻ của các chuyên gia, học tập kỹ năng và hơn thế nữa.

Đứng trước bối cảnh này, LinkedIn đang tìm cách thay đổi thuật toán của mình nhiều hơn, thay vì ưu tiên các nội dung “có vẻ được lan truyền”, LinkeIn tập trung vào tính hữu ích và chuyên nghiệp vốn có.

Thuật toán của LinkedIn sẽ hướng đến những thay đổi trên nguồn cấp dữ liệu (News Feed).

1. Nếu bạn đăng bài trên LinkedIn, những người theo dõi bạn sẽ có nhiều khả năng hơn để thấy bài đăng của bạn.

Theo LinkedIn, người dùng LinkedIn cho biết rằng họ thấy có giá trị nhất khi nội dung được đăng dựa trên kiến thức và lời khuyên, và họ cũng thấy nó có giá trị nhất khi nội dung đó đến từ những người họ biết và quan tâm.

2. Các bài đăng chia sẻ “kiến thức và lời khuyên” sẽ được ưu tiên nhiều hơn trên toàn nền tảng.

Thuật toán mới của LinkedIn hiện đang đánh giá liệu một bài đăng nào đó có chứa kiến thức và lời khuyên hay không, sau đó nền tảng sẽ ưu tiên hiển thị bài đăng đó cho những người dùng khác muốn tìm kiếm những thông tin phù hợp và hữu ích.

Mục tiêu chính của LinkedIn không phải là “đẩy” các bài đăng có nhiều tương tác, thay vào đó sẽ hướng tới việc giúp các thành viên trên nền tảng làm việc hiệu quả hơn và thành công hơn từ những kiến thức và thông tin có giá trị.

‘Kiến thức và lời khuyên’ là kim chỉ nam trong thuật toán mới của LinkedIn.

Được xem là điểm mới trong thuật toán, đây là điều khiến LinkedIn khác biệt với các nền tảng mạng xã hội khác, nếu thuật toán của TikTok về bản chất là ưu tiên các nội dung có nhiều tương tác (nhiều view), LinkedIn là hướng đến yếu tố giá trị và kiến thức.

Một câu hỏi được đặt ra là, làm thế nào LinkedIn có thể xác định được một bài đăng nào đó là có chứa kiến thức và lời khuyên hay làm thế nào để kiểm chứng các kiến thức và lời khuyên đó là có tính xác thực.

Trong khi LinkedIn không đưa ra chính xác cách hệ thống đánh giá và phân phối nội dung (cũng tương tự như cách Google nói về thuật toán xếp hạng trên trang kết quả tìm kiếm, mọi thứ chưa bao giờ là rõ ràng), dưới đây là một số điểm chính mà LinkedIn sử dụng:

1. Bài đăng hướng đến một nhóm đối tượng độc giả riêng biệt.

Theo giải thích của LinkedIn, sẽ khó có một loại nội dung nào là phù hợp với tất cả mọi người, với từng bài đăng nhất định, hệ thống của LinkedIn sẽ đánh giá xem nội dung có trong bài đăng thực sự liên quan đến ai?

Nếu bạn đăng về hình ảnh gia đình, có thể nó chỉ hợp với những người thân quen của bạn, họ hàng hay người thân của bạn. Hoặc nếu bạn đăng về Marketing, tất cả những ai quan tâm đến marketing đều có thể được tiếp cận.

Lời khuyên dành cho những nhà sáng tạo nội dung hay thương hiệu là, hãy nghĩ xem bạn có thể cung cấp loại kiến thức nào để giúp đỡ mọi người. Đó là cách bạn có thể tự giúp nội dung của mình được đẩy đi và tiếp cận đúng đối tượng.

2. Ai là tác giả của các bài đăng.

Khi bạn đăng nội dung nào đó lên LinkedIn, thuật toán của LinkedIn hiện không chỉ đánh giá giá trị hay nội dung của các bài đăng của bạn.

Nó cũng sẽ đánh giá cả những người viết ra nó, liệu bạn có phải là người có chuyên môn hay sự uy tín về các chủ đề bạn viết hay không?

Nếu bạn không phải là một chuyên gia về tuyển dụng, vậy điều gì sẽ xảy ra nếu bạn đăng trên LinkedIn về cách trở thành một nhà tuyển dụng thành công? Rõ ràng người dùng của LinkedIn không có bất cứ cơ sở nào để có thể tin tưởng về những nội dung từ người này.

3. Bài đăng có “những bình luận có ý nghĩa.”

Trước đây, thuật toán của LinkedIn sẽ ưu tiên cho các bài đăng có nhiều bình luận (số lượng tương tác). Kết quả là, một số người dùng đã lợi dụng điều này để bài đăng của họ được đẩy đi xa hơn, được “Viral” hơn.

Cũng chính bởi vậy, LinkedIn hiện sẽ tìm cách để ngăn chặn điều này trên nền tảng.

Giờ đây, LinkedIn sẽ ưu tiên cho những bài đăng nhận được cái mà nền tảng gọi là “những bình luận có ý nghĩa”. Điều này có nghĩa là mọi bình luận kiểu “tuyệt vời!” hoặc “rất đúng!” sẽ trở nên vô giá trị — thay vào đó nội dung được viết trong bình luận mới là yếu tố đóng vai trò chính.

