Skip to main content

Tác giả: Community

Thế giới di động sẽ đóng nhiều cửa hàng nữa vào cuối năm 2023

Thế Giới Di Động (MWG) cho biết sẽ tích cực tái cấu trúc trong quý IV để tối ưu chi phí, trong đó có thể đóng thêm 200 cửa hàng không hiệu quả.

Thế giới di động sẽ đóng nhiều cửa hàng nữa vào cuối năm 2023
Thế giới di động sẽ đóng nhiều cửa hàng nữa vào cuối năm 2023

Kết quả kinh doanh tháng 10 vừa được công bố của Công ty cổ phần Đầu tư Thế Giới Di Động (MWG) hé lộ việc đơn vị này sẽ cân nhắc đóng khoảng 200 cửa hàng trong những tháng cuối năm.

“Đây là những cửa hàng không hiệu quả về doanh thu và lợi nhuận. Chúng tôi sẽ theo dõi sát sao kết quả để điều chỉnh phù hợp tại từng thời điểm”, bản công bố thông tin của Thế Giới Di Động viết.

Công ty này hiện có hơn 5.600 cửa hàng, gồm 1.158 cửa hàng Thế Giới Di Động, 2.281 cửa hàng Điện Máy Xanh, hơn 1.700 siêu thị Bách Hóa Xanh và 540 nhà thuốc An Khang.

Ý định đóng bớt cửa hàng Thế Giới Di Động và Điện Máy Xanh kém hiệu quả cũng từng được Chủ tịch HĐQT Nguyễn Đức Tài đề cập trong cuộc họp với nhà đầu tư gần đây. Với tình trạng sức mua thị trường yếu và còn kéo dài, công ty cho rằng không thể duy trì những bộ phận kém hiệu quả.

“Thực tế trong thời gian qua, nhiều cửa hàng của MWG đã không đem tiền về cho công ty, khác hẳn so với hiệu suất hoạt động trước đó”, ông Tài cho biết. Tuy nhiên, ông khẳng định việc đóng bớt cửa hàng sẽ không ảnh hưởng đến doanh thu, mà chỉ “chuyển từ cửa hàng này sang cửa hàng khác”. Thêm vào đó, chi phí mặt bằng, nhân viên, điện nước được cắt giảm, giúp công ty cải thiện lợi nhuận.

Điều này, theo ông Tài, có cơ sở bởi mạng lưới điểm bán của MWG rất dày, hai cửa hàng đôi khi chỉ cách nhau vài trăm mét. MWG chỉ muốn giữ lại những bộ phận đem lại hiệu quả để dồn lực nhiều hơn. “Những bộ phận đang ‘ăn bám’ sẽ bị đá khỏi công ty”, Chủ tịch MWG nói.

Về kết quả kinh doanh, tổng doanh thu tháng 10 của hệ thống Thế Giới Di Động là 11.190 tỷ đồng, tháng đầu tiên trong năm nay tăng trưởng dương so với cùng kỳ.

Riêng hai chuỗi Thế Giới Di Động và Điện Máy Xanh, tổng doanh thu tháng 10 đạt hơn 7.800 tỷ đồng, giảm 5% so với cùng kỳ nhưng tăng 8% so với tháng 9 nhờ đóng góp của sản phẩm iPhone do hiệu ứng ra mắt sản phẩm mới. Lũy kế 10 tháng, tổng doanh thu hai chuỗi này đạt 70.200 tỷ đồng, giảm 21%.

Doanh thu lũy kế của Bách Hóa Xanh trong 10 tháng đầu năm đạt 25.300 tỷ đồng, tăng 13%. Riêng tháng 10, doanh thu chuỗi bán thực phẩm này là hơn 3.000 tỷ, tăng 29%, với thu bình quân khoảng 1,7 tỷ đồng mỗi cửa hàng.

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer

Theo VnExpress

Điều gì tạo nên một nhà lãnh đạo hiệu quả trong tổ chức (P1)

Một nhà lãnh đạo hiệu quả không nhất thiết phải là người tuân theo một khuôn mẫu hay công thức sẵn có nào đó, thay vào đó là người theo đuổi các nguyên lý nền tảng để trở thành một nhà lãnh đạo thực sự am hiểu tổ chức và dẫn dắt hiệu quả.

Điều gì tạo nên một nhà lãnh đạo hiệu quả trong tổ chức (P1)
Điều gì tạo nên một nhà lãnh đạo hiệu quả trong tổ chức (P1)

Trong thế giới VUCA, cùng với sự bất ổn của nền kinh tế, và sự phát triển nhanh chóng của các yếu tố công nghệ, một nhà điều hành hay lãnh đạo hiệu quả không nhất thiết phải là người tuân theo các công thức rập khuôn sẵn có, thậm chí họ càng tuân theo những thứ có sẵn thì họ càng đối mặt với khó khăn khi mọi thứ đã trở nên lỗi thời.

Trên thực tế, không có bất cứ một hình mẫu lý tưởng nào dùng để miêu tả một nhà lãnh đạo hiệu quả. Họ có thể là nam, có thể là nữ, có thể là người hướng nội hay cũng có thể là người hướng ngoại. Mỗi người trong số họ cũng có các điểm mạnh và điểm yếu hoàn toàn khác nhau.

Vậy điểm chung nếu có giữa họ là gì, hay nói cách khác liệu có bất cứ nguyên tắc (không phải công thức thành công) nào mang tính định hướng chung cần có hay không. Câu trả lời là có, dưới đây là 8 nguyên tắc cơ bản mà bạn có thể thực hiện nếu thực sự mong muốn đi trên con đường trở thành nhà lãnh đạo hiệu quả.

8 nguyên tắc đó bao gồm:

  • Họ hỏi: “Cần phải làm gì?”
  • Họ hỏi: “Điều gì là phù hợp với doanh nghiệp?”
  • Họ đã phát triển các kế hoạch hành động (Action Plan).
  • Họ chịu trách nhiệm với các quyết định.
  • Họ nhận trách nhiệm cho các giao tiếp.
  • Họ tập trung vào cơ hội hơn là vấn đề.
  • Họ điều hành các cuộc họp một cách hiệu quả.
  • Họ nghĩ và nói “chúng ta” hoặc “chúng tôi” thay vì “tôi”.

2 nguyên tắc đầu tiên giúp nhà lãnh đạo có được những hiểu biết và kiến thức cơ bản về tổ chức. 4 nguyên tắc tiếp theo sẽ giúp nhà lãnh đạo biến kiến thức thành các hành động hiệu quả. Và 2 nguyên tắc cuối cùng có thể đảm bảo rằng toàn bộ tổ chức hay con người trong tổ chức đều cảm thấy có trách nhiệm và chịu trách nhiệm với vai trò của mình.

Hiểu những kiến thức cơ bản.

Với tư cách là một nhà lãnh đạo hay đơn giản là người quản lý trong tổ chức, điều cơ bản đầu tiên cần có trước bất cứ quyết định nào đó là hiểu việc cần làm hay những gì cần phải hoàn thành.

Các câu hỏi như “Chúng ta cần phải làm gì”, hay “Tôi cần phải làm gì” đóng vai trò định hình lại các công việc cần phải hoàn thành với tư cách là người dẫn dắt. Việc không hỏi các câu hỏi này cũng có thể khiến ngay cả những nhà lãnh đạo giỏi nhất cũng trở nên kém hiệu quả.

Ở khía cạnh quản trị, các câu hỏi này không đơn giản chỉ là những cái gạch đầu dòng, nó còn là hành động giúp nhà lãnh đạo ổn định lại tâm trí, xác định lại chính xác các mục tiêu chiến lược và hơn thế nữa.

Tập trung vào những gì thực sự hiệu quả và đáng đầu tư rõ ràng là thứ đầu tiên quyết định sự thành công của bất kì doanh nghiệp nào.

Một khi đã xác định được các công việc cần làm, một nhà lãnh đạo hiệu quả sẽ tiếp tục đặt ra các ưu tiên và bám sát vào chúng.

Đối với một CEO, nhiệm vụ ưu tiên có thể là xác định lại sứ mệnh của doanh nghiệp (hoặc thương hiệu). Đối với người đứng đầu các bộ phận, nó có thể là việc xác định lại mối quan hệ giữa sự thành công của đội nhóm hay các thành viên trong đội nhóm với sự thành công của tổ chức.

Sau khi hoàn thành một ưu tiên, nhà lãnh đạo hiệu quả sẽ đặt lại các ưu tiên thay vì chuyển sang nhiệm vụ khác. Các câu hỏi như “Bây giờ cần phải làm gì?” thường có thể giúp nhà lãnh đạo đi đến những ưu tiên mới và khác biệt.

Với câu hỏi thứ hai “Điều gì là phù hợp với doanh nghiệp?”, nhà lãnh đạo đang để cho các công sự của mình phân tích, đề xuất và lựa chọn các giải pháp tối ưu nhất cho doanh nghiệp. Vì tất cả các nhân viên và phòng ban trong doanh nghiệp đều có chung một mục đích cuối cùng, “điều gì” phù hợp với tổ chức hay doanh nghiệp có nghĩa là phù hợp với họ hay bất cứ bên liên quan nào khác bao gồm cả khách hàng hay đối tác.

Như đã phân tích ở trên, trong khi sẽ không có bất cứ một khuôn mẫu nào cho một nhà lãnh đạo thành công, hay việc đưa ra câu hỏi “Điều gì là phù hợp với doanh nghiệp?” cũng không đảm bảo chắc chắn rằng các hành động và quyết định sau đó sẽ mang lại giá trị cao, tuy nhiên, vì bản thân nhà lãnh đạo cũng là con người và cũng có các thành kiến nhất định, câu hỏi này sẽ giúp họ hạn chế tối đa các sai lầm nếu có.

Viết một kế hoạch hành động (Action Plan).

Các giám đốc điều hành hay nhà lãnh đạo doanh nghiệp cũng là người làm; họ thực thi các chiến lược cho doanh nghiệp.

Với bất cứ nhà lãnh đạo nào, cái gọi là kiến thức hay lý thuyết sẽ trở nên vô dụng cho đến khi nó được chuyển thành hành động. Nhưng trước khi bắt tay vào hành động, nhà lãnh đạo cần xây dựng các kế hoạch hành động cho đường đi của mình.

Nhà lãnh đạo cần suy nghĩ về những kết quả mong muốn, những hạn chế có thể xảy ra, những sửa đổi trong tương lai nếu có, những điểm cần kiểm tra và những tác động khác nếu có dựa vào cách họ điều hành.

Đầu tiên, nhà lãnh đạo cần xác định các kết quả mong muốn bằng cách đặt câu hỏi: Doanh nghiệp nên kỳ vọng những đóng góp nào trong 18 tháng đến 2 năm tới? Và [tôi] sẽ cam kết đạt được kết quả gì? Tương ứng với thời gian (deadline) ra sao?

Nó có phù hợp với sứ mệnh, giá trị và chính sách của tổ chức hay không? Những câu trả lời cho các câu hỏi này tương tự sẽ không thể giúp đảm bảo chắc chắn rằng các hành động sau đó sẽ mang về hiệu quả, nhưng vi phạm những điều kiện hay tiêu chuẩn này chắc chắn sẽ khiến nó vừa sai lầm vừa không hiệu quả.

Một bản kế hoạch hành động hiệu quả là một tuyên bố về ý định hơn là một cam kết. Nó không phải là thứ “bất di bất dịch”. Nó cần được sửa đổi và cập nhật thường xuyên, bởi vì mọi thành công đều có thể mở đường cho những cơ hội mới. Các thất bại cũng diễn ra theo cách tương tự.

Ngoài ra, một bản kế hoạch hành động cần tạo ra một hệ thống tiêu chuẩn để kiểm tra các kết quả đạt được so với các mong đợi được đưa ra trước đó. Những nhà lãnh đạo hiệu quả thường xây dựng hai bước kiểm tra trong suốt kế hoạch hành động của mình. Lần kiểm tra đầu tiên diễn ra trong khoảng thời gian của kế hoạch; Lần thứ hai xảy ra vào cuối kế hoạch, trước khi kế hoạch hành động tiếp theo được vạch ra.

Cuối cùng, các kế hoạch hành động cũng phải trở thành nền tảng cho việc quản lý thời gian của nhà lãnh đạo. Thời gian là nguồn tài nguyên khan hiếm và quý giá nhất của bất cứ nhà lãnh đạo nào.

(Hết Phần 1).

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer

Snapchat thử nghiệm gói có trả phí không có quảng cáo (ad-free subscription)

Sau thử nghiệm của YouTube hay Meta, Snapchat mới đây cũng đã công bố đang thử nghiệm gói xem nội dung có trả phí và không phải xem quảng cáo.

Snapchat thử nghiệm gói có trả phí không có quảng cáo (ad-free subscription)
Snapchat thử nghiệm gói có trả phí không có quảng cáo (ad-free subscription)

Snapchat hiện đã bắt đầu thử nghiệm gói đăng ký có trả phí không có quảng cáo ở Úc.

Với 10,50 USD một tháng, gói Snapchat+ mới cho phép người tiêu dùng sử dụng nền tảng này mà không bị gián đoạn bởi các nội dung quảng cáo trong Story hoặc Lens.

Tuy nhiên, ứng dụng này cũng lưu ý rằng người dùng vẫn có thể thấy các nội dung được tài trợ trong My AI.

Về tổng thể, cũng giống như với bất cứ nền tảng nào khác như Facebook hay Instagram, việc nhiều người dùng đăng sử dụng gói không có quảng cáo có thể ảnh hưởng đến phạm vi tiếp cận và thậm chí là cả chuyển đổi quảng cáo của nhà quảng cáo, tuy nhiên, tính thời điểm hiện tại tỷ lệ người dùng đăng ký các gói này là rất nhỏ.

Ví dụ như theo thông tin từ chính Snapchat, hiện chỉ có chưa tới 1% người dùng đăng ký gói có trả phí của nền tảng.

Các gói hiện tại của Snapchat bao gồm:

  • Gói hàng tháng: Với 3,91 USD một tháng, người dùng có thể trải nghiệm phiên bản Snapchat cung cấp tất cả các định dạng quảng cáo.
  • Gói hàng năm: Bằng cách đăng ký gói đăng ký 12 tháng, người dùng phải trả 2,73 USD/tháng cho phiên bản Snapchat phục vụ tất cả các định dạng quảng cáo.
  • Gói hàng tháng không có quảng cáo (ad-free): Với 10,50 USD một tháng, người dùng có thể trải nghiệm phiên bản Snapchat hầu như không có quảng cáo.

Người dùng có thể hủy đăng ký Snapchat+ bất cứ lúc nào trong cửa hàng ứng dụng.

Gói đăng ký Snapchat+ không có quảng cáo hiện chỉ đang được thử nghiệm ở Úc.

Theo giải thích của Snapchat:

“Nhận thức rằng Úc là nơi phù hợp để thử nghiệm lần đầu vì lượng người dùng ở đây đa dạng và có cơ sở hạ tầng công nghệ tiên tiến.”

“Nó không chỉ dựa trên yếu tố luật pháp hoặc quy định mà còn phụ thuộc vào sự tham gia tương tác và phản hồi của người dùng ở thị trường đó.”

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer

TikTok Shop dù tăng trưởng vẫn đang đối mặt với các bài toán khó

Sự bùng nổ của social marketing, công nghệ, quá trình chuyển đổi số cùng sự dịch chuyển xu hướng tiêu dùng sau đại dịch… giúp mô hình live shopping (phát trực tiếp) đã và đang rất phát triển tại Việt Nam. Nhờ vũ khí này, TikTok Shop một bước lọt Top 3 thị trường thương mại điện tử tại Việt Nam (báo cáo của Metric đến cuối năm 2022), vượt qua cả Sendo và Tiki.

TikTok Shop dù tăng trưởng vẫn đang đối mặt với các bài toán khó
TikTok Shop dù tăng trưởng vẫn đang đối mặt với các bài toán khó

Tiếp đà tăng nóng.

Báo cáo quý 3/2023 của TikTok Shop vừa cho biết quy mô cộng đồng nhà bán hàng và nhà sáng tạo nội dung tiếp tục tăng trưởng lần lượt là 210% và 330%.

Riêng đại tiệc Mua sắm 9.9 trên TikTok Shop ghi nhận lượng khách hàng tìm kiếm và mua sắm sản phẩm đạt 250% so với trước chiến dịch, tỷ lệ khách hàng tham gia mua sắm và đặt hàng theo đó tăng 140%, tương ứng với mức tăng 150% về lượng sản phẩm, doanh số bán ra.

Shoppertainment là xu hướng mới, tạo cơ hội thu hút người dùng cho các doanh nghiệp thuộc mọi quy mô, đặc biệt các doanh nghiệp SMBs thông qua các hình thức quảng cáo linh động dựa trên ngân sách và mục tiêu khác nhau của từng doanh nghiệp.

Trong đó, SMBs (Small and Medium sized Businesses) là những doanh nghiệp vừa và nhỏ, được ví như nguồn cung cấp tài nguyên và việc làm quan trọng trong nền kinh tế. Với quy mô nhỏ hơn và chi phí thấp hơn, SMBs được đánh gia linh hoạt và sáng tạo hơn trong kinh doanh.

Năm 2022, giá trị thị trường Shoppertainment đạt 500 tỷ USD ở khu vực châu Á Thái Bình Dương, các thị trường trọng điểm có Úc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Indonesia và Việt Nam. Dựa trên số liệu của nghiên cứu giữa TikTok và tập đoàn Boston Consulting Group, xu hướng Shoppertainment sẽ tăng từ nay đến năm 2026 và tại thị trường Việt Nam sẽ đạt đến con số là 8 tỷ USD.

Báo cáo cũng dự đoán Việt Nam là một trong những thị trường phát triển ấn tượng nhất của xu hướng thương mại điện tử mới này ở khu vực Đông Nam Á (bên cạnh Indonesia và Thái Lan). Tại 3 thị trường này cùng với Úc, Shoppertainment sẽ đạt tốc độ 63% tăng trưởng kép hàng năm (Compounded Annual Growth Rate – CAGR) trong vòng 3 năm tới, đồng thời tăng gấp 4 lần giá trị từ 24 tỷ USD lên 100 tỷ USD.

Và TikTok có thể xem là nền tảng dẫn dắt xu hướng này, thông qua phương thức bán hàng số thông qua video ngắn, LIVE Shopping (Quảng cáo mua sắm qua LIVE) hay chương trình Tiếp thị Liên kết.

Báo cáo lần này cũng công bố Top các ngành hàng bán chạy nhất trên nền tảng, gồm Thời trang, Sức khỏe & Chăm sóc cá nhân, Điện tử, Nhà cửa & Đời sống, Làm đẹp.

Bắt đầu đối mặt với một bài toán khó.

Nổi lên như một hiện tượng trong làng thương mại điện tử, vẫn còn rất nhiều thách thức, cụ thể là mặt hàng chính hãng. Được biết, tỷ lệ hàng chính hãng trên TikTok Shop hiện không cao. Đây được xem là bài toán khó của nền tảng, bởi chất lượng luôn là một trong những tiêu chí hàng đầu để giữ chân khách hàng.

Tại lễ kỷ niệm 1 năm ra mắt ở thị trường Việt Nam hồi tháng 6 vừa qua, TikTok Shop cũng công bố chiến lược mới, đẩy mạnh hợp tác với các bên, tăng tỷ lệ chính hãng, chất lượng cho người dùng.

Một trong những động thái mới của nền tảng này là việc bắt tay với Tập đoàn KIDO ra mắt nền tảng thương mại giải trí E2E, phối hợp với các nhãn bán hàng chính hãng trực tuyến.

E2E kỳ vọng tạo ra sân chơi giải trí kết hợp mua sắm tổng hợp hơn, chuyên nghiệp hơn trên nền tảng social. Hơn hết, E2E với quy mô lớn cam kết sẽ hỗ trợ DN, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ (SME) đang dần phục hồi sau ảnh hưởng của đại dịch Covid-19, có thể tận dụng nền tảng logistics để tăng cơ hội kinh doanh trực tiếp với khách hàng.

TikTok Shop cũng vừa chính thức ra mắt tính năng Kênh bán hàng chính hãng TikTok Shop Mall tại thị trường Việt Nam. Mua sắm trên TikTok Shop Mall, người dùng  được tiếp cận các sản phẩm do chính chủ sở hữu thương hiệu hoặc đại lý được uỷ quyền cùng cấp, được đảm bảo hàng chính hãng 100% từ nhà bán và thời hạn trả hàng dài hơn. Ngoài ra, TikTok Shop Mall cũng hỗ trợ miễn phí vận chuyển toàn quốc và miễn phí đổi trả dễ dàng trong vòng 15 ngày.

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer

 

Theo Tri Túc | Markettimes

Baemin chính thức rời khỏi thị trường Việt Nam sau 4 năm gắn bó

Kinh tế khó khăn, cộng với thị trường cạnh tranh khốc liệt khiến ‘ông lớn’ giao đồ ăn Baemin – doanh nghiệp nổi bật đến từ Hàn Quốc, chính thức chia tay thị trường Việt Nam từ ngày 8-12-2023, khép lại 4 năm gắn bó.

Baemin chính thức rời khỏi thị trường Việt Nam
Baemin chính thức rời khỏi thị trường Việt Nam

“Baemin Việt Nam tạm biệt bạn nhé”, thông báo của ứng dụng giao đồ ăn gửi đến khách hàng.