LinkedIn cũng đang đánh giá xem những người bình luận này là ai, họ là những tài khoản mới, có ít kết nối (connections) hay là những chuyên gia trong các lĩnh vực cụ thể nào đó.

Bạn cứ hình dung thế này, nếu dưới một bài đăng về chủ đề quảng cáo, việc nhiều bình luận đến từ các chuyên gia trong ngành quảng cáo sẽ là một dấu hiệu tích cực để thuật toán đánh giá.

Việc người đăng bài thường xuyên trả lời các nhận xét về bài đăng của họ cũng là một dấu hiệu tích cực và có thể khiến bài đăng được chú ý nhiều hơn.

4. Thuật toán của LinkedIn cũng sẽ ưu tiên các bài đăng có chứa một góc nhìn hay nhận thức mới mẻ.

LinkedIn hiện đang sử dụng trí tuệ nhân tạo (AI) để phân loại các bài đăng thành các danh mục khác nhau — chẳng hạn như bao gồm việc liệu bài đăng đó có chứa ý kiến và/hoặc lời khuyên hữu ích hay không.

Liệu nó đang cung cấp những thông tin chung chung vốn đã xuất hiện nhiều nơi hay là đưa ra những góc nhìn mới mẻ về một chủ đề nào đó, kèm với đó là những bài học hay lời khuyên có giá trị.

Nếu bạn đăng một tấm hình quảng cáo cũ, LinkedIn sẽ hiển thị nó cho ít người hơn. Nhưng nếu bạn đính kèm với nó là những chia sẻ mới đầy thú vị, mọi thứ có thể sẽ khác.

Về bản chất, LinkedIn thực sự đang đánh giá cao khả năng tự do sáng tạo và yếu tố cá tính (nhân cách) của người dùng.

LinkedIn có quan điểm như thế nào về cái gọi là bài đăng chất lượng?

Với hầu hết những người dùng mạng xã hội (bao gồm cả cá nhân và tổ chức), họ đa phần muốn có nhiều lượt thích và theo dõi hơn, nhiều tương tác hơn. Họ coi đó là một công cụ để xây dựng thương hiệu và thúc đẩy hiệu suất kinh doanh.

Tuy nhiên, LinkedIn lại muốn người dùng nghĩ khác đi. Thay vì phải tiếp cận nhiều người, bạn nên tập trung vào đúng người và đúng giá trị.

Đó cũng là lý do chính tại sao, hệ thống hay thuật toán của LinkedIn sẽ không ưu tiên cho cái gọi là “lan truyền” hay cả việc ưu tiên cho các bài đăng có nhiều lượt tương tác.

LinkedIn muốn người dùng xem đây là nơi họ có thể được học thêm nhiều thứ mới, thiết lập những mối quan hệ chuyên nghiệp hơn là các cuộc trò chuyện cá nhân hay “đánh bóng tên tuổi” từ các lượt tương tác vốn không mang lại nhiều ý nghĩa đích thực.

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer

Nam Nguyen | MarketingTrips

Eddie Yong: CEO mới của đế chế Alibaba là ai?

Eddie Yong, Chủ tịch Taobao và Tmall sẽ tiếp quản vị trí CEO của Alibaba từ ngày 10/9, là một ẩn số ngay cả đối với một số nhân viên lâu năm của tập đoàn.

Eddie Yong: CEO mới của Alibaba là ai?
Eddie Yong: CEO mới của Alibaba là ai?

Theo đó, Joseph Tsai, từng giữ vị trí Phó chủ tịch điều hành Alibaba, sẽ trở thành Chủ tịch. Trong khi đó, vị trí Giám đốc điều hành sẽ do Eddie Yong, cựu Giám đốc điều hành thương mại điện tử đảm nhiệm.

Eddie Yong có tên trong danh sách những người đồng sáng lập Alibaba, nhưng lại là một nhân vật bí ẩn ngay cả đối với một số nhân viên lâu năm của gã khổng lồ thương mại điện tử Trung Quốc.

CEO mới của Alibaba được xem là bản sao của cựu Chủ tịch Jack Ma.

Theo Bloomberg, việc bổ nhiệm Eddie Yong thay thế Daniel Zhang khiến những người trong cuộc ngạc nhiên, mặc dù kỹ sư khoa học máy tính 48 tuổi này đã làm việc với Jack Ma từ những ngày đầu tiên của Alibaba.

Thậm chí, các nhân viên cho biết họ đã phải sử dụng mạng nội bộ của công ty và các hồ sơ công khai khác để tìm hiểu thêm về vị sếp mới có vẻ ngoài điềm tĩnh này.

Khi Yong tự thành lập công ty cách đây 8 năm, ông cũng chưa từng rời xa tầm mắt của Jack Ma. Văn phòng quỹ đầu tư của Yong tại trung tâm Hàng Châu chỉ cách nơi Jack Ma tập thái cực quyền vài bước chân.

Bên cạnh đó, Yong hiện giữ chức Chủ tịch Taobao và Tmall, hai công ty nằm trong hệ sinh thái của Alibaba. “Jack và Eddie có mối quan hệ thân thiết và đáng tin cậy”, một cựu giám đốc Alibaba tiết lộ với Financial Times.

Giờ đây, gần 2 thập kỷ sau khi thành lập Alibaba, Yong đứng trước bài toán khó về sựu phân tách của đế chế công nghệ mà ông cùng với Jack Ma và 16 người khác đã xây dựng.