Rời cuộc cạnh tranh khốc liệt.

Baemin cho biết sẽ chính thức ngừng hoạt động từ 0h ngày 8-12-2023. Người tiêu dùng vẫn có thể đặt món trên ứng dụng này đến hết ngày 7-12.

Vì thời gian không còn nhiều nên phía ứng dụng cũng nhắn gửi khách hàng tranh thủ sử dụng hết xu, điểm thưởng và các khuyến mãi đang có của mình trên ứng dụng, để tận hưởng nhiều món ngon.

“Baemin sẽ mãi mãi biết ơn sự yêu thương, ưu ái và ủng hộ mà bạn đã dành cho Baemin trong hành trình giao món khắp Việt Nam suốt 4 năm qua. Baemin rất vui và tự hào khi được đồng hành cùng bạn trong mọi bữa ăn ngon.

Baemin chúc bạn niềm vui luôn đầy như chiếc bụng đói được ăn no. Baemin yêu bạn nhiều lắm, sẽ nhớ bạn lắm đó!”, đội ngũ thuộc ứng dụng giao hàng bày tỏ.

Trong thông báo gửi đến đối tác là các nhà hàng, ứng dụng giao hàng chia sẻ quyết định rời khỏi thị trường Việt Nam được thúc đẩy bởi tình hình kinh tế khó khăn trên toàn cầu, cũng như sự cạnh tranh khốc liệt của nước sở tại.

Doanh nghiệp cam kế thanh toán đầy đủ các khoản công nợ trong thời gian hoạt động còn lại, đồng thời hoàn trả chi phí quảng cáoMarketing đã trả trước cho tháng 12-2023, sau khi hoàn thành đối soát.

Không có lãi.

Vào tháng 6-2019, ứng dụng giao hàng đến từ Hàn Quốc chính thức gia nhập thị trường Việt Nam, khởi đầu tại TP.HCM. Trong suốt 4 năm qua, Baemin luôn để lại ấn tượng với người tiêu dùng qua các chiến dịch quảng cáo đầy tính sáng tạo, dễ thương, năng động và gần gũi.

Khi vào ứng dụng, ngoài đặt dịch vụ giao đồ ăn nhanh, khách hàng còn trải nghiệm các dịch vụ đi chợ, mua sắm hàng bách hóa trực tuyến…

Baemin là ứng dụng giao đồ ăn trực tuyến được vận hành bởi Woowa Brothers Việt Nam (thành viên của liên doanh giữa Woowa Brothers – công ty giao đồ ăn top đầu tại Hàn Quốc) và Delivery Hero (tập đoàn công nghệ giao đồ ăn hàng đầu thế giới đến từ Đức, cung cấp dịch vụ tại hơn 50 quốc gia khác nhau).

Vào tháng 9 vừa qua, lãnh đạo điều hành ứng dụng này cũng đã gửi thông báo tới nhân viên, chia sẻ về việc phải tạm thời thu hẹp hoạt động do gặp nhiều thách thức tại thị trường giao hàng ở Việt Nam.

Trước đó ông Niklas Östberg – đồng sáng lập kiêm tổng giám đốc Delivery Hero (công ty mẹ) – chia sẻ với Hãng tin Reuters về việc hoạt động kinh doanh tại Việt Nam “không bao giờ có lãi”, trong khi đánh giá triển vọng của công ty tại châu Á lại tích cực.

Tính đến năm vừa qua, Grab chiếm 45% thị phần giao đồ ăn tại Việt Nam, tiếp đến là ShopeeFood chiếm 41%, riêng Baemin chỉ giữ khoảng 12% thị phần (theo thống kê của Momentum Works).

Nhiều người tiêu dùng cho biết mặc dù rất có thiện cảm với Baemin, nhưng một trong những điều khiến họ cản trở dùng dịch vụ là vì ít có chương trình khuyến mãi so với các đối thủ lớn khác.

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer

PwC, EY, KPMG và Deloitte chi hàng tỷ USD để đào tạo AI cho nhân viên

Big Four ngành kiểm toán là PwC, EY, KPMG và Deloitte đang chi hàng tỷ USD để đào tạo AI (trí tuệ nhân tạo) cho nhân viên, nhân viên cũng sẽ được học cách làm việc với chatbot.

PwC, EY, KPMG và Deloitte chi hàng tỷ USD để đào tạo AI cho nhân viên
PwC, EY, KPMG và Deloitte chi hàng tỷ USD để đào tạo AI cho nhân viên

Theo đó, gã khổng lồ ngành kiểm toán và tư vấn PwC đã công bố khoản đầu tư 1 tỷ USD trong vòng 3 năm vào các công nghệ mới trong đó có AI nhằm mục tiêu mở rộng các giải pháp AI cho khách hàng, thiết lập quan hệ đối tác với Microsoft và OpenAI cũng như tập trung đào tạo AI cho khoảng 75.000 nhân viên tại Mỹ.

Ông Winston Weinberg, chủ tịch và đồng sáng lập của Harvey, một công ty khởi nghiệp đang hợp tác với PwC để cung cấp các mô hình ngôn ngữ lớn (LLMs) tùy chỉnh cho công việc khai báo thuế, pháp lý và cả nhân sự, cho biết: “Tôi nghĩ rằng họ (ngụ ý PwC) đang đi trước xu hướng”.

Bên cạnh PwC, các tên tuổi lớn khác như Deloitte cũng đã công bố khoản đầu tư 1,4 tỷ USD vào việc đào tạo cho nhân viên về các công nghệ bao gồm AI. EY và KPMG cũng không nằm ngoài xu hướng đầu tư này.

Một lãnh đạo của PwC cho biết: “Generative AI là công nghệ đầu tiên trong hơn 30 năm qua, thứ mà tôi hy vọng rằng sẽ có thể giúp tăng tốc và cải thiện công việc quản lý trong các doanh nghiệp về quản trị tri thức.”

Tính đến thời điểm hiện tại, đã có khoảng 60% nhân viên của PwC đã bắt đầu được đào tạo và công ty này cũng cam kết rằng tất cả 75.000 nhân viên PwC tại Mỹ sẽ được tham gia chương trình.

Ngoài việc tập trung đào tạo AI cho nhân viên, PwC cũng đang đưa AI vào hoạt động tư vấn cho khách hàng và giao tiếp nội bộ. Công cụ “ChatPwC” nội bộ có thể giúp nhân viên của PwC tiếp cận nhanh các công nghệ của OpenAI (đối tác của PwC) trong một môi trường an toàn, cho phép nhân viên PwC trở thành cái mà nhà lãnh đạo Atkinson gọi là “client zero”, tự mình thử nghiệm AI.

Các công việc hàng ngày như đánh giá hợp đồng, nghiên cứu thẩm định cho các giao dịch M&A hay các vấn đề pháp lý khác cũng sẽ sử dụng AI để hỗ trợ.

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer

Gen Z ưu tiên những điều này hơn cả công việc chính

Thời gian dành cho gia đình, bạn bè, sức khỏe, du lịch là những điều được xem trọng hơn công việc trong cuộc sống của Gen Z.

Gen Z ưu tiên những điều này hơn cả công việc
Gen Z ưu tiên những điều này hơn cả công việc

Gen Z, những người sinh từ năm 1997 đến 2012, lớn lên với tư cách công dân kỹ thuật số thực thụ, được tiếp cận nhiều thông tin hơn bất kỳ thế hệ nào khác như Gen Y và Gen X.

Theo một khảo sát gần đây của hãng phần mềm Visier, những ưu tiên cuộc sống hàng đầu của Gen Z bao gồm: thời gian cho gia đình, bạn bè; sức khỏe; du lịch. Ba mục tiêu này được đánh giá quan trọng hơn công việc, phản ánh sự thay đổi trong thái độ đối với cuộc sống của thế hệ này.

Khảo sát ghi nhận 67% Gen Z trả lời thời gian dành cho gia đình, bạn bè được ưu tiên hàng đầu trong cuộc sống. Họ cho biết, khi quan sát thấy các thế hệ đi trước đã hy sinh quá nhiều mối quan hệ và hạnh phúc cho công việc và nhận thấy điều này “không xứng đáng”.

Tiến sĩ Diane Gayeski, cựu hiệu trưởng Trường truyền thông Roy H Park (New York, Mỹ) nhận xét Gen Z có khả năng thúc đẩy những thay đổi nhằm cải thiện cân bằng giữa công việc – cuộc sống. Họ muốn làm việc cho những tổ chức mà họ ngưỡng mộ, đồng thời xây dựng một cuộc sống “có thời gian để tận hưởng bên người thân và thú vui khác”.

Cùng chung quan điểm, Chelsea Cohen – đồng sáng lập công ty phần mềm quản trị SoStocked – cho rằng Gen Z có thể rất giỏi trong việc tách biệt giữa cuộc sống công sở với đời sống cá nhân. Đây là thế hệ tự nhận thức cao và xem lối sống tham công tiếc việc của thế hệ trước là một dấu hiệu cảnh báo vì chúng ảnh hưởng tiêu cực đến sức khỏe.

Ngoài ra, 46% nhân viên Gen Z đánh giá sức khỏe tinh thần, thể chất tốt là tham vọng hàng đầu. “Gen Z đã chứng kiến những tổn hại mà cuộc sống lấy công việc làm trung tâm gây ra cho gia đình của họ và rất nhạy cảm với sức khỏe thể chất, tinh thần”, Gayeski nói.

Họ không chỉ có xu hướng thảo luận cởi mở hơn về những vấn đề này tại nơi làm việc mà còn muốn nhà tuyển dụng cung cấp dịch vụ và phúc lợi liên quan đến sức khỏe tinh thần hơn, chẳng hạn thời gian nghỉ có lương để chăm sóc bản thân hay không gian thiền tại chỗ, theo Phillip Kane, CEO kiêm nhà cố vấn kinh doanh.

Những công ty nhận thức được tầm quan trọng của sức khỏe tinh thần với nhân viên Gen Z sẽ thu hút và giữ chân được người tốt nhất.

Cuối cùng, khoảng 58% nhân viên Gen Z xem du lịch là một mục tiêu lớn. Sinh ra trong thế giới siêu kết nối, họ đánh giá cao trải nghiệm và sự khám phá. Một số người mong muốn có thể phát triển sự nghiệp trong khi du lịch nhờ làm việc từ xa. Cùng với dịch Covid-19, nhiều ứng dụng làm việc từ xa đã xuất hiện, cải thiện khả năng này.

Các thế hệ khác có thể học hỏi từ Gen Z để tìm thấy cân bằng giữa công việc – cuộc sống. Đầu tiên, trước khi nhận việc, hãy đánh giá văn hóa công ty, ưu tiên sự linh hoạt, thời gian nghỉ phép, phúc lợi sức khỏe. Tìm những doanh nghiệp phù hợp với giá trị cá nhân của bạn.

Tại nơi làm việc, đừng quên thiết lập ranh giới, thực hành chánh niệm và không ngần ngại sử dụng ngày phép để duy trì sức khỏe tinh thần. Bảo lưu quan điểm về những gì quan trọng nhất trong cuộc sống.

Cuộc sống không chỉ có công việc, vì vậy nên nuôi dưỡng các mối quan hệ gần gũi, theo đuổi sở thích, du lịch khi nào có thể và theo dõi sức khỏe bản thân. Hạnh phúc đến từ nhiều yếu tố, không chỉ từ tiền lương.

Khi tìm được một nhà tuyển dụng quan tâm đến lợi ích của nhân viên, con người mới có thể thăng tiến trong sự nghiệp mà vẫn thực hiện được đam mê của mình.

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer

OpenAI đang sở hữu loại công nghệ AI đột phá có thể gây hại cho nhân loại

Theo thông tin mới đây, một số nhà nghiên cứu của OpenAI đã cảnh báo lên hội đồng quản trị về công nghệ AI được cho là tiên tiến và đột phá đến mức có thể gây hại cho nhân loại.

OpenAI đang sở hữu một công nghệ AI đột phá có thể gây hại cho nhân loại
OpenAI đang sở hữu một công nghệ AI đột phá có thể gây hại cho nhân loại

Theo báo cáo từ Reuters, trong khoảng thời gian CEO OpenAI Sam Altman bị sa thải, một số nhà nghiên cứu AI của OpenAI đã viết một lá thư gửi cho hội đồng quản trị cảnh báo về một số phát hiện liên quan đến loại công nghệ AI tiên tiến của OpenAI mà họ cho rằng có thể đe dọa loài người.

Trước khi CEO Altman bị sa thải, hoạt động phát triển các thuật toán AI được xem là ưu tiên hàng đầu của OpenAI.

Với tên gọi là Q* (đọc là Q Star), đây là dự án phát triển loại công nghệ AI được cho là tiên tiến và đột phá, thứ có thể đe doạ cả nhân loại.

Q Star được xem là một bước đột phá trong cuộc đua tìm kiếm sức mạnh AI của OpenAI. Theo nguồn tin, loại công nghệ này được gọi là trí tuệ nhân tạo tổng hợp (AGI), OpenAI định nghĩa AGI là các hệ thống tự trị có thể vượt qua cả con người trong hầu hết các nhiệm vụ có giá trị kinh tế.

Với nguồn tài nguyên máy tính khổng lồ, mô hình AI mới có thể giải quyết một số vấn đề toán học nhất định. Nguồn tin cho biết, mặc dù hiện nó chỉ có thể thực hiện các phép toán ở cấp độ học sinh tiểu học, nhưng việc đạt được những bài kiểm tra như vậy khiến các nhà nghiên cứu rất lạc quan về thành công trong tương lai của Q*.

Các nhà nghiên cứu cũng coi toán học là tiền đề của sự phát triển AI tổng quát. Hiện tại, Generative AI rất giỏi trong việc viết lách và dịch ngôn ngữ bằng cách dự đoán ký tự.

Tuy nhiên, với các công nghệ mới, AI sẽ có khả năng suy luận tốt hơn giống như trí thông minh của con người. Các nhà nghiên cứu AI tin rằng điều này có thể được áp dụng cho nghiên cứu khoa học mới.

Trong lá thư gửi hội đồng quản trị, các nhà nghiên cứu cũng đã đánh dấu sức mạnh và mối nguy hiểm tiềm tàng của AI.

CEO Sam Altman là người dẫn đầu các nỗ lực nhằm biến ChatGPT trở thành một trong những ứng dụng phần mềm phát triển nhanh nhất trong lịch sử và thu hút được nhiều nhà đầu tư lớn trong đó có gã khổng lồ Microsoft.

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer

[Download Report] Tại sao người tiêu dùng ngần ngại khi mua hàng qua mạng xã hội

Theo báo cáo mới đây của Influencer Marketing Factory, có nhiều lý do khác nhau khiến người dùng còn khá ngần ngại thì mua hàng trong ứng dụng thông qua các nền tảng mạng xã hội như Facebook, TikTok hay Instagram.

Về tổng thể, đa phần mọi người vẫn khá ngần ngại khi mua hàng trên các nền tảng mạng xã hội (Social Commerce) khi họ chưa thực sự tin tưởng các giao dịch trong luồng, nhiều người khác cảm thấy có rất nhiều lừa đảo diễn ra trên các nền tảng.

Social Commerce là gì?

Social Commerce hay thương mại xã hội là một tập hợp con của thương mại điện tử (eCommerce) bao gồm các phương tiện truyền thông mạng xã hội và nền tảng truyền thông trực tuyến nhằm mục tiêu hỗ trợ người dùng trong việc tương tác và mua bán các sản phẩm trực tuyến.

Nói một cách ngắn gọn và dễ hiểu hơn, Social Commerce là tất cả những gì liên quan đến các nền tảng mạng xã hội (social networks) đặt trong bối cảnh mua sắm trực tuyến.

Theo một khái niệm khác từ Investopedia, Social Commerce là việc sử dụng các nền tảng trực tuyến như Facebook, Instagram và Twitter để làm phương tiện quảng bá và bán các sản phẩm và dịch vụ.

Thành công của các chiến dịch thương mại xã hội được đo lường bằng mức độ mà người tiêu dùng tương tác với các hoạt động marketing của thương hiệu.

Một số điểm đáng chú ý từ khảo sát.

  • Hơn 62% người tiêu dùng vẫn ưu tiên mua sắm trên các nền tảng thương mại điện tử (eCommerce).
  • Gần 50% lựa chọn cả mua sắm online và offline.
  • Hơn 33% người tiêu dùng vẫn thích mua sắm trong cửa hàng (in-store shopping).
  • Chỉ 22% người tiêu dùng chọn mua sắm trên mạng xã hội thay vì trên các nền tảng thương mại điện tử.
  • Không biết rõ danh tính người bán và không tin tưởng mạng xã hội là các lý do lớn nhất khiến người tiêu dùng ngần ngại khi mua hàng qua mạng xã hội.
  • Trung bình mỗi người dùng chi tiêu khoảng 50-100 USD trong năm 2022 trên các nền tảng mạng xã hội.

Cách người tiêu dùng nhìn nhận về các chiến dịch Influencer Marketing và Social Media Marketing.

Khi được hỏi đâu là điều mà họ quan tâm và xem xét nhiều nhất trước khi quyết định mua hàng qua các nền tảng mạng xã hội, có đến hơn 40% người tiêu dùng cho rằng đánh giá của các người tiêu dùng khác (review) là rất quan trọng.

Có đến hơn 50% người dùng cho rằng họ sẽ mua ít nhất là một thứ gì đó trong các lễ hội mua sắm trong 2023 này.

Bạn cũng có thể tải xuống báo cáo chi tiết tại đây.

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer

Bill Gates: AI không thay thế con người và còn biến tuần làm việc 3 ngày trở nên khả thi

Trong một cuộc trò chuyện mới đây về sức ảnh hưởng của AI (trí tuệ nhân tạo) đến việc làm và xã hội, nhà sáng lập Microsoft Bill Gates cho biết AI không chỉ không thay thế con người mà còn biến tuần làm việc 3 ngày trở nên khả thi.

Bill Gates: AI không thay thế con người và còn biến tuần làm việc 3 ngày trở nên khả thi
Bill Gates: AI không thay thế con người và còn biến tuần làm việc 3 ngày trở nên khả thi

Theo đó, Bill Gates đã chia sẻ suy nghĩ của mình về cách trí tuệ nhân tạo (AI) có thể thay đổi thế giới công việc. Bill Gates tin rằng công nghệ có thể tạo ra một tuần làm việc ngắn hơn, có thể chỉ 3 ngày mỗi tuần.

Theo Bill Gates, trong tương lai, máy móc hay công nghệ có thể thực hiện rất nhiều nhiệm vụ khác nhau, ví dụ như chế tạo đồ vật hay cả nấu ăn. Ông gợi ý rằng điều này có thể dẫn đến một tuần làm việc ngắn hơn, chỉ khoảng 3 ngày, điều này mang lại cho mọi người một môi trường làm việc cân bằng và thoải mái hơn. Không chi Bill Gates, nhiều nhà lãnh đạo doanh nghiệp khác cũng cho rằng những tiến bộ trong công nghệ, đặc biệt là AI, có thể thay đổi cách chúng ta thường làm việc.

Mặc dù Bill Gates hy vọng về những thay đổi tích cực mà công nghệ có thể mang lại nhưng ông cũng nhận thức được những vấn đề có thể xảy ra với AI. Trong một bài đăng trên blog gần đây, ông đã nói về sự cần thiết phải cẩn thận và có đạo đức khi sử dụng AI. Trong khi Bill Gates không nghĩ AI sẽ gây ra một cuộc cách mạng lớn như Cách mạng Công nghiệp nhưng ông tin rằng nó có thể trở nên rất quan trọng như khi máy tính cá nhân lần đầu được ra mắt (năm 1971).

Điều thú vị là Bill Gates không phải là người duy nhất nói về việc rút ngắn thời gian làm việc trong tuần. Jamie Dimon, CEO của JPMorgan Chase (ngân hàng lớn nhất toàn cầu), cho biết rằng thế hệ nhân viên tiếp theo có thể chỉ làm việc 3,5 ngày một tuần vì AI. Vị CEO này cũng chỉ ra cách công nghệ có thể giúp con người sống lâu hơn và khỏe mạnh hơn.

Mặc dù được xem là con người của công việc và bận rộn, Bill Gates nhiều lần phát biểu rằng “mục đích của cuộc sống không chỉ là làm việc”, ông còn tỏ ra thích thú với những “người lười biếng”.

Hiện nay ở Mỹ và nhiều quốc gia khác đã thử áp dụng chế độ làm việc 4 ngày một tuần và phần lớn trong số này nói rằng điều đó giúp cuộc sống của nhân viên của họ trở nên tốt hơn.

Khi công nghệ ngày càng phát triển, các cuộc thảo luận về tương lai của công việc và cách AI có thể thay đổi mọi thứ có thể sẽ nhận được nhiều sự chú ý hơn, đặc biệt là khi những người có ảnh hưởng như Bill Gates và Dimon chia sẻ ý tưởng của họ về văn hóa làm việc mới, nơi mọi người có thể có nhiều thời gian rảnh rỗi hơn.

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer

Adobe mua lại startup về generative AI Rephrase.ai

Adobe mới đây đã thông báo mua lại Rephrase.ai, một công ty khởi nghiệp (startup) về Generative AI, công nghệ được tích hợp trong các chatbot AI như ChatGPT hay Google Bard.