Alibaba đang ở thế phải đánh cược bằng cách thu hẹp quy mô và quay trở lại với thương mại điện tử. Mục tiêu của gã khổng lồ này không gì khác ngoài lấy lại thị phần đã bị các nền tảng trực tuyến mới nổi như Pinduoduo và Douyin của ByteDance chiếm lĩnh.

Mới đây, Alibaba đã công bố kế hoạch tái cấu trúc toàn bộ công ty. Trọng tâm của quá trình tái cấu trúc này là chia tách đế chế trị giá 220 tỷ USD thành 6 công ty phụ trách các mảng kinh doanh riêng biệt, bao gồm thương mại điện tử, truyền thông và đám mây…

Trong đó, mỗi đơn vị sẽ lên kế hoạch huy động vốn hoặc IPO vào thời điểm thích hợp.

Theo nguồn tin của Financial Times, Jack Ma tuy không có vị trí chính thức tại Alibaba nhưng vẫn sẽ là người tham gia vào kế hoạch này.

“Eddie và Jack Ma thực sự là mối quan hệ cộng sinh. Eddie ngưỡng mộ những ý tưởng, triết lý của Jack Ma và cũng rất xuất sắc trong việc thực hiện tầm nhìn người thầy của mình”, một nhân viên lâu năm của Alibaba cho biết.

Tác giả Duncan Clark của cuốn Alibaba: The House That Jack Ma Built cho rằng người sáng lập Alibaba đang ở tình thế không thể trở lại công ty sau bài phát biểu hồi năm 2020.

Khi đó, tỷ phú Jack Ma chỉ trích dữ dội hệ thống tài chính Trung Quốc và gọi các ngân hàng là “tiệm cầm đồ”, bởi nhà băng đòi tài sản thế chấp thay vì sử dụng dữ liệu và công cụ công nghệ cao để đánh giá rủi ro tín dụng.

Do đó, việc chọn một người cộng sự có chung ý tưởng như Yong là điều hợp lý.

“Cha đẻ của Alipay”.

Sau khi tốt nghiệp đại học năm 1996, Yong gia nhập startup China Pages của Ma với tư cách là một trong những nhà phát triển đầu tiên của công ty chuyên về dịch vụ trên Internet này.

“Jack Ma nói với tôi về định hướng kinh doanh và tầm nhìn của ông ấy. Tôi thấy ông ấy hóm hỉnh nhưng cũng là người biết cách truyền cảm hứng, hài hước và cách ăn nói rất lôi cuốn”, Wu nói trong một cuộc phỏng vấn tại Đại học Thanh Hoa.

Tuy nhiên, Jack Ma đã đi quá sớm, giữa thời điểm mà máy tính còn là thứ kém phổ biến trong các hộ gia đình Trung Quốc. China Pages thất bại, điều này gần như có thể đoán trước, và được China Telecom mua lại.

Sau thất bại này, Ma đưa một số người trong nhóm lên Bắc Kinh để điều hành một trang web cho bộ thương mại Trung Quốc.

“Chúng tôi đã chọn các thành viên trong nhóm và Yong quyết định đi cùng với Jack. Cậu ấy rất chăm chỉ. Có thời điểm chúng tôi nhập một số máy trạm và máy chủ về nhưng toàn bộ sách hướng dẫn đều viết bằng tiếng Anh.

Kỹ năng tiếng Anh của Yong không tốt lắm, nhưng cậu ấy đã nghiên cứu kỹ những cuốn sách hướng dẫn đó, tra trong từ điển để có thể lắp ráp các mảnh lại với nhau”, He Yibing, đồng sáng lập của China Pages nhớ lại trong một cuộc phỏng vấn với Financial Times.

Sau khi Jack Ma rời Bắc Kinh, Yong là một trong 18 người đồng sáng lập có mặt ở căn hộ tại Hàng Châu vào năm 1999 để thành lập Alibaba.

Vài năm sau, Yong được Jack Ma giao cho phụ trách phát triển Alimama, một công cụ quảng cáo có nhiệm vụ kiếm tiền cho các doanh nghiệp thương mại điện tử của Alibaba. Một số nhân viên cho biết thời gian làm việc ở đó là lúc biệt danh Mama Wu ra đời.

“Một phần biệt danh này đến từ việc thành lập Alimama. Tuy nhiên, đó cũng là do Mama Wu luôn quan tâm đến chúng tôi, sửa lỗi hoặc tìm kiến ​​trúc mới. Anh ấy luôn tìm ra cách để sắp xếp nó”, một cựu thành viên trong nhóm phát triển Alimama tiết lộ.

Tên tuổi của Yong sau đó gắn liền với quá trình phát triển Taobao, biến ứng dụng này nhanh chóng trở thành một phần quan trọng trong thói quen mua sắm hàng ngày của người tiêu dùng Trung Quốc.

Sau khi Alibaba niêm yết tại New York,Yong trở thành trợ lý đặc biệt của Jack Ma. Những người thân cận với cả hai cho biết đã từng có thời gian Yong đi theo Jack Ma ở khắp mọi nơi.