Adobe mua lại startup về generative AI Rephrase.ai
Adobe mua lại startup về generative AI Rephrase.ai

Theo đó, việc Adobe mua lại Rephrase.ai đánh dấu thương vụ đầu tiên mà Adobe từng thực hiện trong cuộc chạy đua với công nghệ AI mà chính xác là Generative AI (AI tổng quát được sử dụng rộng rãi trong các chatbot AI hiện nay), và cũng đánh dấu là thương vụ đầu tiên một công ty khởi nghiệp của Ấn Độ được Adobe mua lại.

Rephrase.ai là nền tảng cho phép xây dựng video dựa trên công nghệ trí tuệ nhân tạo (AI), trong khi Adobe là hãng phần mềm với các ứng dụng phổ biến như Photoshop, AI (Adobe Illustrator) hay inDesign. Việc mua lại có thể giúp Adobe tiến sâu hơn nữa trên con đường ứng dụng AI để thiết kế và sản xuất nội dung.

Theo nguồn tin, các nhân viên hiện làm việc cho Rephrase.ai sẽ chuyển sang làm việc cho Adobe.

Trong một thông báo, phó chủ tịch cấp cao của Adobe Creative Cloud cho biết:

“Công cụ, năng lực và kinh nghiệm của Rephrase.ai sẽ cho phép chúng tôi mở rộng hơn nữa năng lực sản xuất video dựa trên công nghệ AI. Khách hàng của chúng tôi cũng sẽ được hưởng lợi nhiều hơn nữa.”

Đối với những người có ảnh hưởng, nhà sáng tạo nội dung, hay người làm marketing, giờ đây có thể sử dụng các công cụ của Adobe một cách dễ dàng hơn để xây dựng ảnh đại diện kỹ thuật số (Digital Avatar), các hình ảnh đại diện cho thương hiệu và hơn thế nữa.

Trước khi được Adobe mua lại, Rephrase.ai cũng đã gọi được nhiều triệu USD từ các quỹ đầu tư khác nhau.

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer

Tập đoàn Toshiba sẽ hủy niêm yết và tái cấu trúc kinh doanh

Tập đoàn Toshiba sẽ hủy niêm yết vào ngày 20/12, chấm dứt lịch sử 74 năm niêm yết trên sàn chứng khoán.

Tập đoàn Toshiba sẽ hủy niêm yết và tái cấu trúc kinh doanh
Tập đoàn Toshiba sẽ hủy niêm yết và tái cấu trúc kinh doanh

Thương vụ mua lại Tập đoàn Toshiba của Quỹ đầu tư đối tác công nghiệp Nhật Bản đã hoàn thành. Toshiba sẽ hủy niêm yết trên sàn chứng khoán Tokyo và sàn chứng khoán Nagoya vào cuối tháng 12 tới, sau đó sẽ tiến hành tái cơ cấu để vực dậy hoạt động kinh doanh.

Sau khi hoàn thành chương trình chào mua, Tập đoàn Toshiba đã tổ chức Đại hội đồng cổ đông bất thường vào ngày 22/11 và quyết định hủy niêm yết của tập đoàn trên các sàn chứng khoán vào ngày 20/12 tới.

Báo Nikkei cho biết, Quỹ Đối tác công nghiệp Nhật Bản đã thực hiện thương vụ chào mua đối với Toshiba, tỷ lệ đăng ký cổ đông là 78,65%, vượt quá 67,7% số cổ đông cần thiết để tiến hành đại hội cổ đông.

Tại Đại hội cổ đông bất thường đề xuất hợp nhất cổ phiếu để chuyển tập đoàn Toshiba thành tập đoàn tư nhân đã được thông qua. Tập đoàn này sẽ hủy niêm yết vào ngày 20/12, chấm dứt lịch sử 74 năm niêm yết trên sàn chứng khoán.

Quỹ Đối tác công nghiệp Nhật Bản – đơn vị thực hiện thương vụ chào mua này – có kế hoạch hồi sinh tập đoàn Toshiba với một kế hoạch kinh doanh mới và sự điều hành ổn định của cổ đông thống nhất.

Theo thông tin trên báo Asahi, Toshiba có bốn lĩnh vực kinh doanh chủ chốt bao gồm điện hạt nhân, xây dựng cơ sở hạ tầng (đường sắt, xử lý nước), thiết bị bán dẫn và công nghệ thông tin.

Các lĩnh vực này bị chia tách năm 2017 nhằm mở rộng sự phát triển, nhưng cơ chế quản lý bị chồng chéo. Quỹ Đối tác công nghiệp Nhật Bản cho biết sẽ tái hợp nhất bốn công ty thuộc bốn lĩnh vực này để làm trụ cột cho kế hoạch khôi phục hoạt động kinh doanh.

Về kế hoạch trở lại của Toshiba, báo Mainichi cho biết, trong quá trình khủng hoảng, tập đoàn đã bán đi các lĩnh vực kinh doanh có thế mạnh như năm 2016 khi gặp khó khăn về tài chính, đã bán mảng kinh doanh thiết bị gia dụng và y tế; đến năm 2018 bán mảng kinh doanh bộ nhớ bán dẫn – lĩnh vực có lợi nhuận lớn vào thời điểm đó.

Sự trở lại của Toshiba dự báo rất khó khăn, hiện nay doanh thu đã giảm một nửa. Nếu doanh thu năm 2015 của Toshiba là 44,67 tỷ USD thì đến năm 2023 chỉ còn 22,67 tỷ USD.

Toshiba dự kiến sẽ cắt giảm nhân sự và hợp nhất các công ty con, nhất là các công ty con kinh doanh thua lỗ. Tập đoàn sẽ tập trung vào các lĩnh vực cơ sở hạ tầng và lượng tử làm trụ cột cho chiến lược tăng trưởng sau quá trình tái cơ cấu.

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer

Net Zero là gì? Tất cả những gì cần biết về Net Zero

Trong phạm vi bài viết này, hãy cùng MarketingTrips tìm hiểu về một trong những thuật ngữ rất phổ biến hiện nay trong bối cảnh chiến lược phát triển bền vững của doanh nghiệp đó là Net Zero hay Net Zero Carbon Emissions (lượng phát thải ròng bằng 0). Vậy thực chất Net Zero là gì và mục tiêu của các doanh nghiệp khi theo đuổi chiến lược Net Zero Carbon Emissions là gì?

Net Zero là gì
Net Zero là gì? Mục tiêu của Net Zero Carbon Emissions

Trong khi biến đổi khí hậu vẫn tiếp tục là thách thức không chỉ với doanh nghiệp mà còn cả với các tổ chức chính phủ và phi chính phủ, các mục tiêu về giảm phát thải khí carbon, trung hoà carbon hay phát thải bằng 0 (Net Zero) tiếp tục là ưu tiên hàng đầu cần theo đuổi và đạt được.

Net Zero là gì?

Là khái niệm được sử dụng trong bối cảnh kinh tế, Net Zero (lượng phát thải ròng bằng 0) là trạng thái lý tưởng trong đó lượng khí nhà kính (GHG) được thải vào bầu khí quyển trái đất được cân bằng với lượng GHG bị loại bỏ. Những nỗ lực khử carbon (Net Zero Carbon Emissions) là nền tảng cần thiết để đạt được mục tiêu Net Zero hay lượng khí thải bằng 0.

Hiểu đúng về khái niệm Net Zero trong phạm vi kinh tế và môi trường.

Nếu bạn thường xuyên theo dõi các tin tức hay nội dung về các chủ đề như tính bền vững (Sustainability) và biến đổi khí hậu (Climate Change), bạn có thể đã nghe thấy thuật ngữ Net Zero, tuy nhiên, để thực sự hiểu được khái niệm này, bạn cần biết nhiều hơn chỉ là về mặt thuật ngữ hay tên gọi đơn thuần.

Lượng khí thải nhà kính (GHGs) vào bầu khí quyển đạt mức bằng 0 tức Net Zero khi mức phát thải khí nhà kính thải vào khí quyển ít nhất là bằng với lượng khí thải đó bị loại bỏ. Trung hòa carbon theo đó cũng là khái niệm mô tả điểm cân bằng này.

CO2 (khí Carbon) là một loại khí (gas) được tìm thấy trong bầu khí quyển của Trái đất — và nó là một phần của không khí trên hành tinh, cùng với các loại khí khác như nitơ, oxy hay metan. CO2 có thể giúp giữ nhiệt, nhưng nếu nó có quá nhiều có thể gây ra các vấn đề, chẳng hạn như các đợt nắng nóng hoặc lũ lụt.

Tất cả các ngành công nghiệp khác — không chỉ riêng ngành năng lượng —  theo đó cần phải đạt được mục tiêu Net Zero để tránh một hành tinh bị ảnh hưởng hay thậm chí là bị huỷ hoại.

Khử hay trung hoà carbon là gì?

Khử carbon là giảm thiểu, ngừng hoặc giảm lượng khí carbon trong khí quyển. Nó đạt được bằng cách chuyển sang các nguồn năng lượng hoặc vật liệu thải ra ít carbon hơn.

Hạn chế sự tích tụ khí nhà kính trong khí quyển sẽ là cần thiết để ngăn chặn sự nóng lên vĩnh viễn của hành tinh và những hậu quả thảm khốc khác liên quan đến vấn đề môi trường. Những nỗ lực này được gọi là quá trình khử carbon.

Ở nhiều doanh nghiệp, quốc gia và tổ chức khác hiện đã cam kết khử carbon hoặc thực hiện chuyển đổi dần về mức Net Zero trong những năm tới. Trong khi các ngành công nghiệp như điện, dầu khí và vận tải thường được coi là những ngành phát thải lớn nhất, tất cả các ngành khác cũng đều cần nỗ lực hướng tới quá trình khử carbon này.

Do nhiều yếu tố cấp bách, mục tiêu Net Zero có ý nghĩa quan trọng ở cấp độ toàn cầu. Bảy hệ thống năng lượng và có sử dụng liên quan đến tài nguyên đất chính là điện, công nghiệp, di chuyển, xây dựng, nông nghiệp, lâm nghiệp và chất thải hiện liên đới nhiều nhất đến việc phát thải và do đó tất cả các ngành này sẽ cần phải trải qua quá trình chuyển đổi, khử carbon và cuối cùng là đạt mục tiêu phát thải ròng bằng 0 (Net Zero).

Bên cạnh các giải pháp trực tiếp, những hành động thay thế khác như sử dụng nguồn năng lượng phát thải ít carbon, chẳng hạn như năng lượng mặt trời và năng lượng gió thực sự rất hữu ích.

Tận dụng tính tuần hoàn (nền kinh tế tuần hoàn) cũng có thể là một đòn bẩy đáng kể cho quá trình khử carbon này.

Quá trình đạt được mục tiêu Net Zero hay chuyển đổi dần về Net Zero sẽ liên quan đến điều gì?

Khi nói về khái niệm Net Zero hay mô tả quá trình chuyển đổi lượng khí thải ròng bằng 0, dưới đây là 6 đặc điểm chính có liên quan:

  • Sức ảnh hưởng toàn cầu. Tất cả các hệ thống năng lượng và sử dụng tài nguyên đất sẽ cần phải được chuyển đổi, điều này ảnh hưởng đến mọi quốc gia và mọi lĩnh vực của nền kinh tế, dù là trực tiếp hoặc gián tiếp.
  • Có ý nghĩa rất quan trọng. Chi tiêu cho các tài sản vật lý, những thứ có thể giúp đạt mục tiêu Net Zero sẽ cần phải tăng từ mức 3,5 nghìn tỷ USD chi tiêu mỗi năm hiện nay lên 9,2 nghìn tỷ USD mỗi năm. Tổng chi tiêu đến năm 2050 có thể đạt 275 nghìn tỷ USD.
  • Mức chi tiêu sẽ giảm dần. Chi tiêu cho tài sản vật lý có thể nhiều hơn đáng kể trong giai đoạn đầu của quá trình chuyển đổi, có khả năng tăng lên gần 9% GDP toàn cầu từ năm 2026 đến năm 2030 (so với mức dưới 7% vào năm 2022), tuy nhiên con số này sau đó sẽ giảm dần. Tương tự, giá điện có thể tăng trong một khoảng thời gian trước khi ổn định hoặc giảm dần.
  • Không đồng đều. Các lĩnh vực chiếm khoảng 20% nền kinh tế toàn cầu sẽ chịu ảnh hưởng kinh tế nhiều nhất từ quá trình chuyển đổi về Net Zero. Ngoài ra, các nước đang phát triển và các khu vực giàu nhiên liệu dễ bị ảnh hưởng hơn trước những thay đổi về sản lượng, trữ lượng vốn và việc làm vì các lĩnh vực dễ bị ảnh hưởng chiếm phần tương đối lớn trong nền kinh tế của họ.
  • Nhiều rủi ro. Quá trình chuyển đổi có thể dẫn đến yếu tố giá cả và nguồn cung năng lượng không ổn định nếu không được quản lý một cách cẩn thận.
  • Nhiều cơ hội. Quá trình chuyển đổi phát thải ròng bằng 0 hay Net Zero sẽ tạo ra nhiều cơ hội mới và thị trường mới cho các sản phẩm có lượng phát thải thấp.

Làm thế nào các nhà lãnh đạo doanh nghiệp có thể tạo ra giá trị trong quá trình chuyển đổi về mục tiêu Net Zero?

Khi động lực hướng tới Net Zero là mục tiêu không thể thay thế, các nhà đầu tư, khách hàng và cơ quan quản lý đã bắt đầu nâng cao kỳ vọng của họ đối với các doanh nghiệp.

Gần 90% lượng khí thải hiện đang được đặt mục tiêu giảm theo các cam kết về mức bằng 0 và các tổ chức tài chính chịu trách nhiệm về vốn hiện có hơn 130 nghìn tỷ USD đã cam kết rằng họ sẽ quản lý những tài sản này theo lộ trình tương tự.

Để theo kịp xu hướng này, thay vì chỉ đơn giản là quan sát và ủng hộ, các nhà lãnh đạo doanh nghiệp cần chuyển sang thế tấn công, nỗ lực đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng về các sản phẩm và dịch vụ thân thiện với khí hậu cũng như ưu tiên cho năng lượng xanh trong quá trình sản xuất.

Để có thể có nhiều cơ hội hơn, dưới đây là các chiến thuật mà doanh nghiệp có thể áp dụng:

  • Chuyển đổi danh mục đầu tư kinh doanh, đặc biệt chú ý sang các phân khúc ngành hàng có tiềm năng tăng trưởng cao.
  • Xây dựng các mảng kinh doanh xanh cho phép doanh nghiệp thâm nhập sớm vào các thị trường mới.
  • Tạo ra sự khác biệt bằng các sản phẩm xanh và các đề xuất giá trị mới (USP) trên các thị trường hiện tại để từ đó giành thị phần và bán với giá cao hơn.
  • Thực hành khử carbon trên các chuỗi cung ứng hiện có.

Còn yếu tố công nghệ khí hậu thì sao?

Công nghệ khí hậu (Climate Technology) là bất kỳ công nghệ nào có tác dụng giảm lượng khí thải hoặc giải quyết các tác động của hiện tượng nóng lên toàn cầu. Nó bao gồm nhiều hạng mục khác nhau, tất cả đều nhằm mục đích làm chậm quá trình nóng lên toàn cầu và chuyển đổi các hoạt động sang trạng thái xanh hơn, tức hướng tới mục tiêu Net Zero.

Hiện nay, đa phần các công nghệ giảm phát thải vẫn đang ở giai đoạn nghiên cứu và phát triển (R&D).

Dưới đây 5 lĩnh vực chính mang lại nhiều hứa hẹn khi nói đến công nghệ môi trường và biến đổi khí hậu:

  • Điện khí hóa: bao gồm pin xe điện (EV) và hệ thống quản lý tòa nhà hiệu quả hơn.
  • Nông nghiệp: bao gồm các thiết bị nông nghiệp không phát thải và các nỗ lực kỹ thuật sinh học.
  • Hydro hoá: bao gồm cả nỗ lực xây dựng cơ sở hạ tầng và tạo điều kiện cho các hoạt động sản xuất với chi phí thấp.
  • Các công nghệ khử carbon trong các lĩnh vực khó giảm thiểu hoặc loại bỏ lượng khí thải nhà kính ra khỏi bầu khí quyển.
  • Tính tuần hoàn (nền kinh tế tuần hoàn): nghĩa là tái sử dụng các sản phẩm khi chúng kết thúc vòng đời sử dụng của nó.

Về tổng thể, các công nghệ khí hậu vừa giúp cải thiện các quy trình hiện có nhằm giảm lượng carbon vừa đưa ra các cách mới để tích cực ngăn chặn lượng khí được phát thải vào khí quyển hoặc loại bỏ carbon ra khỏi khí quyển.

Khi nóng lên toàn cầu vẫn là chủ đề được quan tâm nhất từ cả khía cạnh quản trị doanh nghiệp lẫn chính phủ, các chiến lược hay mục tiêu đạt được Net Zero sẽ ngày càng được coi trọng.

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer

Vinamilk hiện chiếm gần 50% thị phần sữa trong nước

Vinamilk hiện sở hữu danh mục 250 dòng sản phẩm đáp ứng hầu hết nhu cầu về sữa ở mọi lứa tuổi.

Vinamilk chiếm gần 50% thị phần sữa trong nước
Vinamilk chiếm gần 50% thị phần sữa trong nước

Mỗi ngày thu lời gần 100 tỷ đồng

Được thành lập từ năm 1976, với gần 50 năm kinh nghiệm, CTCP Sữa Việt Nam – VNM đã tạo dựng được nhận diện thương hiệu vững mạnh với danh mục sản phẩm bao gồm sữa nước, sữa bột, sữa chua, sữa đặc và các loại đồ uống khác.

VNM sở hữu chuỗi giá trị bền vững từ nguồn nguyên liệu (với 15 trang trại và 140.000 con bò) tới khâu sản xuất và phân phối. Số liệu từ báo cáo của VnDirect cho biết, so với các doanh nghiệp cùng ngành, công ty có năng lực sản xuất lớn nhất (16 nhà máy) và hệ thống phân phối rộng nhất (200.000 điểm bán hàng và 200 nhà phân phối độc quyền).

Tính đến tháng 9/2023, VNM đang vận hành 657 cửa hàng “Giấc mơ sữa Việt” (tăng 11cửa hàng so với đầu năm) và 67 cửa hàng sữa Mộc Châu (tăng 14 cửa hàng so với đầu năm). Công ty có kế hoạch thay đổi tên thương hiệu “Giấc mơ sữa Việt” sang “Vinamilk”.

Vinamilk là công ty lớn nhất ngành sữa Việt Nam với khoảng 50% thị phần. Công ty sở hữu danh mục 250 dòng sản phẩm đáp ứng hầu hết nhu câù về sữa ở mọi lứa tuổi.

Trong 2023, doanh thu từ thị trường nội địa đóng góp 83,7% vào tổng doanh thu của VNM. Tính theo các danh mục ngành hàng, sữa nước đóng góp tỷ trọng lớn nhất trong tổng doanh thu, theo sau là sữa chua và sữa bột.

Trong cơ cấu doanh thu, quý 3/2023, doanh thu từ thị trường nội địa đạt 13.253 tỷ đồng, giảm 3,8% so với cùng kỳ năm ngoái. Tổng chung 9 tháng đầu năm đạt 37.904 tỷ đòng, hoàn thành 70,5% kế hoạch năm 2023.

Doanh thu nội địa giảm do sản lượng bán ước tính giảm khoảng 4% so với cùng kỳ do nhu cầu yếu và không còn yếu tố hỗ trợ về giá trong quý 3/2023 so với quý 3/2022.

Doanh thu xuất khẩu tăng 5,0% so với cùng kỳ nhờ sự ổn định tại thị trường Trung Đông và Đông Nam Á. Trong 9 tháng đầu năm, VNM đạt doanh thu 6.983 tỷ đồng từ thị trường nước ngoài. Thêm vào đó, VNM đã ký thỏa thuận hợp tác hai doanh nghiệp hàng đầu trong lĩnh vực nhập khẩu – phân phối sữa để đưa sản phẩm sữa vào thị trường tiềm năng này.

Công ty cũng xuất khẩu được 1.246 tỷ đồng sản phẩm sang thị trường nước ngoài. 9 tháng đầu năm, thị trường nước ngoài mang lại 5.325 tỷ đồng cho VNM.

Doanh thu từ các công ty nước ngoài tăng nhẹ 1,9% so với cùng kỳ chủ yếu nhờ doanh thu Angkormilk tăng 10% so với cùng kỳ.

Trong quý 3, chi phí bán hàng của VNM cũng tăng 3,7% so với cùng kỳ do công ty tăng cường các hoạt động trưng bày, khuyến mãi qua đó khôi phục 2 điểm % thị phần so với tháng 1.

Cùng với đó, thu nhập tài chính tăng mạnh 90,8% so với cùng kỳ nhờ lãi tiền gửi tăng 46,7% trong môi trường lãi suất cao. Tổng chung, lợi nhuận gộp của VNM trong 3 quý đầu năm đạt 25.910 tỷ đồng.

Lợi nhuận ròng quay lại đà tăng trưởng.

Từ tháng 9/2023 VNM đã ra mắt dòng sản phẩm sữa nước với bao bì mới, gây ấn tượng với người tiêu dùng bởi sự trẻ trung và năng động. Thêm vào đó, công ty cũng tổ chức nhiều hoạt động marketing như dùng thử sản phẩm, tặng quà tại các điểm bán hàng để tương tác trực tiếp và nâng cao nhận diện thương hiệu mới với người tiêu dùng. Nhờ đó, thị phần của công ty cải thiện 2 điểm % so với đầu năm trong tháng 9/2023.