Khi Alibaba ngày càng phát triển, vai trò của Yong tại gã khổng lồ thương mại điện tử cũng tăng theo. Năm 2004, ông tiếp tục gây tiếng vang với Alipay – dịch vụ thanh toán trực tuyến được mô phỏng theo PayPal thành công vang dội tại Trung Quốc.

Công nghệ này trở nên có giá đến mức vào năm 2011, Jack Ma đã tách hẳn Alipay để tạo ra nền tảng Ant Group – động thái bị các cổ đông lớn như Yahoo hay SoftBank phản đối kịch liệt vào thời điểm đó vì cho rằng tập đoàn đã mất đi một tài sản quan trọng.

“Eddie là một người trong cuộc được đánh giá cao với khả năng giao dịch đã được khẳng định. Đó có lẽ là điều mà Alibaba cần vào lúc này.

Wu có thể sẽ đảm nhận vai trò mới mà không gặp bất kỳ xáo trộn nào, nhưng nên nhớ ông ấy cũng là một kiểu CEO dè dặt hơn so với Jack Ma huyền thoại”, Brock Silvers, giám đốc đầu tư của Kaiyuan Capital nhận xét.

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer

Hà Anh  | MarketingTrips   

YouTube thử nghiệm tính năng A/B Testing cho Thumbnail trong YouTube Studio

Theo thông báo mới đây, YouTube hiện đang thử nghiệm tính năng A/B Testing (thử nghiệm đa biến) cho Thumbnail trong YouTube Studio.

YouTube thử nghiệm tính năng A/B Testing cho Thumbnail trong YouTube Studio
YouTube thử nghiệm tính năng A/B Testing cho Thumbnail trong YouTube Studio

Theo đó, YouTube đang triển khai thử nghiệm mới cho phép các thương hiệu hay nhà sáng tạo nội dung chạy A/B Testing (thử nghiệm đa biến để xem biến nào hiệu quả hơn) với các Thumbnail (Hình ảnh thu nhỏ) để từ đó có thể xác định xem Thumbnail nào mang lại hiệu suất cao nhất cho kênh.

Thumbnail là gì trên YouTube.

Thumbnail hay còn được viết tắt là Thumb trong tiếng Việt có thể được hiểu theo nghĩa là Hình ảnh thu nhỏ hoặc Ảnh thu nhỏ.

Thumbnail hay hình ảnh thu nhỏ được hiểu đơn giản là các hình ảnh đại diện với kích thước nhỏ hơn (trong nhiều trường hợp cũng có độ phân giải nhỏ hơn so với ảnh gốc) được sử dụng với mục tiêu là cho người dùng xem trước nội dung trước khi họ quyết định có nhấp vào xem chi tiết nội dung đó hay không.

Trong hầu hết các trường hợp, đi kèm với thumbnail là các liên kết (hyperlink) giúp điều hướng người dùng tới những nội dung đầy đủ và chi tiết hơn.

Các thumbnail cũng thường được lưu trữ và sử dụng trong một phần riêng biệt so với những nội dung đầy đủ mà người dùng có thể xem sau khi nhấp vào liên kết.

Tối ưu hoá Thumbnail với tính năng A/B Testing trong YouTube Studio.

Hiện đã có sẵn trong YouTube Studio, tính năng mới cho phép nhà sáng tạo và thương hiệu so sánh hiệu suất của tối đa 3 thumbnail với nhau để từ đó chọn ra thumbnail mang lại nhiều tương tác hay lượt xem hơn.

Trong khi nội dung, mức độ phổ biến và chất lượng kênh mới là yếu tố quyết định lượng người xem (view) và đăng ký (subscriber), các hình ảnh thu nhỏ hay thumbnail cũng đóng vai trò khá quan trọng.

Ngay cả với YouTuber có nhiều người đăng ký nhất thế giới là Mr Beast gần đây cũng chia sẻ về việc đang thử nghiệm tính năng này.

YouTube cho biết hiện nền tảng chỉ đang thử nghiệm với một số nhà sáng tạo được chọn và sẽ sớm mở rộng tới nhiều nhà sáng tạo hơn trong những tháng tới.

“Sau quá trình nhận được yêu cầu từ nhiều nhà sáng tạo khác nhau trên nền tảng, chúng tôi đã chính thức bắt đầu thử nghiệm tính năng A/B Testing cho các Thumbnail. Với tính năng mới, bạn sẽ có nhiều cách hơn để tối ưu hoá hiệu suất hay ra quyết định cho kênh của mình dựa trên dữ liệu”.

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer

 

Nam Nguyen | MarketingTrips

Chiến lược giá rẻ và sức ép lợi nhuận của các doanh nghiệp bán lẻ

Chiến lược giá rẻ trong ngắn hạn có thể giúp các đại gia bán lẻ (Retail) giành giật được thị phần nhưng sẽ phải đánh đổi bằng lợi nhuận và việc sa thải nhân viên hàng loạt. Về lâu dài, dưới sức ép độc quyền thị phần, khách hàng sẽ có thể đối mặt với tình trạng mua hàng giá cao.

Chiến lược giá rẻ và sức ép lợi nhuận của các doanh nghiệp bán lẻ
Chiến lược giá rẻ và sức ép lợi nhuận của các doanh nghiệp bán lẻ

Tháng 5, MWG dự báo doanh thu tăng 20%, thực tế chỉ tăng 4%.

Tại cuộc họp nhà đầu tư hồi tháng 5, khi công bố kết quả kinh doanh sơ bộ tháng 4/2023, lãnh đạo Thế Giới Di Động (mã MWG) cho biết trong tháng 4, nhờ chiến lược giá bán thấp, hai mảng ICT và CE (công nghệ thông tin và điện tử gia dụng) của “ông lớn” bán lẻ này đã tăng 30% so với tháng 3 trước đó.

Lãnh đạo Thế Giới Di Động dự đoán tháng 5, doanh thu của hai chuỗi bán lẻ Thế Giới Di Động và Điện Máy Xanh sẽ tăng ít nhất 20% so với tháng 4, trong bối cảnh “thị trường chung không tăng, thậm chí lùng bùng”.

Thế nhưng thực tế, theo kết quả kinh doanh tháng 5 vừa công bố, doanh thu của hai chuỗi này chỉ đạt 7.600 tỷ đồng, tăng 4% so với tháng 4 và giảm 14% so với cùng kỳ dù tháng 5 là tháng diễn ra cao điểm chương trình “Giá rẻ quá” mà Thế Giới Di Động khởi xướng (từ ngày 28/4). Tính chung 5 tháng tổng doanh thu của hai chuỗi đạt 35.000 tỷ đồng, giảm 27% so với cùng kỳ.

Báo cáo của Thế Giới Di Động cho biết, để cải thiện doanh số các sản phẩm chính (điện thoại, điện tử, điện lạnh, gia dụng) công ty đã triển khai nhiều giải pháp kích cầu mua sắm nhưng doanh số chưa cải thiện nhiều do sức mua yếu và thị trường chung chưa có tín hiệu hồi phục.

Duy chỉ có sản phẩm máy lạnh do thời tiết nắng nóng nên doanh thu tăng trưởng 100% trong tháng 5 và là ngành hàng duy nhất tăng trưởng doanh số lũy kế dương sau 5 tháng.

Đáng chú ý, dù công bố doanh thu nhưng “ông lớn” bán lẻ này tiếp tục “giấu” chỉ tiêu lợi nhuận tháng 5. Kể từ đầu năm 2023, Thế Giới Di Động đã không còn công bố chỉ tiêu lợi nhuận theo tháng, trong khi các năm trước đó đều công bố kèm doanh thu.

Theo chuyên gia trong ngành, việc Thế Giới Di Động đang giảm giá hàng loạt sản phẩm, thậm chí có sản phẩm giảm nhiều hơn mức giảm của các đơn vị khác thì lợi nhuận rất khó tăng trưởng.

Thực tế, kết quả kinh doanh quý 1 vừa qua, cho thấy, dù đã có những động thái giảm giá để kích cầu nhưng lợi nhuận sau thuế của Thế Giới Di Động vẫn giảm tới 98,5% so với cùng kỳ, chỉ đạt hơn 21 tỷ đồng, mức thấp nhất kể từ khi niêm yết (năm 2014) dù doanh thu chỉ giảm gần 26%, đạt 27.106 tỷ đồng.

Tất nhiên, diễn biến này có thể nằm trong tính toán của ban lãnh đạo của Thế Giới Di Động khi xác định mục tiêu chính năm 2023 là “tăng thị phần, nới rộng khoảng cách với các nhà bán lẻ khác trên thị trường, từ đó, tạo ra cơ hội để tiếp tục tăng trưởng doanh thu bất chấp việc tổng quy mô thị trường có thể không tăng hoặc bị thu hẹp”.

Dù vậy, mục tiêu tăng trưởng doanh thu của Thế Giới Di Động có vẻ như vẫn chưa được như kỳ vọng khi 5 tháng đầu năm tổng doanh thu thuần mới đạt 47.144 tỷ đồng, hoàn thành 35% trong mục tiêu đạt 135.000 tỷ đồng doanh thu cả năm.

Đó là chưa kể, nếu cứ tiếp tục “hy sinh lợi nhuận” để đánh chiếm thị phần thì Thế Giới Di Động dù có thể hoàn thành được mục tiêu doanh thu cả năm cũng sẽ khó để đạt chỉ tiêu lãi sau thuế 4.200 tỷ đồng.

Với FPT Retail, tình hình cũng không khá khẩm hơn khi quý 1/2023, lợi nhuận của doanh nghiệp này cũng giảm tới 98,8% so với cùng kỳ, đạt vỏn vẹn 2,07 tỷ đồng, dù doanh thu chỉ giảm 0,4% về 7.753 tỷ đồng.

Tương tự, với các chuỗi bán lẻ nhỏ hơn khi bị “cuốn” vào cuộc chiến giá rẻ cũng không còn duy trì được doanh thu và lợi nhuận như trước đây.

Trao đổi với chúng tôi, ông Nguyễn Lạc Huy, Giám đốc truyền thông CellphoneS cho biết, doanh thu sau nửa đầu năm 2023 của chuỗi bán lẻ này dự kiến chỉ duy trì được mức tăng trưởng 8% so với 2022, đây là mức thấp nhất trong nhiều năm của CellphoneS.

Đồng thời, các chỉ tiêu về lợi nhuận bị giảm sút do cạnh tranh giá, nhiều nhóm ngành hàng bán dưới giá vốn.