Ban lãnh đạo dự phóng nhu cầu tiêu thụ vẫn sẽ duy trì ở mức thấp trong năm 2024 tuy nhiên sẽ dần hồi phục về cuối năm. Công ty vẫn duy trì các hoạt động khuyến mại nhằm thúc đẩy nhu cầu tiêu dùng và tập trung vào các sản phẩm sữa hữu cơ phù hợp với xu hướng tiêu dùng mới hiện nay.

Nói về kế hoạch kinh doanh của VNM, Công ty chứng khoán VnDirect nhận định, năm 2024, sản lượng bán nội địa tăng 2,0% so với cùng kỳ nhờ công ty tăng cường các chiến dịch marketing gần gũi với văn hóa Việt Nam và xu hướng tiêu dùng của giới trẻ và ra mắt các dòng sản phẩm với bao bì mới.

“Chúng tôi cho rằng sản lượng bán tăng sau ba năm giảm liên tiếp là tín hiệu tích cực cho thấy chiến lược tái định vị thương hiệu đang phát huy hiệu quả giúp công ty kiếm lại thị phần trên thị trường sữa nội địa. Trong khi đó, giá bán trung bình dự phóng tăng nhẹ 1,0% so với cùng kỳ. Do vậy chúng tôi kỳ vọng doanh thu nội địa tăng 3,0% so với cùng kỳ trong 2024.

Chúng tôi kỳ vọng công ty ghi nhận doanh thu xuất khẩu tăng 5,1%/5,0% so với cùng kỳ trong 2023 – 2024 nhờ thị trường Trung Đông và Đông Nam Á tăng trưởng ổn định. Trong tháng 9/2023 VNM đã ký thỏa thuận hợp tác hai doanh nghiệp hàng đầu trong lĩnh vực nhập khẩu – phân phối sữa để đưa sản phẩm sữa vào thị trường tiềm năng này.

Thêm vào đó, chúng tôi dự phóng doanh thu các công ty con tại nước ngoài tăng 11,3%/7,6% so với cùng kỳ trong 2023 – 2024 chủ yếu nhờ tăng trưởng doanh thu từ Angkormilk. Nhìn chung, chúng tôi kỳ vọng doanh thu của VNM tăng 2,5%/3,6% so với cùng kỳ trong 2023 – 2024″, báo cáo của VnDirect nhận định.”

Trong một diễn biến khác, VNM đã chốt hợp đồng giá bột sữa nguyên kem tới quý 1/2024. Ban lãnh đạo cho rằng giá bột sữa ghi nhận sự cải thiện trong tháng 10/2023 do Trung Quốc có tín hiệu nhập khẩu trở lại. Tuy nhiên, công ty kỳ vọng giá bột sữa nguyên kem sẽ được giao dịch ở mức trung bình 2.500 USD/tấn, mức tương đương năm 2020 do nhu cầu nhập khẩu tại Trung Quốc chưa phục hồi đáng kể.

Về tiến độ trang trại, hiện trang trại tại Lào của VNM đang có 2.000 con với năng suất cho sữa cao hơn các trang trại tại Việt Nam. Công ty dự kiến nhập khẩu thêm 6.000 con bò, tăng tổng số lượng trong đàn bò lên 8.000 con tại Lào.

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer

 

Theo Pha Lê | Markettimes

Doanh thu quảng cáo của YouTube giảm mạnh tính từ quý 4 năm 2021

‏Theo Variety, doanh thu quảng cáo hàng quý của YouTube đã giảm 2,6% từ 6,87 tỷ USD năm ngoái xuống còn 6,69 tỷ USD trong quý đầu tiên của năm nay. Doanh thu của YouTube cũng đã giảm 7,8% trong quý 4 năm 2022 sau khi giảm 1,9% trong quý trước đó.

Doanh thu quảng cáo của YouTube giảm mạnh tính từ quý 4 năm 2021
Doanh thu quảng cáo của YouTube giảm mạnh tính từ quý 4 năm 2021

Trong những ngày qua, chiến dịch triệt tiêu các trình chặn quảng cáo của YouTube đã gây ra là sóng phản đối gay gắt từ người dùng. Nhìn từ phía người dùng, có vẻ như quảng cáo (Advertising) trên YouTube đã ngoài sức chịu đựng của họ.

Người dùng không chỉ phải xem quảng cáo trong video, mà còn có quảng cáo ngoài video, xuất hiện trên khắp trang chủ YouTube. Quảng cáo độc hại, lừa đảo tràn làn cũng là một trong những nguyên nhân khiến nhiều người ngao ngán.

Không chỉ thế, một số người dùng muốn có các tính năng bổ sung mà Premium không cung cấp được, điển hình như khả năng xem lượt Like và Dislike của một video.

Nhưng trên thực tế, việc người dùng muốn có một YouTube miễn phí và không quảng cáo là bất khả thi. Có vẻ đây sẽ là một ý kiến kỳ lạ, nhưng chúng ta hãy thử nhìn lại vấn đề quảng cáo từ phía YouTube.

Cuộc chiến chặn quảng cáo nhìn từ phía YouTube.

Nếu xem việc YouTube ra sức ngăn cản trình chặn quảng cáo giống như đang “tuyên chiến” với người dùng, thì rất dễ để nhận định YouTube (hay nói rộng hơn là Google) chính là kẻ tấn công, và những người dùng trình chặn quảng cáo là phe bị công kích. Tuy nhiên, câu thành ngữ “Không có lửa làm sao có khói” dường như khá đúng ở đây.

Khi Google mua YouTube vào năm 2006, trang web non trẻ này vẫn không tạo ra một đồng lãi nào, dù nó vốn đã là một hiện tượng văn hóa, với các video lan truyền được xem hàng triệu lần mỗi ngày, nhưng lại không kiếm được tiền. Phải đến năm 2009, Google mới thu được lợi nhuận đầu tiên từ khoản đầu tư 1,65 tỷ USD vào trang chia sẻ video này. Google làm được điều này thông qua một nguồn doanh thu duy nhất: quảng cáo.

Kể từ năm 2009, Google tiếp tục phụ thuộc chủ yếu vào doanh thu quảng cáo để duy trì hoạt động của YouTube. Việc giới thiệu YouTube Premium — một dịch vụ đăng ký trả phí cung cấp YouTube và YouTube Music không có quảng cáo — đã tăng doanh thu lên một chút nhưng vẫn không thấm vào đâu so với những gì Google kiếm được từ quảng cáo, chỉ tính riêng năm 2022 đã đạt hơn 29 tỷ USD.

Hàng tỷ USD đó được chia sẻ một phần với những nhà sáng tạo nội dung trên YouTube. Một phần lớn khác dùng để giúp trang web hoạt động: trả lương nhân viên, phát triển và tất nhiên là duy trì số lượng máy chủ cực lớn cần thiết để lưu trữ khoảng 3,7 triệu video được tải lên YouTube mỗi ngày. Bất cứ doanh thu nào còn sót lại sẽ được chuyển đến túi của Google.

YouTube nhất định phải kiếm được tiền để tồn tại. Google chưa bao giờ công khai về chi phí lưu trữ, băng thông, nhân viên, v.v. của dịch vụ, nhưng ước tính nó lên tới hàng triệu USD mỗi ngày. Ngay cả khi Google quyết định điều hành YouTube “vì lòng tốt” mà không quan tâm đến lợi nhuận, họ vẫn cần kiếm được hàng tỷ USD mỗi năm chỉ để hòa vốn. Trên thực tế, doanh thu quảng cáo của công ty đang giảm.‏

YouTube cần phải có lãi.

Google ngày càng muốn tăng doanh thu từ YouTube, và quảng cáo chính là thứ mà họ tìm đến. Tại thời điểm này, quảng cáo xuất hiện ở khắp mọi nơi trên YouTube, ngay cả ở ngoài màn hình chính và trong chính các video. Google có thể đã kỳ vọng điều này sẽ thúc đẩy nhiều người đăng ký Premium hơn, tuy nhiên, nó lại chủ yếu khiến người ta muốn dùng các trình chặn quảng cáo và điều này đã ảnh hưởng đến doanh thu của YouTube.

‏Theo Variety, doanh thu quảng cáo hàng quý của YouTube đã giảm 2,6% từ 6,87 tỷ USD năm ngoái xuống còn 6,69 tỷ USD trong quý đầu tiên của năm nay. Doanh thu của YouTube cũng đã giảm 7,8% trong quý 4 năm 2022 sau khi giảm 1,9% trong quý trước đó.

Việc một công ty mất doanh thu tất nhiên không phải là một điều tốt. YouTube đang phải chịu sự cạnh tranh với các nền tảng khác như TikTok hay Instagram Reels.

Và Google không phải chỉ cần lo lắng đến chi phí máy chủ và nhân viên. Họ cũng cần phải kiếm đủ tiền để trả cho hàng triệu nhà sáng tạo nội dung, vì đây là nhân tố cốt lõi khiến người xem gắn kết với YouTube. Những nhà sáng tạo đó không thể làm việc miễn phí, do đó Google còn phải chi thêm nhiều triệu USD mỗi ngày để duy trì mức độ hấp dẫn cho YouTube.

Là một doanh nghiệp, Google tất nhiên quan tâm chủ yếu đến lợi nhuận, vì vậy YouTube cần kiếm nhiều hơn mức chỉ vừa đủ để trang trải chi phí và trả tiền cho nhà sáng tạo.

Google cần thêm hàng tỷ USD mỗi năm cho những chi phí đó. Nhiều tỷ USD này sẽ đến từ đâu?

YouTube Premium có thể tạo ra doanh thu cho YouTube nhưng không thể bằng doanh thu được tạo ra từ quảng cáo. Doanh thu YouTube Premium đến từ phí đăng ký hàng tháng do người dùng chọn.

Ngược lại, quảng cáo tạo doanh thu dựa trên số lượt xem và số nhấp vào quảng cáo nhận trên YouTube. Các nhà quảng cáo trả tiền cho YouTube để hiển thị quảng cáo của họ và YouTube chia sẻ một phần doanh thu đó với người tạo nội dung dựa trên lượt xem và mức độ tương tác của video.

Mặc dù YouTube Premium có thể tạo ra doanh thu cho nền tảng này nhưng nó khó có thể đủ để chi trả mọi thứ. Hơn nữa, theo một nhà sáng tạo nội dung YouTube chia sẻ trên Reddit, YouTube không hưởng toàn bộ doanh thu từ phí đăng ký Premium, mà doanh thu đó cũng sẽ được chia sẻ với các nhà sáng tạo nội dung.

Giải pháp tốt nhất của Google cho vấn đề này là quảng cáo. Quảng cáo giúp mọi người có thể sử dụng trang web miễn phí — cả để xem và tải video lên. Đối với những người không thể chịu được quảng cáo, Google cung cấp YouTube Premium.

Đối với những người không thể xem quảng cáo hoặc trả tiền cho Premium, luôn có tùy chọn thứ ba theo góc nhìn của Google, đó là không xem YouTube. Và họ thực sự đã làm như vậy trong chiến dịch càn quét trình chặn quảng cáo mới nhất.

Cuối cùng, đó là một cái vòng luẩn quẩn giữa người xem, nhà sáng tạo nội dung, và YouTube: Người dùng xem video từ nhà sáng tạo, YouTube cần trả phí cho nhà sáng tạo để khuyến khích họ đăng video, và người dùng sẽ trả số tiền đó nếu không nền tảng YouTube sẽ sụp đổ.

Quảng cáo trên YouTube: Đi tìm điểm cân bằng.

Chúng ta đã biết cuộc chiến này có hai phía, nhưng trên thực tế, vẫn còn một bên nữa âm thầm tham gia, mà sẽ được đề cập đến sau.

Hiện tại, nhìn từ hai phía của cuộc chiến quảng cáo, thì giải pháp là gì? Một nhóm ít người dùng khăng khăng rằng không bao giờ nên trả tiền cho YouTube và quảng cáo phải biến mất hoàn toàn. Đối với những người này, cách duy nhất để họ hài lòng là có thể sử dụng YouTube miễn phí mà không có quảng cáo ở bất cứ đâu.

Không cần phải nói, đây là một lập luận buồn cười. Google là một doanh nghiệp và cần kiếm tiền. YouTube là một sản phẩm đắt đỏ để duy trì. Nếu mọi người có thể sử dụng nó mà không cần xem quảng cáo và không đăng ký Premium thì nền tảng này sẽ chết. Nó cần tiền, giống như mọi việc kinh doanh khác.

Nhiều người khác chỉ bất mãn với một số quảng cáo. Họ muốn quảng cáo trong video biến mất vì chúng làm gián đoạn trải nghiệm xem, hoặc ít nhất là YouTube nên kiểm soát quảng cáo tốt hơn để không còn những quảng cáo nhạy cảm, lừa đảo, đồng thời giới hạn lượng quảng cáo ở mức hợp lý trong video. Các quảng cáo khác ngoài video vẫn ổn.

Những nhà sáng tạo quảng bá nội dung được tài trợ cũng không sao, bởi vì những người sáng tạo đó sẽ mất khán giả nếu họ quảng cáo loại nội dung này quá nhiều, vì vậy đó là một hệ thống tự kiểm soát.

Một nhóm khác sẵn sàng trả tiền cho YouTube Premium. Tuy nhiên, mong muốn đăng ký này nên xóa mọi quảng cáo khỏi trang web, bao gồm cả nội dung được tài trợ trong chính video đó. Premium cũng nên cung cấp các tính năng mà người dùng muốn và đã sử dụng thông qua các ứng dụng bên thứ ba chẳng hạn như Vanced. YouTube Premium nên có giá rẻ hơn nếu người dùng không mua YouTube Music Premium.

Đây là lúc mà ý kiến của phía thứ ba cần được xem xét, đó chính là các nhà phát triển trình chặn quảng cáo.

Một “thỏa thuận đình chiến” với YouTube dường như khó xảy ra trong tương lai gần, nhưng các nhà cung cấp công cụ chặn quảng cáo, nhà phát hành và nhà quảng cáo đã cố gắng đạt được thỏa thuận trung lập về các định dạng quảng cáo ít rắc rối hơn mà các trình chặn quảng cáo sẽ cho phép thông qua.

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer

 

Theo Tuấn Nguyễn | Markettimes

Để giải quyết các vấn đề lớn, doanh nghiệp cần khiến nhân viên trở thành một phần không thể thiếu

Với tư cách là những nhà lãnh đạo doanh nghiệp, để có thể giải quyết các vấn đề lớn, doanh nghiệp cần khiến nhân viên trở thành một phần không thể thiếu, họ phải cảm giác được tính liên kết tới sứ mệnh của doanh nghiệp.

Để giải quyết các vấn đề lớn, doanh nghiệp cần khiến nhân viên trở thành một phần không thể thiếu
Để giải quyết các vấn đề lớn, doanh nghiệp cần khiến nhân viên trở thành một phần không thể thiếu

Trong phạm vi doanh nghiệp, bất kể cấp bậc của nhân viên của bạn là gì, hầu hết trong số họ đều muốn tin rằng những gì họ làm hàng ngày đều quan trọng, đều tạo ra giá trị cho doanh nghiệp. Tuy nhiên, trong thực tế, ý nghĩa về công việc thực sự là thứ rất khó tìm kiếm.

Dù cho công việc hiện tại của nhân viên là gì hay họ thuộc bộ phận nào, việc phải đối mặt với những khó khăn trong công việc là điều khó tránh khỏi. Cũng chính vì điều này mà một trong những kỹ năng hàng đầu của một nhà lãnh đạo đó là xây dựng cảm hứng làm việc cho nhân viên của mình.

Trong khi tiền lương rõ ràng là nhu cầu hết sức căn bản, bản chất của con người là muốn dành thời gian để làm những việc gì đó có ý nghĩa hơn là chỉ kiếm tiền. Cũng từ góc nhìn này, các nhà lãnh đạo giỏi là những người sẽ tìm mọi cách để kết nối công việc của nhân viên với điều gì đó lớn lao hơn ví dụ như sứ mệnh của doanh nghiệp với xã hội.

Một môi trường làm việc đầy cảm hứng — và đi kèm với khả năng thúc đẩy hiệu suất chính là phần thường có được cho cả nhân viên, nhà lãnh đạo và doanh nghiệp.

Xây dựng một nền văn hóa doanh nghiệp nơi mọi thành viên trong đội nhóm đều cảm thấy mình là một phần của sứ mệnh lớn hơn.

Trong hầu hết các doanh nghiệp, cơ cấu tổ chức của doanh nghiệp thường sẽ bao gồm nhiều bộ phận hay phòng ban khác nhau, mỗi phòng ban lại có những nhân viên hàng ngày thực hiện các công việc tạo ra các kết quả khác nhau.

Về bản chất, vì chỉ là một thành viên nhỏ của một tổ chức lớn, các nhiệm vụ trực tiếp của họ hiếm khi liên quan đến các bức tranh lớn hơn như tốc độ tăng trưởng, thị phần, doanh số bán hàng, hay các tác động của nó đến xã hội bao gồm cả cuộc sống của khách hàng.

Nếu mọi thứ chỉ dừng lại ở đây, rõ ràng là ít có nhân viên nào có thể cảm nhận được sự quan trọng hay ý nghĩa của các công việc hàng ngày mà họ đang làm, cũng từ đây, các khái niệm về chiến lược hay mục tiêu chung của doanh nghiệp đối với họ dường như là thứ rất khó nắm bắt.

Với tư cách là một nhà lãnh đạo, bạn cần phải xoá bỏ rào cản này, xây dựng các bằng chứng kết nối các công việc của họ tới bức tranh chung của doanh nghiệp. Bức tranh chung của doanh nghiệp không chỉ có doanh số hay lợi nhuận vốn thuộc về doanh nghiệp mà còn cả sứ mệnh của doanh nghiệp với khách hàng, cộng đồng và xã hội nói chung.

Điều này cũng có nghĩa là, đứng trước bất cứ bối cảnh nào của doanh nghiệp, dù là khó khăn hay thắng lợi, họ luôn cảm nhận được hình ảnh của mình ở trong đó, cách họ đóng góp và giải quyết thách thức chung của doanh nghiệp.

Chiến lược của doanh nghiệp giờ đây không chỉ còn là câu chuyện của nhà lãnh đạo, nó còn là một phần trách nhiệm và quyền lợi của chính nhân viên.

Các nhà lãnh đạo khác nhau làm điều này theo những cách khác nhau.

Khi điều hành quỹ cùng tên của mình, Bill Gates và Melinda Gates, trong hơn hai thập kỷ, đã nỗ lực một cách có chủ ý để cho các nhân viên (và cả các nhà đầu tư) của mình thấy rằng mọi người cần phải nỗ lực và làm việc nhiều hơn nữa để các dự án của doanh nghiệp có thể thành công.

Với các dự án, họ bắt đầu với những trang giấy trắng và sau đó lấp đầy nó bằng những phát hiện, câu trả lời hay kết quả mà họ tìm thấy, dù là từ các cuộc nghiên cứu, khảo sát hay tranh luận.

Văn hóa học tập liên tục này không chỉ khiến mỗi ngày làm việc của nhân viên trở nên mới mẻ mà còn khiến công việc của họ trở nên trọn vẹn hơn theo những cách thực tế và hữu hình.

Một ví dụ khác rất đáng học hỏi là của Greg Page, Giám đốc điều hành lâu năm của Cargill, một trong những tập đoàn lớn nhất toàn cầu có trụ sở tại Mỹ.

Giữa nạn đói ở châu Phi, Page quyết định từ bỏ một số công việc của mình, quyên góp 10.000 tấn gạo (tương đương khoảng 22 triệu bảng Anh) để giúp nuôi sống những người dân đang trong tình trạng đói khát.

Khi được hỏi về điều đó, Page chỉ nói đơn giản: “Đây là công việc của chúng tôi”. Hiển nhiên, vấn đề không nằm ở số tiền hay số gạo quyên góp, ẩn ý cho điều này chính là — sứ mệnh của họ là cung cấp thức ăn cho mọi người.

Nhà lãnh đạo này sau đó cũng đã nói rất nhiều về quyết định này vì ông muốn các đồng đội của mình cảm thấy hài lòng về bản thân và mục đích công việc của họ.

Tương tự, khi Paul Polman còn là Giám đốc điều hành của Unilever, một gã khổng lồ ngành FMCG, ông đã giúp đưa công ty vốn có mức lợi nhuận khổng lồ này trở về với ý nghĩa gốc rễ của nó.

Unilever bán hầu hết mọi thứ, từ nước xịt toàn thân Axe cho đến kem Ben & Jerry. Nhưng Polman muốn đội nhóm của mình và mọi người khác biết rằng công ty có mục đích cao hơn ngoài việc chỉ bán những sản phẩm này và tìm kiếm lợi nhuận.

Sau khi hỗ trợ cho chương trình tích cực rửa tay nhằm cải thiện vệ sinh và sức khỏe ở một số khu vực nghèo nhất thế giới, Polman nói rằng Unilever phục vụ nhiều hơn cho những khách hàng trả tiền và, theo một cách nào đó, nó là “tổ chức phi chính phủ lớn nhất thế giới”.

Điều mà mỗi nhà lãnh đạo này chia sẻ là niềm tin sâu sắc rằng sứ mệnh của họ là mang lại lợi ích cho nhân loại và quyết tâm khiến mọi người trong doanh nghiệp đều có cùng cảm hứng.

Thông thường, nhiều người quản lý cấp dưới phải tập trung vào nhiệm vụ và kết quả đầu ra (trực tiếp), nhưng người điều hành phải luôn nhìn được bức tranh toàn cảnh hơn, sau đó giúp đồng đội của mình nhìn thấy chính mình trong đó.

Trong khi các cách tiếp cận này có thể phải được thực hiện theo từng bước nhỏ và trong thời gian dài, nhưng đôi khi nó lại đòi hỏi những hành động dứt khoát vào những thời khắc quan trọng.

Ý nghĩa và mục đích của doanh nghiệp vốn là thứ không phải dễ dàng được truyền đạt, nhưng chúng có thể mang lại hiệu suất đáng kinh ngạc cho nhân viên, đội nhóm và cả tổ chức nói chung.

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer

Sam Altman đang quay trở lại làm CEO OpenAI (và BOD đã có cấu trúc mới)

Theo nguồn tin từ TechCrunch có được từ những người thân cận, Sam Altman được cho là đang quay trở lại làm CEO của OpenAI.

Sam Altman đang quay trở lại làm CEO OpenAI
Sam Altman đang quay trở lại làm CEO OpenAI

Theo đó, Sam Altman sẽ trở lại OpenAI với tư cách là giám đốc điều hành (CEO), nguồn tin thân cận cho biết đó là kết quả sau 5 ngày thảo luận, tranh luận và thuyết phục căng thẳng giữa hội đồng quản trị OpenAI với Sam Altman ngay sau khi CEO này đột ngột bị sa thải.

OpenAI, công ty khởi nghiệp hiện có giá trị nhất ở Mỹ, cho biết họ đã đạt được “thỏa thuận về nguyên tắc làm việc” để Altman quay trở lại. Công ty khởi nghiệp này cũng đang cải tổ lại hội đồng quản trị của mình, loại bỏ một số thành viên không còn phù hợp và hơn thế nữa.

Cựu giám đốc điều hành Salesforce Bret Taylor, cựu Bộ trưởng Tài chính Mỹ Larry Summers và người sáng lập Quora Adam D’Angelo sẽ là thành viên hội đồng quản trị mới của OpenAI, trong đó Taylor sẽ giữ chức chủ tịch hội đồng quản trị.

“Chúng tôi tin rằng đây là bước thiết yếu đầu tiên trên con đường hướng tới quản trị ổn định hơn, đầy đủ thông tin và hiệu quả hơn. Cả Sam, Greg và chúng tôi đã nói chuyện và nhất trí rằng họ có vai trò quan trọng cùng với đội ngũ lãnh đạo OpenAI trong việc đảm bảo công ty tiếp tục phát triển và xây dựng sứ mệnh của mình. Chúng tôi mong muốn được xây dựng mối quan hệ hợp tác bền chặt và mang lại giá trị của thế hệ AI tiếp theo này cho khách hàng và đối tác của chúng tôi.”

Emmett Shear, cựu giám đốc điều hành Twitch, người mới đây được bổ nhiệm làm lãnh đạo lâm thời của OpenAI, cho biết ông hài lòng với quyết định mới của OpenAI. “Khi đến với OpenAI, tôi không chắc con đường đúng đắn sẽ là gì, tuy nhiên tôi rất vui vì đã trở thành một phần của công ty, của các giải pháp do công ty xây dựng.”

[Cập nhật: Phó chủ tịch OpenAI cũng đang quay lại OpenAI khi Sam Altman trở về vị trí CEO].

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer

YouTube sẽ bắt đầu chặn một số nội dung do AI tạo ra

Khi AI trở thành một mối nguy với YouTube trong việc ăn cắp bản quyền nội dung và sáng tạo, nền tảng mới đây đã công bố quy trình xét duyệt và chặn một số nội dung do AI tạo ra.

YouTube sẽ bắt đầu chặn một số nội dung do AI tạo ra
YouTube sẽ bắt đầu chặn một số nội dung do AI tạo ra

Theo đó, YouTube mới đây đã công bố quyết định cấm các bản hát lại (Cover) sử dụng công nghệ AI. Tuy nhiên, lệnh cấm sẽ chỉ dành cho các nội dung bắt chước con người.

Trong vài tháng tới, YouTube cho biết nền tảng sẽ bắt đầu xoá bỏ các nội dung AI bắt chước con người, đặc biệt là các nội dung đó bắt chước những người nổi tiếng hoặc có sức ảnh hưởng (Influencer).

YouTube cũng sẽ bắt đầu yêu cầu các nhà sáng tạo nội dung sử dụng các công cụ AI tổng hợp để phát hiện các nội dung do AI tạo ra trong video của họ. Nếu không tuân thủ điều này, các nhà sáng tạo có thể bị cấm tham gia Chương trình Đối tác của YouTube (YPP).

YouTube muốn loại bỏ các nội dung do AI tạo ra.

Bằng cách hợp tác với các hãng thu âm, YouTube sẽ bắt đầu ngăn chặn các nội dung do AI tạo ra, đặc biệt là các bản cover nhạc và nội dung bắt chước nghệ sĩ.

Theo quy định mới, YouTube sẽ có hai bộ nguyên tắc hướng dẫn nội dung dành cho các sản phẩm từ deepfake AI với mục tiêu vừa bảo vệ các đối tác trong ngành âm nhạc hiện có trên nền tảng vừa bảo vệ chính các nhà sáng tạo hay người dùng đang sử dụng nền tảng để sáng tạo nội dung (độc quyền).

Nhà sáng tạo sẽ khó kiếm tiền từ các sản phẩm AI.

Việc đàn áp các nội dung do AI tạo ra cho thấy rằng, YouTube (và cả nhiều nền tảng khác) không mấy ủng hộ việc nhà sáng tạo sử dụng công cụ để tạo ra các nội dung với mục đích kiếm tiền.

Nếu nhà sáng tạo muốn dựa vào AI để xây dựng nội dung, điều này là hết sức bình thường, tuy nhiên khi nói đến việc sử dụng nó để kiếm tiền từ YouTube hay thậm chí là cho các hoạt động thương mại khác, đó có thể là hành vi vi phạm chính sách.

Cũng theo thông tin mới đây, YouTube đã bắt đầu hợp tác với với Universal Music Group (UMG) để định hình lại cách tiếp cận đối với các nội dung AI. Các nội dung có bản quyền sẽ được bảo vệ, và nhà sáng tạo sẽ phải tuân thủ các điều khoản về luật sở hữu trí tuệ.

Trong khi AI và các tác động của nó đến ngành sáng tạo nội dung nói riêng và nền kinh tế nói chung vẫn còn là một dấu chấm hỏi, cách tiếp cận an toàn và đúng đắn nhất là từ khía cạnh ưu tiên sự an toàn, tuân thủ các quy định (Luật) liên quan và hơn thế nữa.

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer

CEO Salesforce muốn tuyển quân từ OpenAI nhưng bị từ chối

CEO Marc Benioff của gã khổng lồ công nghệ Salesforce (Mỹ) đưa ra lời đề nghị là tuyển nhân sự từ OpenAI hoặc gia nhập nhóm nghiên cứu AI của OpenAI tuy nhiên bị từ chối.

CEO Salesforce muốn tuyển quân từ OpenAI nhưng bị từ chối
CEO Salesforce muốn tuyển quân từ OpenAI nhưng bị từ chối

Theo đó, trước thông tin khoảng 700 nhân viên của OpenAI cùng ký vào bức thư yêu cầu hội đồng quản trị của OpenAI từ chức đồng thời đưa CEO Sam Altman và Phó chủ tịch Brockman quay trở lại nếu không tất cả họ sẽ nghỉ việc, giám đốc điều hành Salesforce Inc. Marc Benioff đã đưa ra đề nghị tuyển dụng ngay các nhà nghiên cứu tại OpenAI hoặc gia nhập nhóm nghiên cứu AI của OpenAI.

Theo một bài đăng của chính CEO này trên mạng xã hội X (Twitter), Salesforce sẽ cung cấp khoản bồi thường tương xứng cho bất kỳ nhà nghiên cứu nào đã rời khỏi OpenAI.

Hơn 700 trong số khoảng 770 nhân viên của OpenAI đã ký một lá thư gửi tới hội đồng quản trị của OpenAI nói rằng những người ký kết “không thể làm việc cho hoặc với những người thiếu năng lực, khả năng phán đoán và quan tâm đến sứ mệnh và nhân viên của công ty”.

Lời đề nghị từ CEO Benioff được cho là đã bị từ chối khi nhóm nhân viên này vẫn kỳ vọng rằng Sam Altman sẽ sớm quay về từ Microsoft.

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer

Grab lần đầu tiên công bố hòa vốn sau hơn một thập kỉ

Grab đã công bố kết quả kinh doanh quý 3/2023 với doanh thu tăng 61% đạt 615 triệu USD, chậm lại so với mức tăng ba con số trong những năm qua, do khách hàng trong khu vực hạn chế chi tiêu để đối phó với lạm phát và lãi suất tăng cao.

Grab lần đầu công bố hòa vốn sau một thập kỉ
Grab lần đầu công bố hòa vốn sau một thập kỉ

Kết thúc 9 tháng đầu năm 2023, doanh thu lũy kế của Grab đạt 1,7 tỉ USD, tăng 83% so với cùng kỳ năm trước. Khấu trừ chi phí, công ty này báo lỗ 496 triệu USD sau 9 tháng đầu năm nay, trong khi cùng kỳ năm trước bão lỗ hơn 1,3 tỉ USD.

Đáng chú ý, chỉ số EBITDA (lợi nhuận trước thuế, khấu hao và lãi vay) của Grab lần đầu ở mức dương, đạt 29 triệu USD trong quý 3/2023, sau hơn 10 năm thành lập.

Tính trong 9 tháng, EBITDA của Grab vẫn âm 57 triệu USD. Khoản lỗ này đã được thu hẹp đáng kể từ mức 682 triệu USD trong 9 tháng đầu năm 2022.

Trang Bloomberg nhận định, dù EBITDA không thể so với lãi ròng, nhưng đã là một bước tiến lớn của Grab trong việc cố gắng chứng tỏ cho nhà đầu tư thấy doanh nghiệp có thể kiếm tiền, chứ không chỉ đốt tiền.

Dù Grab dẫn đầu thị phần gọi xe và giao đồ ăn ở Đông Nam Á nhưng thương hiệu này vẫn chưa có lợi nhuận khi còn phải đốt tiền cạnh tranh cùng các đối thủ như Goto ở Indonesia.

Ông Anthony Tan – Nhà sáng lập Grab cho biết: “Chúng tôi có thể khẳng định rõ ràng rằng, đây có thể coi như cột mốc lịch sử trong hành trình phát triển của Grab. Chúng tôi sẽ tập trung nhiều hơn vào kích thích tăng trưởng doanh thu và lợi nhuận cũng như thực hiện tốt sứ mệnh của chúng tôi”.

Trong cuộc phỏng vấn với Nikkei Asia, Giám đốc tài chính của Grab – ông Peter Oey nói đến việc công ty đang phấn đấu có dòng tiền dương như những mục tiêu tài chính cần hướng tới tiếp theo, dự kiến sẽ là thời điểm cuối năm 2024.

Theo phân tích của Nikkei, việc Grab hòa vốn lần đầu tiên sau hơn một thập kỷ là kết quả trực tiếp từ việc doanh nghiệp đã cắt giảm chi phí hiệu quả cũng như tạm thời hoãn việc tuyển dụng mới.

Vào tháng 6/2023, Grab công bố cắt giảm khoảng hơn 1.000 việc làm tức tương đương khoảng 11% tổng nhân sự, đây là đợt sa thải mạnh tay nhất tính từ đại dịch Covid-19.

Từ thời điểm đó đến nay, Grab đã giảm bớt quy mô các chương trình khuyến mại dành cho người dùng và tài xế mới, thay vào đó, tập trung nhiều hơn vào đối tượng khách hàng truyền thống.

Tổng số tiền Grab dùng để hỗ trợ cho khách hàng ước tính khoảng 216 triệu USD trong quý 3/2023, giảm 22% so với cùng kỳ năm trước, tổng số tiền hỗ trợ cho đối tác giảm 17% xuống còn 165 triệu USD.

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer

Theo The Leader

Meta giới thiệu Emu Video và Emu Edit: Công cụ AI chỉnh sửa hình ảnh và xây dựng video

Meta vừa giới thiệu Emu Video và Emu Edit, các công cụ trí tuệ nhân tạo (AI) dùng để chỉnh sửa hình ảnh và xây dựng video phục vụ cho mục tiêu làm quảng cáo và marketing.

Meta giới thiệu Emu Video và Emu Edit: Công cụ AI chỉnh sửa hình ảnh và xây dựng video
Meta giới thiệu Emu Video và Emu Edit: Công cụ AI chỉnh sửa hình ảnh và xây dựng video

Sẽ sớm được ra mắt trên cả InstagramFacebook, các công cụ AI mới của Meta sẽ cho phép các nhà sáng tạo nội dung (content creator) xây dựng video và chỉnh sửa hình ảnh thông qua các câu lệnh (prompts) đơn giản.

Ở công cụ đầu tiên, Emu Video, các nhà sáng tạo có thể sử dụng để tạo ra các video ngắn bằng cách nhập vào các yêu cầu như cách vẫn tương tác với các mô hình ngôn ngứ lớn (ChatGPT).

Emu Video cũng có thể tạo ra các video dựa trên dữ liệu đầu vào là hình ảnh, nhà sáng tạo hay thương hiệu từ đây có thể tận dụng các hình ảnh do người dùng (khách hàng) cung cấp để xây dựng các video liên quan.

Với công cụ thứ hai là Emu Edit, nhà sáng tạo có thể chỉnh sửa nhanh hình ảnh từ các hướng dẫn đầu vào. Tất cả các tác vụ đơn giản như xoá phông nền, thay đổi màu sắc, hay chuyển đổi hình ảnh đều có thể được hoàn thành trong giây lát.

Theo phát ngôn của Meta:

“Hãy tưởng tượng rằng việc tạo nhãn dán hoạt hình hoặc ảnh GIF thông minh của riêng bạn một cách nhanh chóng để gửi ngay vào các cuộc trò chuyện nhóm thay vì phải tìm kiếm từ các nguồn khác.”

“Mặc dù không thể thay thế cho các phương pháp chuyên nghiệp khác, nhưng Emu Video, Emu Edit và các công nghệ mới tương tự như chúng có thể giúp mọi người thể hiện bản thân theo những cách mới – từ việc một giám đốc nghệ thuật lên ý tưởng về một khái niệm mới hoặc một nhà sáng tạo đang tìm cách làm sống động video mới nhất của họ, cho đến hành động thiết kế nên những lời chúc sinh nhật độc đáo cho một người bạn thân. Hẳn là nó sẽ rất đáng để khám phá.”

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer

Phân biệt khái niệm mô hình ngôn ngữ lớn (LLMs) và công cụ tìm kiếm (Search Engines)

Trong phạm vi bài viết này, hãy cùng MarketingTrips tìm hiểu các khái niệm cơ bản về mô hình ngôn ngữ lớn (LLMs), sự khác biệt giữa nó với công cụ tìm kiếm (Search Engines), những cơ hội với các mô hình ngôn ngữ lớn như ChatGPT và hơn thế nữa.

Phân biệt khái niệm mô hình ngôn ngữ lớn (LLMs) và công cụ tìm kiếm (Search Engines)
Phân biệt khái niệm mô hình ngôn ngữ lớn (LLMs) và công cụ tìm kiếm (Search Engines)

Trong những tháng trở lại đây, dù bạn là người làm trong lĩnh vực công nghệ hay đơn giản là sử dụng công nghệ để gia tăng năng suất làm việc, các mô hình ngôn ngữ lớn AI (LLM) như ChatGPT hay Google Bard có thể đã không còn quá xa lạ.

Kể từ khi ra đời và trở nên phổ biến, các mô hình như ChatGPT trở thành những công cụ đắc lực hỗ trợ cho việc tìm kiếm thông tin, ý tưởng và nhiều thứ khác, và cũng từ đây, nhiều người cũng tự hỏi vậy các mô hình ngôn ngữ lớn này có gì khác so với công cụ tìm kiếm, nó là công cụ thay thế hay hỗ trợ lẫn nhau.

Dưới đây là tất cả sự khác biệt chính giữa công cụ tìm kiếm và mô hình ngôn ngữ lớn.

Mô hình ngôn ngữ lớn (LLMs) khác với công cụ tìm kiếm (Search Engines) về chức năng.

Các mô hình ngôn ngữ lớn AI được thiết kế để tạo ra các đoạn văn bản (text) giống như cách con người vẫn sử dụng dựa trên thông tin đầu vào mà chúng nhận được. Chúng có thể trả lời các câu hỏi, soạn thảo nội dung, đưa ra đề xuất, hỗ trợ thực hiện nhiệm vụ và hơn thế nữa.

Mặc dù ban đầu, các công cụ như ChatGPT không hỗ trợ tìm kiếm trên web nhưng giờ đây nó có thể duyệt web hay Internet nếu bạn đang sử dụng phiên bản 4 hoặc Plus. Tuy nhiên, một số mô hình ngôn ngữ lớn AI khác lại chủ yếu tập trung tạo ra các phản hồi dựa trên lượng lớn dữ liệu đào tạo mà chúng đã được cung cấp (được đào tạo).

Ngược lại, các công cụ tìm kiếm như Google hay Bing được thiết kế để lập chỉ mục và truy xuất thông tin từ các trang web tồn tại sẵn trên không gian internet thông qua các truy vấn tìm kiếm hay từ khoá.

Bản chất của các công cụ tìm kiếm là liệt kê những thông tin có sẵn công khai thay vì tạo ra thông tin hay nội dung như các mô hình ngôn ngữ lớn.

Trong khi cả mô hình ngôn ngữ lớn và công cụ tìm kiếm đều phục vụ mục đích tìm kiếm thông tin, chúng dường như hỗ trợ lẫn nhau hơn là bài trừ nhau.

Mô hình ngôn ngữ lớn khác với công cụ tìm kiếm về nguồn dữ liệu.

Như đã phân tích ở trên, các mô hình ngôn ngữ lớn được đào tạo trên một tập hợp dữ liệu lớn (Big Data), năng lực của chúng phụ thuộc khá nhiều vào lượng dữ liệu đầu vào này. Ngược lại, các công cụ tìm kiếm sẽ truy xuất trực tiếp các dữ liệu hiện có.

Mặc dù các công cụ tìm kiếm như Google còn có cái gọi là thuật toán xếp hạng, tuy nhiên, dù thuật toán này có như thế nào thì bản chất nó vẫn đang lấy các tập dữ liệu có sẵn (và sau đó xếp hạng chúng).

Mô hình ngôn ngữ lớn khác với công cụ tìm kiếm về cách tương tác.

Một trong những đặc điểm nổi bật của các mô hình ngôn ngữ lớn như ChatGPT đó là khả năng đàm thoại hay trả lời trực tiếp theo hình thức hội thoại giống người, thứ mà công cụ tìm kiếm hiện không thể làm được.

Dựa trên các câu hỏi hay ngữ cảnh mà người dùng nhập vào, các mô hình này sẽ quyết định cách trả lời các nội dung phù hợp và có liên quan nhất.

Mô hình ngôn ngữ lớn khác với công cụ tìm kiếm về dữ liệu đầu ra.

Một điểm khác biệt lớn khác giữa các mô hình ngôn ngữ lớn và công cụ tìm kiếm đó là về dữ liệu đầu ra.

Trong khi các mô hình ngôn ngữ lớn (LLMs) có thể cung cấp chính xác các câu trả lời (bằng văn bản, hình ảnh hoặc video…), các công cụ tìm kiếm lại chỉ liệt kê các website mà chúng cho là có liên quan (dựa trên thuật toán xếp hạng tìm kiếm riêng của từng công cụ tìm kiếm), để có được câu trả lời, người dùng phải nhấp vào các website đã được liệt kê để xem thông tin.

Mặc dù vấn đề mức độ chính xác của các mô hình ngôn ngữ lớn vẫn còn gây tranh cãi, nó vẫn là công cụ cung cấp trực tiếp đáp án hơn là cung cấp các nguồn thông tin liên quan như công cụ tìm kiếm.

Ngoài ra, các phiên bản mới như GPT-4 có trong ChatGPT sẽ được trang bị khả năng cung cấp thông tin theo hướng sáng tạo và nhiều thông tin hơn, hiểu con người nhiều hơn, đây cũng là thứ mà các công cụ tìm kiếm hiện không làm được.

Mô hình ngôn ngữ lớn khác với công cụ tìm kiếm về độ tin cậy và độ chính xác.

Vì đưa ra các câu trả lời trực tiếp, các mô hình ngôn ngữ lớn hiện cũng đối mặt với các tình trạng trả lời sai câu hỏi. Ngược lại, các công cụ tìm kiếm chỉ đơn giản là dẫn nguồn nên cơ bản chuyện đúng sai sẽ nằm ở nguồn cung cấp thông tin (các website, ứng dụng…) hơn là ở chính nó.

Ngoài ra, vì thứ tự và khả năng hiển thị của các nội dung có thể bị ảnh hưởng (lớn) bởi nhiều thuật toán, thủ thuật SEO và các thành kiến tiềm ẩn khác, các nguồn thông tin từ các công cụ tìm kiếm vẫn là một ẩn số về chất lượng nội dung hay cả chuyện đúng sai.