Thêm vào đó, trong 6 tháng đầu năm CellphoneS đã phải đóng 3 cửa hàng ở các vùng có nhiều công nhân bị mất việc như Bình Dương, Đồng Nai và chỉ mở mới 3 cửa hàng nên số lượng cửa hàng đang dừng lại ở 115.

Như vậy, có thể thấy cuộc chiến giảm giá hiện tại vẫn chưa mang lại hiệu quả kinh doanh cho các doanh nghiệp bán lẻ, có chăng đây chỉ là “chiêu” để các “ông lớn” có tiềm lực giành giật thị phần với các chuỗi bé hơn.

Lo ngại giá đẩy cao nếu tình trạng độc quyền xảy ra.

Bàn thêm về “được” và “mất” trong chiến lược giá rẻ, ông Nguyễn Lạc Huy cho rằng, trong ngắn hạn, cuộc chiến giá rẻ đang làm thay đổi kế hoạch kinh doanh của hầu hết các chuỗi bán lẻ trong ngành, dễ thấy nhất là việc đóng cửa các cửa hàng kém hiệu quả hay tạm dừng hoạt động mở mới của các chuỗi bán lẻ.

Với một số các chuỗi lớn, việc chiến giá giành giật doanh số bán hàng đang phải đánh đổi bằng việc sa thải nhân viên hàng loạt, cắt bỏ các chỉ số chất lượng dịch vụ ưu tiên doanh số hay những méo mó trong quan hệ hợp tác với các đối tác, hãng, nhà phân phối.

“Điều này về lâu dài sẽ tạo thêm động lực cho các hãng, nhà phân phối vốn đang bị o ép chịu thiệt hại tìm cách thoát ra khỏi những chuỗi bán hàng có chi phí bán hàng cao để hỗ trợ, phát triển các chuỗi bán hàng nhỏ hơn nhằm cân đối lại thị phần cũng như cán cân về quyền lực của các chuỗi”, ông Huy nhìn nhận và cho biết thêm, đây có thể sẽ là cơ hội trong thời gian tới cho các chuỗi bán hàng nhỏ hơn nếu có thể vượt qua được giai đoạn này.

Bên cạnh đó, cuộc chiến này còn đang khiến thị trường ICT và CE xuất hiện một xu hướng mới, khi các chuỗi bán lẻ đang phải thay đổi cơ cấu các mặt hàng kinh doanh, đưa thêm các mặt hàng có doanh số tốt hơn và có mức lãi biên tốt hơn…

Chẳng hạn, CellphoneS vốn trước đây chỉ tập trung bán điện thoại, máy tính, thiết bị âm thanh, nhà thông minh thì giờ đây sẽ mở rộng thêm một số ngành hàng, trong đó có nhóm ngành hàng khá lớn là gia dụng.

Hay FPT Shop từ đầu năm 2023 cũng đã đẩy mạnh mảng gia dụng, đồng thời, bắt đầu bán bổ sung hàng loạt ngành mới vào như bán mô tô, xe máy; bảo dưỡng và sửa chữa mô tô, xe máy; bán phụ tùng và các bộ phận phụ trợ của mô tô, xe máy,…

Với người lao động, theo ông Huy, cuộc chiến giá rẻ trả giá bằng việc sa thải, cắt giảm chính sách phúc lợi cho nhân viên sẽ tạo ra những hình ảnh doanh nghiệp ngày càng xấu đi trên thị trường lao động trong tương lai.

Thậm chí, cuộc chiến nếu giá kéo dài trong tình cảnh sức mua của thị trường không có dấu hiệu tăng lại sẽ gọng kìm khiến các chuỗi bán lẻ sẽ sớm phải đóng cửa các cửa hàng hoạt động không hiệu quả, doanh số thấp liên tục trong nhiều tháng.

Còn với khách hàng, trong ngắn hạn cuộc chiến giá trong tình hình kinh tế khó khăn có thể giúp khách hàng tiết kiệm được tiền khi cần mua các thiết bị công nghệ.

Nhưng mặt trái sẽ là rủi ro bị cắt giảm về chất lượng phục vụ hay chính sách bảo hành cũng như trải nghiệm mua hàng do nhiều chuỗi bán lẻ đang ưu tiên doanh số hơn là đầu tư vào nhân viên hay các hoạt động phục vụ khách hàng tốt hơn.

Thêm nữa, cuộc chiến giá dẫn tới hầu hết các nhà bán lẻ, hãng sản xuất, nhà phân phối không còn lợi nhuận để đầu tư cho các hoạt động cải tiến dịch vụ, sản phẩm.

“Trong tương lai khi chuỗi lớn đã giành được thị phần (Market Share) lớn hơn nữa, dưới sức ép độc quyền thị phần lớn, khách hàng sẽ sớm phải đối mặt với tình trạng mua hàng với giá bán cao từ các nhà bán lẻ này.

Vì suy cho cùng các doanh nghiệp này đều đặt mục tiêu một bản báo cáo kinh doanh với lợi nhuận cao và giá bán cũng như chính sách bán hàng của thị trường nằm trong tay của chuỗi bán lẻ có thị phần lớn tới ngưỡng cao hơn mức được coi là độc quyền”, ông Huy nhìn nhận.