Liệu các mô hình ngôn ngữ lớn như ChatGPT hay Google Bard sẽ lấy đi thị phần của các công cụ tìm kiếm như Google hay Bing?

Ít nhất là đến thời điểm hiện tại, các mô hình ngôn ngữ lớn vẫn chưa có tác động đáng kể đến thị phần của các công cụ tìm kiếm. Google vẫn thống trị thị phần công cụ tìm kiếm toàn cầu, với hơn 90%. Bing đứng ở vị trí thứ hai với khoảng 4%.

Tuy nhiên, khi cuộc cách mạng về trí tuệ nhân tạo (AI) cũng như việc các mô hình ngôn ngữ lớn sẽ tiếp tục phát triển, thị trường các công cụ tìm kiếm trong tương lai cũng được dự báo là sẽ thay đổi rất lớn.

Điều này còn tuỳ thuộc vào mức độ phát triển của chính các mô hình, mức độ chấp nhận của người dùng hay mức độ thay đổi của chính các công cụ tìm kiếm để đáp ứng các nhu cầu mới.

Dự báo hoàn hảo có thể là “tương lai của thế giới tìm kiếm là sự kết hợp giữa các công cụ tìm kiếm truyền thống và các mô hình ngôn ngữ lớn.”

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer

AWS đang sáng tạo và đổi mới với công nghệ AI tổng quát

Các tổ chức đang tái định hình việc sáng tạo nội dung, nâng cao năng suất nhân viên, cải thiện trải nghiệm khách hàng và phát triển kỹ năng nhân viên nhờ công nghệ AI tổng quát của AWS.

AWS đang sáng tạo và đổi mới với công nghệ AI tổng quát
AWS đang sáng tạo và đổi mới với công nghệ AI tổng quát

Amazon Web Services (AWS) đang giúp khách hàng mọi quy mô và các nhà phát triển ứng dụng ở mọi cấp độ tại châu Á – Thái Bình Dương dễ dàng, hiệu quả, an toàn và tiết kiệm chi phí trong việc khai thác tiềm năng của AI tổng quát.

Sự trợ giúp này bao gồm đầu tư vào hạ tầng với chi phí hợp lý để khách hàng có thể mở rộng các ứng dụng AI tổng quát, các công cụ máy học (ML) giúp lập trình dễ dàng cùng các dịch vụ AI chuyên dụng.

AI tổng quát (Generative AI) sẽ có tác động tích cực đáng kể lên các ngành và xã hội; các doanh nghiệp và tổ chức chính phủ đã rất hào hứng thử nghiệm các dịch vụ AI tạo sinh đa dạng của AWS.

Chẳng hạn, tập đoàn Takenaka là một trong những doanh nghiệp xây dựng hàng đầu Nhật Bản hợp tác với AWS để phát triển nền tảng xây dựng số Building 4.0 Digital Platform.

Nền tảng này sử dụng dữ liệu và phân tích để tăng cường hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. AI tổng quát được ứng dụng để nâng cao đáng kể hiệu suất trong ngành xây dựng, vì thế công nghệ này đã trở thành nhân tố quan trọng trong nỗ lực chuyển đổi số của tập đoàn Takenaka.

Tập đoàn Takenaka đang xây dựng một nền tảng dựa trên các dịch vụ Amazon Bedrock và Amazon Kendra (dịch vụ tìm kiếm ứng dụng công nghệ ML nhanh và chính xác dành cho doanh nghiệp), có khả năng tổng hợp lượng thông tin khổng lồ, bao gồm thông tin pháp luật và quy định trong ngành xây dựng, hướng dẫn nội bộ và các quy trình tốt nhất, giúp nhân viên ra các quyết định kinh doanh nhanh hơn, thông minh hơn và cải thiện sự cân bằng giữa công việc và cuộc sống.

AI tổng quát cũng mang đến cơ hội chưa từng có để thay đổi và chuyển đổi các doanh nghiệp toàn cầu. AWS cam kết hỗ trợ làn sóng nhân tài công nghệ tiếp theo bằng các công cụ, các chương trình khai vấn và hỗ trợ tùy chỉnh.

Trong khu vực châu Á – Thái Bình Dương, AWS cũng đang đầu tư vào các chương trình tăng tốc khởi nghiệp và phát triển LLM, được thiết kế để giúp các tổ chức địa phương dễ dàng phát triển các ứng dụng AI tổng quát chuyên dụng.

Đầu tư này bao gồm các sáng kiến như chương trình AWS Large Language Model Development Support Program tại Nhật Bản để hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp, doanh nghiệp lớn và tổ chức nghiên cứu Nhật Bản phát triển các mô hình LLM riêng và các chương trình tăng tốc tại Úc và New Zealand, Ấn Độ và Hàn Quốc nhằm mục tiêu giúp các doanh nghiệp khởi nghiệp phát triển ứng dụng AI tổng quát để mở rộng kinh doanh.

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer

Theo Báo Thanh Niên

Sức mạnh của các quảng cáo sáng tạo với thương hiệu

Nhiều nghiên cứu cho thấy, việc sử dụng càng nhiều các quảng cáo sáng tạo và khác biệt, thương hiệu càng có nhiều cơ hội hơn để khác biệt hoá so với đối thủ và thiết lập vị thế trên thị trường.

Sức mạnh của các quảng cáo sáng tạo với thương hiệu
Sức mạnh của các quảng cáo sáng tạo với thương hiệu

Trong thế giới làm marketing, “Top of Mind” là từ khoá mà hiếm có marketer chuyên nghiệp nào lại không biểt đến. Ý tưởng đằng sau điều này là trong một thị trường đông đúc với vô số các đối thủ cạnh tranh, và khi người tiêu dùng chỉ có thể nhớ và lựa chọn mua hàng từ một số ít các thương hiệu (theo nghiên cứu là tối đa 5 thương hiệu trên mỗi danh mục sản phẩm, việc có được một vị trí càng cao trong tâm trí của người tiêu dùng sẽ đồng nghĩa với việc là thương hiệu càng có nhiều cơ hội hơn để bán hàng.

Cơ chế này cũng hoạt động với ngành quảng cáo hay các tác động từ quảng cáo tới tâm trí của người tiêu dùng, người tiêu dùng chỉ có thể nhớ một số ít các mẫu quảng cáo, quảng cáo càng độc đáo và khác biệt thì khả năng được ghi nhớ càng cao.

Theo số liệu mới đây từ Công ty nghiên cứu Zappi đã phân tích 2.300 mẫu quảng cáo ở Mỹ trên hệ thống quảng cáo Amplify của mình và nhận thấy rằng những mẫu quảng cáo mà người xem cho là đặc biệt có nhiều khả năng hiệu quả hơn.

Trên toàn bộ dữ liệu, người xem trung bình đánh giá quảng cáo ở mức 3,81 điểm trên thang điểm 5 về mức độ khác biệt (điểm số cao hơn biểu thị mức độ khác biệt lớn hơn).

Tuy nhiên, những điểm số đó đã thay đổi khi Zappi cắt dữ liệu theo các quảng cáo hiệu quả nhất. Cụ thể, 10% quảng cáo hàng đầu có điểm khác biệt là 4,03; đối với 5% hàng đầu, nó là 4,1. Và đối với 1% hàng đầu, nó là 4,15. Ngược lại, những quảng cáo kém hiệu quả nhất, nằm trong 5% dưới cùng, có điểm xếp hạng là 3,6.

Quảng cáo càng khác biệt và sáng tạo thì càng hiệu quả.

Ngoài ra, nhiều bằng chứng khoa học hành vi khác cũng giải thích tại sao sự khác biệt, sáng tạo hay độc đáo lại có thể có tác động lớn như vậy.

Càng nổi bật thì càng cơ nhiều cơ hội để được “ở lại” trong tâm trí.

Để quảng cáo có thể mang lại sức ảnh hưởng tốt nhất, việc quảng cáo xuất hiệu vào đúng thời điểm chính là chìa khoá. Và đây cũng chính là lúc tính khác biệt có thể phát huy sức mạnh lớn nhất của nó.

Một loạt các cuộc nghiên cứu của các nhà tâm lý học đã được thực hiện và có cùng một kết quả là con người có xu hướng ghi nhớ tốt nhất những gì khác biệt so với số còn lại.

Liên hệ đến lĩnh vực quảng cáo. Nếu các mẫu quảng cáo của thương hiệu tương tự như vô số các mẫu quảng cáo khác mà họ thấy trên thị trường, khách hàng của thương hiệu có thể khó nhớ đến thương hiệu hơn.

Ngược lại, nếu nó là một thứ gì đó khác biệt (khác biệt hoàn toàn), cơ hội thương hiệu được nhận diện và ở lại trong tâm trí của họ là rất lớn.

Ví dụ bên dưới là TVC quảng cáo của thương hiệu Doritos (chuyên sản xuất snack), đây là quảng cáo được xếp hạng trong 0,2% quảng cáo hàng đầu của Zappi.

Quảng cáo này không chỉ khác biệt trong cách thể hiện, bạn hoàn toàn có thể hiểu được thông điệp chính của thương hiệu ngay cả khi bạn tắt tiếng.

Càng kích thích sự quan tâm thì tác động mang lại càng cao.

Một cách để trở nên nổi bật hay khác biệt là tạo ra yếu tố bất ngờ cho khách hàng. Có nhiều bằng chứng cho thấy rằng điều này có khả năng thu hút sự chú ý – và do đó chúng mang lại tiềm năng thuyết phục cao.

Một nghiên cứu tại Đại học California cho thấy, mọi người thường có xu hướng làm cho cuộc sống của họ trở nên dễ dàng hơn bằng cách sử dụng cái mà họ gọi là ‘kịch bản’ (có sẵn).

Ý tưởng đằng sau điều này là khi mọi người gặp phải những tình huống thông thường, thay vì phải đánh giá hay phân tích chúng, họ chỉ cần thực hiện những phản xạ vốn được lập trình sẵn.

Trong trường hợp thứ xuất hiện không phải là thứ mà họ thường vẫn thấy, họ sẽ tiến hành nhận diện vấn đề lần đầu và chính vì điều này, nó có khả năng “ở lại” trong tâm trí của họ nhiều hơn.

Trong bối cảnh kinh doanh và marketing, hầu hết người tiêu dùng đều có sẵn một kịch bản trong đầu khi họ gặp phải những mẫu quảng cáo hay thông điệp mà họ vẫn thấy “ở đâu đó”, họ thường phớt lờ các quảng cáo này.

Đối với các thương hiệu, điều này có nghĩa là việc theo đuổi những ý tưởng hay tình huống mà khách hàng ít ngờ tới nhất có khả năng tạo ra nhiều phản hồi và tương tác nhất.

Phá vỡ các quy tắc thông thường.

Được chú ý và được nhớ đến luôn là một cái đích quan trọng của marketing, nhưng thương hiệu sẽ thành công hơn nếu họ được khách hàng tin tưởng và đánh giá cao.

Nghiên cứu cho thấy việc phá vỡ các quy tắc thông thường cũng có thể khiến cho thương hiệu trở nên khác biệt và được đánh giá cao hơn.

Được thực hiện bởi giáo sư Harvard Francesa Gino, khi một nhóm người được yêu cầu đánh giá địa vị và năng lực của một vị Giáo sư thông qua hình dáng bên ngoài, giữa một giáo sư ăn mặc chỉnh tề (mặc vét và không có râu) và một vị khác ăn mặc khác thường (áo thun đơn giản và có râu), kết quả là vị Giáo sư có râu được đánh giá là có năng lực hơn.

Khác biệt và “không tuân theo cách nghĩ thông thường” rõ ràng là có thể mang lại những tác động lớn hơn, và trong khi đây chỉ là một trong nhiều cách tiếp cận mà thương hiệu có thể sử dụng, từ góc độ sáng tạo, đây là một nơi đơn giản mà thương hiệu có thể bắt đầu.

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer

Hà Anh  | MarketingTrips   

AI-EO có thể sẽ là tương lai của SEO

AIEO (AI Engine Optimization) – tối ưu hoá công cụ AI có thể sẽ là tương lai của SEO (Search Engine Optimization) – Tối ưu hoá công cụ tìm kiếm.

AIEO có thể sẽ là tương lai của SEO
AIEO có thể sẽ là tương lai của SEO

Trong một chia sẻ mới đây, nhà sáng lập của Microsoft, Bill Gates, dự báo rằng, AI hay trí tuệ nhân tạo sẽ làm thay đổi tương lai của công cụ tìm kiếm và cả hoạt động mua sắm trực tuyến (thương mại điện tử).

Trích dẫn lời này, một nhà sáng lập và cũng là chuyên gia trong ngành cho biết, tương lai của AI sẽ phá vỡ hoạt động SEO (Search Engine Optimization). Trong bối cảnh mới, người làm marketingnhà sáng tạo nội dung phải vượt ra ngoài công việc tối ưu hoá công cụ tìm kiếm truyền thống, thay vào đó là tối ưu hoá các công cụ AI.

Trong khi mọi thứ dường như chỉ mới là bắt đầu, chuyên gia này cho biết: “Mô hình quảng cáo như chúng ta biết – thu hút mọi người truy cập vào website thông qua công cụ tìm kiếm – sẽ bị phá vỡ…bằng một mô hình kiểu mới.”

Các công cụ AI hay các mô hình nền tảng sẽ nhận được tiền quảng cáo khi các nhà quảng cáo trả tiền để đưa thông điệp của họ vào các phản hồi hay câu trả lời do AI tạo ra.

Những “Câu trả lời được tài trợ” hay các mẫu quảng cáo nằm kế bên các nội dung tự nhiên do AI tạo ra là những ví dụ về cách quảng cáo sẽ được hiển thị.

Sự chuyển đổi từ công cụ tìm kiếm sang công cụ AI hoặc công cụ được hỗ trợ bởi AI.

Cách đây ít ngày, OpenAI, công ty sở hữu ChatGPT, đã khởi chạy một trình thu thập dữ liệu web để lấy thông tin theo thời gian thực từ các trang web mở.

Tuy nhiên, quá trình này sẽ sớm không còn phù hợp khi ngày càng có nhiều người dùng sử dụng các công cụ chatbot AI khác để lấy thông tin.

Khi người dùng sử dụng các công cụ tự động (trung gian) để có được những thông tin mà họ cần tìm kiếm, như một điều tất yếu, các marketer sẽ phải tìm thấy một cách thức khác để tiếp cận khách hàng, vậy làm thế nào để người dùng có thể thấy được thông tin của thương hiệu trong quá trình này?

Ở thời điểm hiện tại, các chatbot như Bing hay You.com đã có tính năng đính kèm hay trích dẫn nguồn cung cấp nội dung, đây chính là lúc để thương hiệu tiếp cận người dùng bằng những thông tin có liên quan và hữu ích.

Về bản chất, điều này cũng giống như các cách làm SEO hiện tại của marketer, tìm cách để thương hiệu xuất hiện đầu tiên trên các trang kết quả tìm kiếm tương ứng với các từ khoá cụ thể.

Điểm khác biệt ở đây chính là thay vì cung cấp hay tối ưu nội dung cho các công cụ tìm kiếm, người làm marketing sẽ phải làm việc với các công cụ hay nền tảng AI.

Sự thay đổi không chỉ dừng lại ở việc cung cấp và tối ưu hoá nội dung, mà một mô hình kinh doanh kiểu mới sẽ được hình thành.

Sứ mệnh của các Marketer lại tiếp tục gián đoạn.

Tương tự như ngành công nghệ, marketing cũng thay đổi không ngừng trong những năm trở lại đây, trong khi có một số xu hướng đến rồi đi (hoặc ít được quan tâm) một cách nhanh chóng, các xu hướng khác dường như đang tạo ra sức ảnh hưởng lâu hơn.

Ví dụ, kể từ khi Google tìm kiếm ra đời, nền tảng này luôn tìm cách để gây ảnh hưởng đến những cá nhân hoặc tổ chức nhằm thúc đẩy SEO — bao gồm các nhà báo, nhà phân tích tài chính, nhà phân tích ngành, người làm marketing và hơn thế nữa. Ngày nay, những nhà sáng tạo nội dung số là nhóm đối tượng khác mà Google hướng tới.

Trong tương lai, thay vì là làm việc với công cụ tìm kiếm, marketer sẽ phải coi AI chính là công cụ mà họ cần cung cấp thông tin và tối ưu nội dung.

Để giải quyết vấn đề này, các cổng tích hợp dữ liệu (API) riêng có thể sẽ được xây dựng với mục tiêu liên kết các website hay nội dung của thương hiệu tới các công cụ AI (các chatbot AI có khả năng tạo ra các câu trả lời ví dụ như ChatGPT).

Tương lai của các AI cá nhân.

Trong một cuộc phỏng vấn với Bill Gates trong một sự kiện của Goldman Sachs và SV Angel về AI, Bill Gates cho biết doanh nghiệp đầu tiên nào có thể phát triển các AI cá nhân, thứ có thể phá vỡ SEO sẽ có “lợi thế lớn trước các đối thủ cạnh tranh.”

Đó cũng là lý do tại sao Bill Gates – cùng với Nvidia, Microsoft, Reid Hoffman và Eric Schmidt – đã đầu tư vào Inflection AI trong một vòng gọi vốn mới đây.

Vào tháng 5, Inflection AI đã cho ra mắt Pi, Pi là từ viết tắt của Personal Intelligence có nghĩa là “trí thông minh cá nhân”, công cụ AI này tập trung theo hướng cá nhân và khác hẳn với các chatbot AI khác như ChatGPT của OpenAI, Bing của Microsoft hay Bard của Google.

CEO Inflection AI, Reid Hoffman cho biết rằng Pi chatbot có cách tiếp cận cá nhân, cảm xúc hơn so với ChatGPT. “IQ không phải là điều duy nhất quan trọng ở đây vì EQ cũng quan trọng không kém.”

Vào tháng 6 mới đây, Inflection AI cũng đã thông báo rằng sẽ phát hành một mô hình ngôn ngữ lớn (LLM) mới nhằm mục tiêu hỗ trợ cho Pi, được gọi là Inflection-1, công nghệ này được cho là vượt trội hơn so với cả GPT-3.5 của OpenAI.

Trong tương lai, mọi thương hiệu đều sẽ có một công cụ AI riêng để tương tác với những người mua hàng.

Sự khác biệt giữa AI Engine Optimization (AIEO) với SEO (Search Engine Optimization).

Trong khi mọi thứ vẫn đang còn ở phía trước, các marketer sẽ phải hình dung về cách đáp ứng mong muốn và nhu cầu của các công cụ AI.

Không giống như SEO, tức tối ưu hoá nội dung trên các công cụ tìm kiếm, AIEO không hoạt động theo cách cung cấp nội dung cho công cụ tìm kiếm hay các công cụ tìm kiếm thông qua cái gọi là trình thu thập nội dung (crawler) để lấy thông tin từ các website.

Thay vào đó, các marketer sẽ có 2 phương án để lựa chọn. Một là tạo ra một API cung cấp thông tin theo thời gian thực cho các công cụ AI (chatbot AI) ví dụ như ChatGPT.

Hai là, doanh nghiệp sẽ sử dụng chính các thông tin về sản phẩm và thương hiệu của mình để tạo ra các AI mang thương hiệu riêng, AI này sẽ tương tác trực tiếp với người tiêu dùng và người mua, cho dù đó là trên trang web hay ứng dụng.

Nhiều thương hiệu đã sẵn sàng cho cuộc đua mới.

Tại một sự kiện mới đây về AI, phần lớn các nhà lãnh đạo doanh nghiệp đều cho biết doanh nghiệp của họ đang khám phá khả năng để xây dựng các mô hình ngôn ngữ riêng mà trong tương lai chúng có thể tương tác với khách hàng hay các đối tác AI của họ.

Trong tương lai, các công cụ AI sẽ không chỉ được sở hữu bởi các công ty công nghệ, các thương hiệu như Walmart hoặc Macy’s cũng có thể có các AI hay mô hình ngôn ngữ riêng.

Một lần nữa, với tư cách là các marketer, vai trò của bạn giờ đây không chỉ là tác động đến quá trình ra quyết định của con người (khách hàng) mà còn cả với các hành vi của công cụ AI.

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer

Nam Nguyen | MarketingTrips

CEO Microsoft: Sam Altman vẫn có thể quay về làm CEO OpenAI

CEO Microsoft Satya Nadella không phủ nhận khả năng Sam Altman quay trở lại OpenAI và ông sẽ đón nhận cả hai lựa chọn.

CEO Microsoft: Sam Altman vẫn có thể quay về làm CEO OpenAI
CEO Microsoft: Sam Altman vẫn có thể quay về làm CEO OpenAI

Ngày 20/11, Satya Nadella thông báo cựu CEO và chủ tịch OpenAI đều sẽ gia nhập Microsoft. “Chúng tôi muốn Sam và Greg có một ngôi nhà tuyệt vời nếu họ không tham gia OpenAI”, Nadella trả lời CNBC về lý do đưa hai cựu lãnh đạo OpenAI về Microsoft.

Tuy nhiên, bản thân Nadella cũng chưa chắc chắn về khả năng Altman có thực sự gia nhập tập đoàn phần mềm. Khi được hỏi liệu Altman có quay lại OpenAI hay không, Nadella nói đó là lựa chọn của Altman và ban lãnh đạo OpenAI. “Tôi sẵn sàng đón nhận cả hai lựa chọn”, ông nói.