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer

Hà Anh  | MarketingTrips

Tân Chủ tịch Alibaba Joseph Tsai: Từ mức lương 50 USD tới khối tài sản 7.8 tỷ USD

Joseph Tsai là người đồng sáng lập Tập đoàn Alibaba, được coi là “cánh tay phải” của Jack Ma và là cổ đông cá nhân lớn thứ hai tại tập đoàn thương mại điện tử khổng lồ này. 

Tân Chủ tịch Alibaba Joseph Tsai: Từ mức lương 50 USD tới khối tài sản 7.8 tỷ USD
Tân Chủ tịch Alibaba Joseph Tsai: Từ mức lương 50 USD tới khối tài sản 7.8 tỷ USD

Ngày 20/6, tập đoàn Alibaba thông báo Giám đốc điều hành kiêm Chủ tịch Daniel Zhang sẽ từ chức để tập trung vào bộ phận đám mây. Phó Chủ tịch điều hành Joseph Tsai sẽ đảm nhận vị trí Chủ tịch Alibaba từ 10/9.

Joseph Tsai là đồng sáng lập tập đoàn Alibaba, được coi là “cánh tay phải” của Jack Ma và là cổ đông cá nhân lớn thứ hai tại tập đoàn thương mại điện tử khổng lồ này.

Từ tốt nghiệp Đại học Yale.

Joseph Tsai sinh ra ở Đài Bắc (Đài Loan, Trung Quốc) vào tháng 1/1964, là con của một luật sư. Năm 13 tuổi, ông được bố mẹ gửi đến Trường Lawrenceville, một trong những học viện nội trú đắt đỏ nhất ở Mỹ.

Ông tốt nghiệp Đại học Yale với bằng cử nhân kinh tế và nghiên cứu Đông Á năm 1986. Ông tiếp tục theo học luật tại Yale. Năm 1990, ông nhận bằng của Trường Luật Yale, đồng thời vượt qua kỳ thi luật sư bang New York.

Cũng trong năm đó, Tsai làm việc trong lĩnh vực luật thuế với tư cách là cộng sự tại hãng luật Sullivan & Cromwell ở New York. Tại thành phố này, năm 1996, ông kết hôn với bà Clara Ming-Hua Wu, giám đốc điều hành American Express.

Sau đó, ông gia nhập công ty mua lại Rosecliff với tư cách là Phó chủ tịch và cố vấn chung, cuối cùng chuyển đến Hong Kong với tư cách là Giám đốc đầu tư vốn cổ phần tư nhân cho Investor AB – công ty cổ phần có trụ sở tại Stockholm do gia đình Wallenberg kiểm soát.

Ba năm sau, ông được giới thiệu với Jack Ma, người sáng lập Alibaba.com, thông qua một người bạn ở Đài Loan. Khi ấy, Jack Ma đang điều hành công ty khởi nghiệp từ căn hộ ở Hàng Châu, Trung Quốc.

Thời điểm đó, Jack Ma – người không có bất kỳ nền tảng tài chính hoặc pháp lý nào, đã đề nghị Tsai cùng xây dựng công ty mức lương 50 USD một tháng – khác xa so với mức 700.000 USD mà ông kiếm được tại Investor AB.

Jack Ma không ngờ rằng Tsai nhận công việc này mặc dù vợ ông đang mang thai. Đến năm 2000, ông đã đàm phán với các nhà đầu tư, bao gồm SoftBank, Goldman Sachs và Fidelity Investments. Ông huy động được 25 triệu USD cho Alibaba.

Trong những năm sau đó, Tsai đã nỗ lực thành lập trụ sở chính của Alibaba tại Hong Kong và niêm yết cổ phiếu công ty tại đây cũng như đàm phán cùng Yahoo với tư cách là nhà đầu tư chiến lược.

Ông cũng là người phụ trách đợt phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng (IPO) của Alibaba, đợt chào bán cổ phiếu lớn nhất trong lịch sử Mỹ.

Ngoài Alibaba.com, một sàn thương mại điện tử B2B trực tuyến, doanh nghiệp mà Tsai và Jack Ma gầy dựng còn vận hành Taobao, trang bán lẻ hàng đầu của Trung Quốc và Alipay.com, dịch vụ thanh toán trực tuyến phổ biến nhất tại quốc gia này.

Đến Tỷ phú Hong Kong.

Theo Forbes, với khối tài sản ròng trị giá 7,8 tỷ USD, Tsai hiện đang là tỷ phú giàu thứ 290 trên toàn cầu và lọt top 50 người giàu nhất Hong Kong (số liệu năm 2023).

Dữ liệu Bloomberg cho biết phần lớn tài sản của Tsai đến từ 1,4% cổ phần của ông trong Tập đoàn Alibaba. Tập đoàn này có doanh thu 853 tỷ nhân dân tệ (133 tỷ USD) và 1 tỷ khách hàng hoạt động trong năm tính đến ngày 31/3/2022, theo báo cáo thường niên của công ty.

Theo Bloomberg, tỷ phú Tsai nắm giữ 1,4% cổ phần trực tiếp và thông qua các công ty có trụ sở tại Bahamas và Quần đảo Virgin thuộc Anh.

Tsai đã mua 49% cổ phần của câu lạc bộ bóng rổ Brooklyn Nets từ tỷ phú người Nga Mikhail Prokhorov vào năm 2018. Thương vụ này định giá Nets ở mức 2,3 tỷ USD, theo báo cáo ngày 27/10/2017 của Bloomberg News.

Vào tháng 9/2019, ông đã mua 51% cổ phần còn lại của Nets và nắm toàn quyền sở hữu Barclays Center. Theo báo cáo của New York Post, Tsai đã trả 3,4 tỷ USD cho cả cổ phần và sân vận động.

Rachel Chan, phát ngôn viên của Alibaba, từ chối bình luận về sự giàu có của Tsai.

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer

Hà Anh  | MarketingTrips   

Marketer ưu tiên nhiều hơn cho Performance Marketing trong những thời điểm khó khăn

Ở những thời điểm khi nền kinh tế hết sức khó khăn như hiện tại, nhiều thương hiệu tỏ ra nhọc nhằn trong việc xác định cách thức chi tiêu marketing của họ, nên tập trung vào Performance Marketing hay Brand Marketing và hơn thế nữa.

Marketer ưu tiên nhiều hơn cho Performance Marketing trong những thời điểm khó khăn
Marketer ưu tiên nhiều hơn cho Performance Marketing trong những thời điểm khó khăn

Trong những thời điểm khó khăn như hiện tại, khi lạm phát và suy thoái vẫn còn là nỗi ám ảnh của hầu hết các doanh nghiệp, người làm kinh doanh nói chung và marketing nói riêng đang tìm cách để thích ứng với bối cảnh mới này, marketer đang ưu tiên nhiều hơn cho các hoạt động tiếp thị hiệu suất (Performance Marketing) để đối phó với những gánh nặng từ phía doanh nghiệp.

Theo số liệu mới đây của Kantar, 11,8% người làm marketing đang ưu tiên các hoạt động marketing dựa trên hiệu suất, tăng lên tương đối so với con số 8,6% của năm 2022.

Bên cạnh đó, gần một nửa (48,2%) marketer được khảo sát tin rằng các chiến dịch của họ hiện đang quá tập trung vào performance marketing thay vì là làm thương hiệu hay brand marketing.

Trong khi đó, khoảng một phần tư (25%) marketer tập trung vào cả hai tuy nhiên vẫn nghiêng về performance marketing, tăng từ 23,7% vào năm 2022.

Có nhiều lý do khác nhau khiến Marketer ngày càng ưu tiên vào Performance Marketing.

Lý do hàng đầu phải được kể đến đó là áp lực từ các nhà lãnh đạo doanh nghiệp trong việc cần phải đạt được mục tiêu kinh doanh (45,2%), tiếp theo là, các hoạt động performance marketing thường có khả năng thúc đẩy lợi nhuận ngắn hạn tốt hơn do đó khiến chủ doanh nghiệp ưu tiên hơn so với brand marketing (39,5%).

57,5% các marketer nói rằng họ đã tăng cường tập trung vào các hoạt động marketing ngắn hạn trong 12 tháng qua. Trong khi đó, 52,9% nói rằng họ đã không ngừng nâng cao khả năng xây dựng thương hiệu trong dài hạn.

Các lý do hàng đầu khác khiến performance marketing hiện đang được ưu tiên nhiều hơn đó là vì nó dễ dàng chứng minh được mức độ hiệu quả hơn (40,7%), hay đơn giản là để đánh bại khả năng cạnh tranh bán hàng trực tiếp (ngắn hạn) của đối thủ (32,7%).

Đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, áp lực từ các nhà lãnh đạo cấp cao một lần nữa là lý do hàng đầu buộc các marketer phải ưu tiên performance marketing.

Các B2B Marketer cũng đang phải chứng kiến điều này tương tự như B2C hay C2C Marketer.

Ngắn hạn và Dài hạn.

Mặc dù cả B2B và B2C Marketer đều đang ưu tiên nhiều hơn vào các hoạt động tiếp thị hiệu suất, B2B Marketer đang tập trung nhiều hơn vào việc xây dựng thương hiệu so với B2C Marketer. Trên thực tế, 18% B2B Marketer chỉ tập trung vào thương hiệu, so với chỉ 9,9% chỉ tập trung vào hiệu suất.

Ngược lại, chỉ có 13,5% B2C Marketer tập trung vào thương hiệu, trong khi có đến 13% chỉ tập trung vào hiệu suất. Đối với các thương hiệu có sự kết hợp giữa B2C và B2B, 10,9% chú ý đến thương hiệu và 12,5% chú ý hiệu suất.

Đối với các thương hiệu B2B, nhiều marketer hiện đang tập trung vào việc xây dựng thương hiệu để hỗ trợ giai đoạn phục hồi sau suy thoái.

Gần một phần ba (29,3%) các B2B Marketer cho biết họ đang sử dụng Brand Marketing để giúp đảm bảo rằng doanh nghiệp có được một vị thế tốt hơn khi môi trường kinh tế khó khăn bắt đầu giảm bớt, con số này chỉ là 25,6% đối với các thương hiệu B2C và 24,2% đối với các thương hiệu kết hợp cả hai.

Chỉ hơn một nửa (56%) nói rằng doanh nghiệp của họ hiểu nhu cầu của những nỗ lực ngắn hạn và dài hạn. Tuy nhiên, cũng có đến 23% nói rằng doanh nghiệp của họ không thấy giá trị của việc đầu tư vào cả hai, tức cả dài hạn lẫn ngắn hạn.

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer

Nam Nguyen | MarketingTrips