The Verge cho biết thỏa thuận giữa với Microsoft và Sam Altman chưa thực sự hoàn thành. Sam Altman được cho là vẫn đang tìm cách trở về OpenAI, sau khi nhìn thấy sự thay đổi quan điểm từ nhà khoa học trưởng Ilya Sutskever, người đứng sau sự ra đi của ông.

Trong khi đó, WSJ dẫn nguồn tin nội bộ rằng Sutskever đã thay đổi suy nghĩ sau “cuộc thảo luận đầy căng thẳng với nhân viên và buổi nói chuyện đầy cảm xúc với bà Anna, vợ của Greg Brockman, cựu chủ tịch OpenAI.

Bà Anna được cho là đã khóc, nói Sutskever nên thay đổi quyết định. Ông cũng chính là người chủ trì lễ đính hôn cho vợ chồng Brockman ngay tại văn phòng OpenAI vào tháng 11/2019.

Chưa rõ ngoài lý do trên còn điều gì khác tác động đến việc “quay 180 độ” của Sutskever hay không. Trước đó, các nguồn tin đều khẳng định ông là nhân vật trung tâm trong quyết định sa thải CEO và chủ tịch công ty.

Chỉ hai ngày sau, ông chia sẻ lên X: “Tôi vô cùng hối tiếc vì tham gia vào các hoạt động của hội đồng quản trị. Tôi chưa bao giờ có ý định làm hại OpenAI. Tôi yêu tất cả những gì chúng tôi đã cùng nhau xây dựng.

Trong thư ngỏ được hơn 700 nhân viên OpenAI gửi lên hội đồng quản trị sau khi Sam Altman chọn đầu quân cho Microsoft ngày 20/11, Sutskever cũng tham gia ký tên.

Trong khi đó, lo ngại mất hàng trăm triệu USD, một nhóm nhà đầu tư chuẩn bị kiện OpenAI. Một số công ty khác cũng lợi dụng sự hỗn loạn để săn nhân tài của công ty này.

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer

OpenAI có thể bị kiện vì sa thải CEO Sam Altman

Lo ngại mất trắng hàng trăm triệu USD, một nhóm nhà đầu tư chuẩn bị kiện OpenAI sau khi công ty bất ngờ loại CEO và chủ tịch mà không thông báo trước.

OpenAI có thể bị kiện vì sa thải CEO Sam Altman
OpenAI có thể bị kiện vì sa thải CEO Sam Altman

Theo Reuters, một số nhà đầu tư đang làm việc với các tổ chức tư vấn pháp lý và công ty luật nhằm “sớm đưa ra hành động”. Việc hội đồng quản trị OpenAI bất ngờ sa thải CEO Sam Altman đã dẫn đến việc Greg Brockman tuyên bố từ chức chủ tịch và 95% nhân viên ký vào thư dọa nghỉ việc. Các nhà đầu tư lo ngại hàng trăm triệu USD đã đổ vào OpenAI – startup vốn được coi là viên ngọc quý trong danh mục đầu tư – có nguy cơ bị tiêu tan do “sự sụp đổ tiềm tàng” có thể xảy ra.

Thông thường, khi rót tiền vào một công ty, nhà đầu tư thường có một ghế trong hội đồng quản trị, có quyền biểu quyết trong quyền hạn của danh mục đầu tư hay ít nhất sẽ biết trước biến động lớn sắp xảy ra với doanh nghiệp. Tuy nhiên, cấu trúc khác thường của OpenAI không cho họ những quyền kể trên. Công ty được kiểm soát bởi OpenAI Nonprofit – nhóm phi lợi nhuận được thành lập từ những ngày đầu với mục tiêu “mang lại lợi ích cho nhân loại, không phải cho các nhà đầu tư OpenAI”.

Theo Minor Myers, giáo sư luật tại Đại học Connecticut, mô hình của OpenAI giúp thu hút các nhà đầu tư mạo hiểm hơn, đồng thời nguồn vốn huy động được chủ yếu để trả lương cho nhân viên và tái đầu tư nghiên cứu, thay vì chia cho nhà đầu tư như mô hình phổ biến hiện có. Hiện Microsoft là cổ đông lớn nhất, sở hữu 49% cổ phần công ty. Các nhà đầu tư và nhân viên kiểm soát 49%, còn 2% thuộc OpenAI Nonprofit.

Trước đó, hàng loạt nhà đầu tư như Microsoft, Thrive Capital, Sequoia Capital và Tiger Global, đã gây sức ép với OpenAI nhằm khôi phục vị trí cho Altman và Brockman. Từ 19/11, nhiều lãnh đạo chủ chốt của OpenAI cũng đã bày tỏ sự ủng hộ Altman trên nền tảng X.

Nhưng sau cuộc đàm phán với hội đồng quản trị, Altman quyết định không quay về. Ngày 20/11, CEO Microsoft Satya Nadella đăng thông điệp lên X rằng Altman “cùng các cộng sự” đã đồng ý gia nhập tập đoàn để lãnh đạo một nhóm chuyên nghiên cứu AI tiên tiến mới. Altman chia sẻ lại thông điệp từ Nadella và nói “sứ mệnh tiếp tục”.

Trong những nội dung gần nhất đăng lên X, Altman cho biết ông sẵn sàng tái hợp với nhân viên cũ. “Chúng tôi có sự đoàn kết, cam kết và tập trung hơn bao giờ hết. Bằng cách này hay cách khác, chúng ta sẽ làm việc cùng nhau. Tôi đang rất phấn khích. Một đội, một nhiệm vụ”, ông viết.

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer

3 lý do chính khiến nhân viên rời bỏ doanh nghiệp

Theo các số liệu nghiên cứu mới đây, trong khi tiền lương vẫn là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến việc liệu nhân viên có rời bỏ doanh nghiệp hay không, đó không phải là lý do quan trọng nhất.

3 lý do chính khiến nhân viên rời bỏ doanh nghiệp
3 lý do chính khiến nhân viên rời bỏ doanh nghiệp

Mặc dù chịu sự ảnh hưởng lớn của lạm phát và suy thoái toàn cầu, nhiều doanh nghiệp đã chọn cách cắt giảm nhân sự và cũng chính điều này đã khiến cho cơ hội tìm việc làm mới cũng trở nên khó khăn hơn, với những người ở lại, doanh nghiệp cũng chịu phải áp lực tương ứng khi việc giữ được họ cũng rất khó khăn.

Trong khi mức lương vẫn đóng vai trò rất quan trọng với nhân viên, đó không phải là yếu tố duy nhất và quan trọng nhất quyết định việc liệu nhân viên có ở lại với doanh nghiệp hay không.

Dưới đây là 3 lý do chính khiến nhân viên rời bỏ doanh nghiệp.

1. Sếp tồi vẫn là lý do đầu tiên.

Lý do đầu tiên khiến một nhân viên rời đó doanh nghiệp đó mối quan hệ giữa họ với sếp (thường là quản lý trực tiếp). Một nghiên cứu cho thấy gần 1/2 số nhân viên được khảo sát đã nghỉ việc vì người quản lý tồi và gần 2/3 tin rằng người quản lý của họ thiếu khả năng đào tạo và hướng dẫn (hoặc là họ không có năng lực làm việc đó).

Dữ liệu từ Gallup cho thấy có đến 70% sự khác biệt trong mức độ gắn kết của đội nhóm đến từ chính người quản lý.

Trong số rất nhiều mối quan hệ mà nhân viên sẽ phát triển tại một doanh nghiệp, những mối quan hệ được hình thành với người quản lý của họ có tác động đáng kể đến trải nghiệm tổng thể của họ tại nơi làm việc, thậm chí còn hơn cả mối quan hệ giữa các đồng nghiệp đồng cấp với nhau.

Nếu doanh nghiệp muốn giữ chân nhân viên của mình, đặc biệt là những nhân viên giỏi, hãy bắt đầu từ việc đánh giá lại các vị trí quản lý, tìm hiểu xem nhân viên đang cảm thấy như thế nào với người quản lý của họ, và liệu các quản lý đó có đủ năng lực dẫn dắt đội nhóm hay không.

2. Thiếu cơ hội phát triển nghề nghiệp.

Theo một nghiên cứu trên hơn 18.000 nhân viên từ hơn 150 công ty, việc thiếu cơ hội phát triển nghề nghiệp là lý do hàng đầu dẫn đến việc nghỉ việc. Trong khi tiền lương hay thu nhập vẫn rất quan trọng, nó không phải là yếu tố quan trọng nhất và duy nhất.

Bất bình đẳng là một lý do khác liên quan đến việc nhận được sự đào tạo và cơ hội phát triển nghề nghiệp.

Ở một số thị trường như Mỹ, có đến hơn 50% nhân viên là Nữ cho rằng họ không nhận được các chương trình đạo tào và cơ hội thăng tiến như Nam giới.

3. Mức lương không tương xứng.

Mặc dù đứng trước suy thoái và “làn sóng từ chức vĩ đại”, nhiều nhân viên vẫn muốn doanh nghiệp cung cấp chọ họ các khoản lương thưởng tương xứng.

Một cuộc khảo sát của Đại học Phoenix với 5.000 nhân viên và 500 người sử dụng lao động trên khắp nước Mỹ cho thấy, cứ 3 người thì có 1 người sẽ từ bỏ công việc hiện tại mà không có kế hoạch dự phòng, nhưng 69% sẽ cân nhắc ở lại nếu các phúc lợi của doanh nghiệp đáp ứng được nhu cầu của họ.

Trong khi nhiều tổ chức đang đầu tư đáng kể để phát triển và thăng tiến cho nhân viên của họ, nghiên cứu cho thấy phần lớn người sử dụng lao động chưa quan tâm đến việc đảm bảo lương thưởng công bằng và an toàn tài chính cho nhân viên.

86% người sử dụng lao động cho rằng nhân viên của họ hài lòng với mức lương của họ, nhưng gần một nửa số nhân viên được khảo sát không hài lòng và 56% đang phải sống qua ngày với từng đồng lương ít ỏi.

Sự chênh lệch về lương và sự thiếu an toàn về tài chính là những yếu tố chính dẫn đến sự không hài lòng trong công việc.

Bản thân người sử dụng lao động hay doanh nghiệp phải tạo ra sự minh bạch cao hơn nữa về các vấn đề liên quan đến lương thưởng để họ có thể đồng hành được với lực lượng lao động của mình.

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer

Hơn 500 nhân viên của OpenAI dọa sẽ nghỉ việc nếu BOD không từ chức và đưa Sam Altman trở lại vị trí CEO

Hơn 500 nhân viên của OpenAI dọa sẽ rời đi nếu hội đồng quản trị của OpenAI không từ chức và đưa Sam Altman trở lại vị trí CEO như cũ.

Hơn 500 nhân viên của OpenAI doạ sẽ nghỉ việc nếu BOD không từ chức và đưa Sam Altman trở lại vị trí CEO
Hơn 500 nhân viên của OpenAI doạ sẽ nghỉ việc nếu BOD không từ chức và đưa Sam Altman trở lại vị trí CEO

OpenAI và Sam Altman chính là những từ khoá nóng nhất làng công nghệ toàn cầu những ngày gần đây khi hội đồng quản trị của OpenAI bất ngờ sa thải CEO Sam Altman mà không thông báo trước.

Mặc dù ngay sau đó OpenAI được cho là đã đàm phán với Sam Altman để đưa ông này quay trở lại ví trí cũ, tuy nhiên kết quả là thay vì trở lại vị trí cũ, Sam Altman đã chọn cách đầu quân cho Microsoft, là một trong những nhà đầu tư lớn nhất hiện tại của OpenAI.

Mọi chuyện chưa dừng lại ở đó, theo thông tin mới đây, toàn bộ nhân viên của OpenAI khoảng 770 người đã thông báo rằng họ sẽ nghỉ việc tại công ty nếu hội đồng quản trị (BOD) không từ chức và đưa cựu CEO Sam Altman về vị trí cũ.

Ngay cả chính CTO Mira Murati (người vừa tạm thời giữ chức vụ CEO) cũng đã viết trên mạng xã hội X rằng “OpenAI sẽ chẳng là gì nếu không giữ được người của mình.”

Vì bị sa thải quá bất ngờ (thậm chí là Sam Altman còn được cho là bị sa thải qua Google Meet chỉ với thông báo đơn giản), cả Altman và Brockman sau đó đã tổ chức các cuộc đàm phán gay gắt với hội đồng quản trị của OpenAI.

Tuy nhiên, mọi thứ lại không như mong đợi khi mới đây OpenAI đã chính thức thông rằng sẽ đưa cựu CEO của nền tảng Twitch làm CEO mới của OpenAI.

Hiện cả Sam Altman và Brockman cùng với một số nhân sự khác đã đầu quân cho Microsoft và tiếp tục công việc phát triển các sản phẩm AI của Microsoft.

Mặc dù CEO Microsoft Nadella cho biết Altman, Brockman và những người khác hiện nay dường như đã có những vị trí mới tại Microsoft nhưng đó có thể vẫn chưa phải là một thỏa thuận cuối cùng khi Altman và Brockman vẫn có thể lấy lại công việc của họ tại OpenAI nếu hội đồng quản trị từ chức.

Bức thư được các nhân viên OpenAI viết và ký tên có đoạn nội dung như sau: “Hành động của bạn (ngụ ý hội đồng quản trị OpenAI) đã cho thấy rõ rằng bạn không có khả năng giám sát OpenAI. Chúng tôi không thể làm việc cho hoặc với những người thiếu năng lực, khả năng phán đoán, quan tâm đến sứ mệnh và nhân viên của công ty…”

“Chúng tôi, những người ký tên dưới đây, sẽ chọn từ chức khỏi OpenAI và gia nhập công ty con mới được công bố của Microsoft do Sam Altman và Greg Brockman điều hành.

Microsoft đảm bảo với chúng tôi rằng hiện đã có các vị trí dành cho tất cả các nhân viên của OpenAI tại công ty con mới này nếu chúng tôi chọn gia nhập. Chúng tôi sẽ thực hiện bước này ngay lập tức, trừ khi tất cả các thành viên hội đồng quản trị hiện tại từ chức và phục hồi chức vụ cho cả Sam Altman và Greg Brockman.”

Ilya Sutskever, thành viên hội đồng quản trị OpenAI và nhà khoa học trưởng của công ty, người được cho là dẫn đầu cuộc đảo chính chống lại Altman hiện cũng đã bày tỏ sự hối tiếc, ông này cũng là người ký vào bức thư kêu gọi Sam Altman và Greg Brockman trở lại OpenAI.

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer

Cựu CEO của Twitch làm CEO mới của OpenAI

Cuộc đàm phán giữa hội đồng quản trị của OpenAI và Sam Altman đã không đạt được kết quả như mong đợi. Công ty đã bổ nhiệm Emmett Shear trở thành CEO mới.

Cựu CEO của Twitch làm CEO mới của OpenAI
Cựu CEO của Twitch làm CEO mới của OpenAI

Theo CNBC, Emmett Shear, cựu Giám đốc điều hành của Twitch, sẽ thay thế vị trí của Sam Altman để trở thành CEO mới của OpenAI. Đây được xem là một trong những thay đổi lớn nhất của công ty khởi nghiệp này trong vài ngày qua.

Trong một bài đăng gần đây trên mạng xã hội X, Sam Altman cho biết anh đã quay trở lại văn phòng của OpenAI. Nhiều nguồn tin cho rằng cuộc đàm phán giữa hội đồng quản trị của OpenAI và Altman đã không đạt được kết quả như mong đợi.

Trước đó, vào ngày 18/11, OpenAI đã bất ngờ đưa ra thông báo về việc Sam Altman không còn là Giám đốc điều hành, cũng như rút lui khỏi ban lãnh đạo của công ty.

Quyết định sa thải Sam Altman đã khiến giới công nghệ hết sức bất ngờ, khi Altman là nhân tố có vai trò hết sức quan trọng tại OpenAI và được xem là “cha đẻ” của ChatGPT, sản phẩm thành công nhất hiện nay của OpenAI.

“Tôi yêu thời gian của mình tại OpenAI. OpenAI đã mang lại sự thay đổi với cá nhân tôi và hy vọng sẽ làm thay đổi thế giới đôi chút. Trên hết, tôi thích làm việc với những người tài năng tại OpenAI”, Altman viết trong một bài đăng trên X.

Ngoài Sam Altman, OpenAI cho biết một nhà đồng sáng lập khác của công ty là Greg Brockman cũng sẽ rời khỏi chiếc ghế Chủ tịch hội đồng quản trị, nhưng ông vẫn sẽ ở lại công ty. Tuy nhiên, vài giờ sau khi thông cáo được OpenAI đưa ra, Brockman đã đăng tải lên mạng xã hội X cho biết ông đã rời khỏi công ty.

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer

Lạm phát đang phủ bóng lên tình hình chi tiêu của người tiêu dùng toàn cầu

Vào mùa lễ hội cuối năm, các hãng bán lẻ háo hức chờ đợi khách hàng mở hầu bao, thế nhưng lạm phát đang phủ bóng lên tình hình chi tiêu của người dân thế giới.

Lạm phát đang phủ bóng lên tình hình chi tiêu của người tiêu dùng toàn cầu
Lạm phát đang phủ bóng lên tình hình chi tiêu của người tiêu dùng toàn cầu

Một thống kê được trang Axios đưa ra cho thấy, có tới 60% người tiêu dùng các nước Âu Mỹ tin rằng, lạm phát đang khiến việc mua sắm cuối năm của họ khó khăn hơn. Nhìn rộng ra, lạm phát và trước đó là ảnh hưởng của đại dịch, đã khiến một xu hướng mới đang dần trở nên phổ biến với nhiều người dân trên toàn cầu, đó là thay vì sẵn sàng “thả cửa” tiêu xài trong dịp lễ, thì bây giờ, họ sẽ cân nhắc cẩn thận hơn, chỉ mua đủ những gì mà mình đang cần.

Xu hướng “mua đủ” trong mùa lễ hội cuối năm.

Nếu nhìn vào tổng doanh thu hay lượng người mua, mùa mua sắm cuối năm nay nhìn chung vẫn khá nhộn nhịp, nhưng khi nhìn sâu hơn vào hoạt động của các cá nhân, nhiều chuyên gia có chung nhận định: Người mua hàng năm nay tính toán kỹ hơn so với những năm trước đây.

Một ví dụ điển hình là các món quà, số món quà hay phiếu quà tặng mỗi hộ gia đình Mỹ mua năm nay là 8, so với con số 9 của năm ngoái. Nước láng giềng Canada cũng chứng kiến mỗi người chi ít đi khoảng 1/5 cho các món quà trong ngân sách mùa lễ hội.

Bỏ ít tiền hơn cho quà tặng là một cách đơn giản để mỗi người dành thêm tiền cho các món đồ dùng gia đình, hay đơn giản hơn là mua sắm thực phẩm, chuẩn bị các bữa liên hoan như lễ Tạ ơn hay Giáng sinh.

Ông Joseph Balagtas – Giáo sư Đại học Purdue, Mỹ cho biết: “Năm nay, phần lớn mọi người lựa chọn mua đồ, tổ chức liên hoan dịp lễ Tạ ơn tại nhà với bạn bè để tiết kiệm. Một may mắn là thịt gà tây lại đang khá dồi dào, giúp cho bữa tiệc Tạ ơn rẻ hơn một chút so với năm ngoái”.

Ngay cả tại những nước như Trung Quốc, dù không có lạm phát cao và nổi tiếng nhờ những lễ hội mua sắm lớn, xu thế thận trọng chi tiêu mùa lễ cũng đang dần thay thế cho tư duy “mua sắm trả thù” trước đây.

Chị Gao Di – Người tiêu dùng Trung Quốc chia sẻ: “Trong dịp lễ độc thân 11/11, tôi chỉ mua các món đồ mà mình thật sự cần, chứ không mua vì xem livestream hay thấy đang giảm giá mạnh”.

Không chỉ chi tiêu cẩn trọng hơn, nhiều người cũng tỏ ra kiên nhẫn hơn với việc mua sắm của mình. Tại Mỹ, khoảng một nửa số người đi mua sắm cho biết, họ vẫn chưa mua hàng ngay, để đợi các đợt khuyến mại tốt nhất cho món đồ mình muốn mua. Điều này còn phổ biến hơn nữa với mua hàng trực tuyến – 4/5 người cho biết họ sẵn sàng từ bỏ món đồ trong giỏ hàng, nếu không tìm được các mã giảm giá hay miễn phí vận chuyển mà mình mong muốn.

AI và cuộc cách mạng mua sắm tiết kiệm tại Mỹ.

Các nhà bán lẻ tại Mỹ luôn có cách để người mua, dù đang e dè, vẫn phải rút hầu bao. Và một cách tốt nhất hiện nay là họ dùng các công cụ AI và mạng xã hội để nhanh chóng nắm bắt hành vi của người tiêu dùng và lôi kéo họ chi tiền.

AI được ví von là đang tạo ra cuộc cách mạng hóa trong mùa mua sắm năm nay, giúp các nhà bán lẻ mở rộng tệp khách hàng, tiếp cận chính xác hơn tới từng người mua, cải thiện hỗ trợ khách hàng và dễ dàng đưa ra các chương trình mua sắm nhanh, trực quan hơn.

Còn với người mua, sử dụng AI và mạng xã hội được coi là giải pháp tối ưu để họ tìm được các món đồ ưng ý và tất nhiên với giá hợp lý.

Theo nghiên cứu của Sapio Research, có tới 69% người dùng cho biết, AI giúp họ tìm các sản phẩm và thương hiệu dễ dàng hơn, trong khi có tới 74% nói rằng AI hỗ trợ họ tìm thấy các ưu đãi giảm giá, vốn cực kỳ quan trọng trong mùa mua sắm năm nay. Khảo sát cũng cho thấy, cứ 5 người mua hàng thì có 1 người tỏ rõ sự tin tưởng vào công cụ hỗ trợ của AI.

Nghiên cứu cũng cho thấy, năm nay người mua quan tâm đáng kể đến việc mua sắm hay “săn sale” trên các mạng xã hội như Instagram, Facebook hay TikTok.

Chi tiêu hợp lý mùa lễ hội.

Các chuyên gia gợi ý, việc lên danh sách mua sắm từ sớm sẽ giúp người tiêu dùng có thể dễ dàng xác định những món đồ cần mua, lọc bớt những đồ không cần thiết và mua sắm có mục tiêu hơn.

Việc mua sắm chỉ thực sự hiệu quả khi phù hợp với khả năng tài chính của mỗi cá nhân, gia đình. Để tránh sa vào bẫy mua sắm quá đà, các chuyên gia khuyến cáo người tiêu dùng hạn chế sử dụng thẻ tín dụng trong thời điểm mua sắm cuối năm, để tránh việc lễ hội chưa qua, chủ thẻ đã nợ nần chồng chất.

Và cuối cùng, hãy luôn giữ cho mình chiếc đầu lạnh vào dịp mua sắm mùa lễ hội. Những chương trình giảm giá nghe có vẻ rất hấp dẫn, nhưng người tiêu dùng được khuyên hãy chỉ mua nếu nó thực sự cần với mình thay vì mình muốn, bởi một món đồ dù có hời đến đâu thì bạn vẫn là người phải chi ra một khoản tiền nhất định. Và nếu mua chỉ để có cảm giác được lời to, thì người tiêu dùng chính là con mồi mà các hãng bán lẻ yêu thích.

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer

Hà Anh  | MarketingTrips   

Theo VTV.vn

Sam Altman từ chối quay lại OpenAI và đầu quân cho Microsoft

Bất chấp sức ép từ Microsoft để phục chức cho Sam Altman, phía OpenAI đã quyết định thuê CEO khác. Ngay lập tức, CEO Satya Nadella đã tuyển dụng nhà sáng lập này về để lập đội mới, dù công ty của ông vẫn đang đổ hàng tỷ USD cho OpenAI.

Sam Altman từ chối quay lại OpenAI và đầu quân cho Microsoft
Sam Altman từ chối quay lại OpenAI và đầu quân cho Microsoft

Theo thông tin mới đây, CEO Satya Nadella của Microsoft đã có hành động gây bất ngờ toàn thị trường khi tuyển dụng lại nhà sáng lập Sam Altman của OpenAI về lập một đội mới cho công nghệ trí thông minh nhân tạo.

Động thái này diễn ra sau khi có nguồn tin cho hay Hội đồng quản trị OpenAI không thuyết phục được Sam Altman quay lại và đã quyết định tuyển mộ Cựu CEO Emmett Shear của Twich về lãnh đạo.

Tham gia cùng Sam Altman để đầu quân cho Microsoft là Greg Brockman, vốn cũng là một thành viên của Hội đồng quản trị OpenAI nhưng cũng bị cách chức cùng nhà sáng lập. Bất bình về vụ việc, ông Greg đã quyết định từ chức để đi theo người bạn của mình về Microsoft.

“Phía Microsoft sẽ nhanh chóng cung ứng cho chúng tôi đủ nguồn lực để đạt được những thành công mới”, ông Greg tự tin cho hay.

“Chúng tôi vẫn cam kết hợp tác với OpenAI và tin tưởng vào khả năng ra mắt sản phẩm đúng lộ trình của mình như đã công bố, cũng như khả năng tiếp tục hỗ trợ khách hàng lẫn đối tác”, CEO Satya Nadella của Microsoft đăng tải trên LinkedIn.

*Nguồn: Bloomberg

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer

Hà Anh  | MarketingTrips   

Luckin Coffee chính thức vượt Starbucks trở thành chuỗi cà phê lớn nhất Trung Quốc

Theo tài liệu mới nhất, Luckin Coffee đã chính thức vượt Starbucks trở thành chuỗi cà phê lớn nhất Trung Quốc về doanh số bán hàng và số cửa hàng. Đây là màn trở lại ngoạn mục của công ty sau bê bối kế toán khiến tốc độ tăng trưởng của họ bị đình trệ.

Luckin Coffee chính thức vượt Starbucks trở thành chuỗi cà phê lớn nhất Trung Quốc
Luckin Coffee chính thức vượt Starbucks trở thành chuỗi cà phê lớn nhất Trung Quốc

Với số vốn lớn và dưới sự lãnh đạo mới, Luckin hiện nay điều hành khoảng 13.300 cửa hàng, hầu hết đều nằm tại Trung Quốc. Đây là con số lớn hơn gần gấp đôi so với số lượng cửa hàng của Starbucks, một trong những chuỗi cà phê lớn nhất thế giới, có khoảng 6.800 cửa hàng tại Trung Quốc.

Để thúc đẩy sự phát triển, Luckin đã sử dụng các dịch vụ giao hàng nhanh, tùy chọn thanh toán di động và các sản phẩm như latte vị phô mai, mà người tiêu dùng Trung Quốc rất ưa thích.

Starbucks, có trụ sở tại Seattle, đã xem việc mở rộng tại quốc gia có dân số đông thứ hai thế giới là một trong những ưu tiên hàng đầu của mình trong nhiều thập kỷ. Ông Howard Schultz, người từng là Giám đốc điều hành của Starbucks, đã nói rằng Trung Quốc đại diện cho một trong những cơ hội lớn nhất của Starbucks để phát triển – mặc dù đây là một thị trường kinh doanh phức tạp. Trung Quốc hiện nay là thị trường lớn thứ hai của Starbucks theo số lượng cửa hàng và doanh thu, sau Mỹ.

Trước đây, Trung Quốc là một xã hội uống trà truyền thống, ít tiêu thụ cà phê so với nhiều quốc gia khác, nhưng các công ty cho biết nhu cầu của người Trung Quốc đang tăng.

Các nhà phân tích dự đoán rằng Trung Quốc sẽ trở thành thị trường tiêu thụ lớn nhất thế giới trong vài năm tới. Các thương hiệu lớn từ phương Tây bán hàng cho người tiêu dùng Trung Quốc đối mặt với sự cạnh tranh ngày càng tăng từ các thương hiệu địa phương, khi người tiêu dùng bắt đầu thể hiện sự ưa thích đối với chúng.

Trên thực tế, doanh số bán hàng của gã khổng lồ ngành F&B Starbucks tại Trung Quốc vẫn đang tăng mặc cho sự cạnh tranh từ các đối thủ Trung Quốc.

Kiki Pang, một nhà quản lý tiếp thị đến từ Quảng Đông, uống cà phê khoảng hai lần mỗi tuần. Cô thường đặt một cốc latte của Luckin để giao hàng đến văn phòng vào buổi chiều khi làm việc, và thanh toán qua ứng dụng WeChat.

“Starbucks trước đây khá phổ biến trong số người tiêu dùng trẻ ở Trung Quốc”, Pang, 26 tuổi nói. “Bây giờ khi giới trẻ Trung Quốc có nhiều lựa chọn đồ uống hơn, động lực đã thay đổi”.

Starbucks đã tìm cách xây dựng lợi thế người tiên phong sau khi mở quán cà phê đầu tiên tại Trung Quốc vào năm 1999. Cá nhân Schultz cũng đã xây dựng mối quan hệ tại nước này. Chuỗi cà phê mở rộng từ các thành phố lớn của đất nước vào các thành phố nhỏ hơn, xây dựng hàng trăm cửa hàng mới mỗi năm và phục vụ người uống cà phê muốn thong thả thưởng thức trong các quán cà phê.

Đại dịch đã gây tổn thương nặng nề cho hoạt động kinh doanh của Starbucks tại Trung Quốc, với doanh số bán hàng tại cùng một cửa hàng giảm 17% trong năm tài khóa 2020 so với năm 2019. Hiện nay, nhiều người tiêu dùng Trung Quốc vẫn duy trì thói quen thắt chặt chi tiêu đã hình thành trong thời kỳ đại dịch.

Các nhà quản lý của Starbucks vẫn kiên định với thị trường Trung Quốc. Công ty cho biết vào tháng 11 rằng họ dự định thêm khoảng 1.000 cửa hàng mỗi năm tại Trung Quốc, lên đến 9.000 vào năm 2025. Các nhà quản lý nói rằng Trung Quốc một ngày nào đó sẽ trở thành thị trường lớn nhất của Starbucks. “Tôi rất tin tưởng rằng đó chỉ là sự bắt đầu”, Belinda Wong, Co-CEO của Starbucks Trung Quốc nói tại sự kiện đầu tư tháng 11.

Luckin, thành lập vào năm 2017 và được hỗ trợ bởi vốn đầu tư rủi ro trong thời kỳ bùng nổ đầu tư công nghệ tại Trung Quốc, mở cửa hàng với kiểu dáng đơn giản hơn so với các quán cà phê phức tạp của Starbucks.

Họ tập trung chiến lược của mình vào ứng dụng di động và dịch vụ giao hàng tích hợp ngay từ đầu, một tùy chọn mang đi mà Starbucks sau đó thêm vào hoạt động của mình tại Trung Quốc. Đến mùa thu năm 2019, Luckin có 3.680 cửa hàng, gần bằng con số 4.130 của Starbucks đã xây dựng trong hai thập kỷ trước đó. Luckin đã niêm yết công khai vào năm 2019.

Năm 2020, Luckin đã thừa nhận rằng họ đã tạo ra lượng doanh số bán hàng giả mạo khoảng 310 triệu USD trong năm trước đó. Sau đó, Sàn giao dịch Chứng khoán Nasdaq đã hủy niêm yết công ty vào cuối năm đó.

Luckin đã tuyên bố sẽ xây dựng lại, đưa những nhà quản lý và nhà đầu tư mới từ công ty quỹ tư nhân Trung Quốc Centurium Capital. Chuỗi cửa hàng đã mở cửa hàng thứ 10.000 tại Trung Quốc vào mùa hè năm nay và kỷ niệm bằng cách cung cấp ưu đãi cà phê cho hàng triệu khách hàng.

Theo hồ sơ công ty, Luckin báo cáo doanh số bán hàng là 855 triệu USD cho quý kết thúc vào ngày 30 tháng 6, vượt trội so với 822 triệu USD mà Starbucks tạo ra từ kinh doanh tại Trung Quốc trong ba tháng kết thúc vào ngày 2/7.

Luckin đã quảng cáo giá trị của mình đối với người tiêu dùng và một số hương vị ưa chuộng, bao gồm cả sự hợp tác với thương hiệu rượu nổi tiếng của Trung Quốc, Kweichow Moutai, trong năm nay.

Một đối thủ mới nổi khác là công ty gồm Cotti Coffee, được ra mắt vào năm ngoái bởi những người sáng lập của Luckin nhưng hiện không còn làm việc cho công ty này. Cotti Coffee cung cấp đồ uống chi phí thấp hướng đến giới trẻ, và vào tháng 8, công ty này cho biết họ đã mở 5.000 cửa hàng trong khoảng một năm.

Luckin sử dụng chiến lược tập trung vào dịch vụ giao hàng tích hợp.

Starbucks đang tung ra những đồ uống mới của riêng mình tại Trung Quốc, ra mắt 28 loại mới vào mùa hè năm nay. Các nhà quản lý nói rằng Starbucks là thương hiệu cà phê duy nhất tại Trung Quốc cung cấp một bộ đầy đủ các đồ uống, thức ăn và hàng hóa, với các vị trí đắc địa trên khắp đất nước. Họ đang xây dựng cửa hàng ở các huyện nhỏ và vào tháng 9, đã mở một trung tâm đổi mới trị giá 220 triệu USD tại Trung Quốc.

CEO của Starbucks, Laxman Narasimhan, nói tại sự kiện đầu tư rằng Starbucks mang lại trải nghiệm tốt hơn và chất lượng cao hơn cho người tiêu dùng Trung Quốc so với các đối thủ giá thấp.

Sunny Shen, một tư vấn viên kinh doanh sống ở tỉnh Jiangsu ven biển phía bắc của Thượng Hải, cho biết cô uống cà phê một vài lần mỗi tuần. Gần đây, cô đã thưởng thức một trong những chiếc latte mascarpone giới hạn của Luckin có tên Tom and Jerry. Cô cũng đánh giá cao giá trị của Luckin. Cô nói: “Đặc biệt khi họ tung ra các voucher giảm giá, giá một đồ uống của Luckin có thể chỉ bằng một nửa hoặc một phần ba giá của Starbucks”.

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer

Hà Anh  | MarketingTrips   

Theo An ninh Tiền tệ

Đây là lý do CEO Sam Altman bị OpenAI sa thải

Sam Altman được cho là bị sa thải đột ngột sau những bất hòa nội bộ với Ilya Sutskever, nhà khoa học trưởng của OpenAI.

Đây là lý do CEO Sam Altman bị OpenAI sa thải
Đây là lý do CEO Sam Altman bị OpenAI sa thải

Dẫn nguồn tin nội bộ, The Infomartion cho biết OpenAI đã tổ chức cuộc họp nội bộ ngay sau khi thông báo sa thải CEO Sam Altman và loại chủ tịch Greg Brockman khỏi hội đồng quản trị.

Cuộc họp đề cập đến xung đột về mục tiêu đối với AI và những bất đồng về định hướng phát triển đã in sâu vào tâm trí nhiều nhân viên từ lâu. Ilya Sutskever, người đồng sáng lập OpenAI, thành viên hội đồng quản trị và nhà khoa học trưởng – người chịu trách nhiệm hạn chế tác hại xã hội mà AI có thể gây ra, đã nhận rất nhiều câu hỏi.

Theo bản ghi cuộc họp, ít nhất hai nhân viên hỏi Sutskever rằng liệu đây có phải một “cuộc đảo chính” hay “sự tiếp quản thù địch”. Họ ngụ ý rằng Sutskever cảm thấy Altman đang muốn thương mại hóa OpenAI quá nhanh, gây ra lo ngại về sự an toàn.

“Anh có thể gọi theo cách đó”, Sutskever trả lời, nhắc đến từ đảo chính. “Tôi có thể hiểu tại sao mọi người dùng từ này, nhưng tôi không đồng ý. Chúng ta đang thực hiện nhiệm vụ với sứ mệnh của một tổ chức phi lợi nhuận, đó là đảm bảo OpenAI xây dựng AI tổng quát (AGI) có lợi cho toàn nhân loại”.

Một người khác hỏi liệu việc loại đi những cá nhân ủng hộ thương mại hóa có phải cách tốt để điều hành một công ty có tầm quan trọng thế giới hay không, Sutskever đáp rằng ông đồng ý, dù ý tưởng đó “không hoàn toàn đúng 100%”.

Xung đột định hướng nội bộ.

Trước khi bị sa thải, Altman vẫn gửi email thường xuyên tới nhân viên với tư cách là CEO. Ông thậm chí mới xuất hiện tại sự kiện về AI ngày 17/11 ở San Francisco. Đầu tháng 11, ông chủ trì sự kiện DevDay của OpenAI. Tuy nhiên, nội bộ không yên bình như thế.

Một số nguồn tin nói với National Post rằng Altman đã xung đột với các thành viên hội đồng quản trị, đặc biệt là Sutskever, từ trước đó. Vấn đề gây tranh cãi chủ yếu về tốc độ phát triển AGI, cách thức thương mại hóa sản phẩm và các bước cần thiết để giảm tác hại tiềm tàng của AI với nhân loại.

Thực tế, cộng đồng AI từ lâu cũng đã bất đồng về vấn đề AI phát triển quá nhanh có thể gây mất kiểm soát. Nhiều ý kiến cho rằng công nghệ này sẽ tạo ra mối đe dọa cho con người nếu không có “công tắc” ngăn chặn, trong khi số khác nói kìm hãm AI mới là điều khiến nhân loại không thể tiếp cận những ưu việt mà trí tuệ nhân tạo mang lại, như trong việc khám chữa bệnh hay thúc đẩy nghiên cứu thuốc mới. Bất đồng cũng được cho là lý do Elon Musk, một thành viên sáng lập OpenAI, rời công ty năm 2018.

Bên cạnh mâu thuẫn về định hướng, nguồn tin cho biết các thành viên hội đồng quản trị OpenAI cũng đã tranh cãi gay gắt về tham vọng kinh doanh của Altman trước khi đi đến quyết định sa thải ông.

Với quyền điều hành, Altman đang tìm cách huy động hàng chục tỷ USD từ các quỹ ở Trung Đông với mục tiêu tạo một công ty khởi nghiệp về chip AI cạnh tranh với Nvidia. Ông cũng gặp Chủ tịch SoftBank Masayoshi Son để thuyết phục đầu tư hàng tỷ USD vào một công ty thiết bị AI sắp thành lập với sự hợp tác của cựu giám đốc thiết kế Apple Jony Ive.

“Sutskever và những người cùng quan điểm trong hội đồng quản trị phản đối cách Altman dùng tên tuổi của OpenAI để gây quỹ. Họ cũng lo ngại doanh nghiệp mới có thể không chia sẻ mô hình quản trị giống như OpenAI”, một nguồn tin cho biết.

Mối lo ngại mất kiểm soát AI đã được Sutskever thể hiện rõ trong những tháng gần đây. Vào tháng 7, ông thành lập một nhóm mới tại công ty để kiểm soát các hệ thống AI “siêu trí tuệ” trong tương lai. Trước khi gia nhập OpenAI, nhà khoa học máy tính người Canada gốc Israel này làm tại Google Brain và là nhà nghiên cứu tại Đại học Stanford.

Việc Sutskever “quyết đấu” còn được cho là liên quan đến việc Altman và Brockman chèn ép ông. Tháng trước, cả hai tìm cách giảm tầm ảnh hưởng của nhà khoa học trưởng của OpenAI, khiến ông phải nêu vấn đề này lên hội đồng quản trị. Một số thành viên ủng hộ ông, gồm Helen Toner, hiện là giám đốc chiến lược tại Trung tâm An ninh và Công nghệ mới nổi của Georgetown.

Nhà báo công nghệ Mỹ Kara Swisher của New York Times cho biết Sutskever là người đóng vai trò và có sức ảnh hưởng lớn nhất trong quá trình sa thải CEO và chủ tịch.

“Thêm tin sốt dẻo: các nguồn tin cho tôi biết nhà khoa học trưởng Ilya Sutskever là trung tâm của vấn đề. Căng thẳng ngày càng gia tăng với Sam Altman và Greg Brockman về vai trò và sức ảnh hưởng. Hội đồng quản trị đã nghiêng về phía ông ấy”, Swisher viết trên X ngày 18/11. “Rõ ràng Microsoft cũng bị che mắt và không phát hiện ra cho đến khi mọi thứ được công bố”.

Ngoài ra, Swisher cũng nói Altman sẽ sớm công bố công ty AI mới vào ngày 20/11. Trong khi đó, dưới sức ép của các nhà đầu tư và sự hỗn loạn nội bộ, hội đồng quản trị OpenAI đang phải đàm phán với Sam Altman để đưa ông trở lại vị trí CEO, nhưng ông còn đang cân nhắc.

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer

Theo Bảo  Lâm | VnExpress

Cựu nhà tuyển dụng Google: Đừng dùng ‘open to work’ trên LinkedIn

Nếu bạn đang sử dụng LinkedIn như một mạng lưới chuyên nghiệp để phát triển bản thân, tìm kiếm việc làm và hơn thế nữa, cựu nhà tuyển dụng của Google khuyên rằng đừng nên sử dụng ‘open to work’ trên mạng xã hội này.

Cựu nhà tuyển dụng của Google: Đừng sử dụng ‘open to work’ trên LinkedIn
Cựu nhà tuyển dụng của Google: Đừng sử dụng ‘open to work’ trên LinkedIn

Trên mạng xã hội LinkedIn, để thẻ ‘open to work‘ mang ý nghĩa là bạn đang muốn tìm kiếm một cơ hội việc làm mới. Dù là bạn đã nghỉ hoàn toàn công ty hiện tại hay bạn vẫn đang còn làm tuy nhiên lại mong muốn tìm kiếm cơ hội mới, thông báo này báo hiệu cho các nhà tuyển dụng biết bạn đang sẵn sàng nhận thông tin và ứng tuyển.

Theo số liệu từ LinkedIn, cứ mỗi giây trôi qua có tới 117 việc làm mới được gửi lên LinkedIn. Để trở nên nổi bật giữa đám đông và có được công việc mơ ước của bạn, các chuyên gia tuyển dụng khuyên bạn nên sử dụng các liên kết nổi bật để thể hiện các công việc mà bạn từng làm, cập nhật hồ sơ của bạn thường xuyên để đảm bảo rằng nó phản ánh đúng kỹ năng và kiến thức chuyên môn của bạn, và hơn thế nữa.

Tuy nhiên khi nói đến những điều ‘cấm kỵ’ trên nền tảng, cựu nhà tuyển dụng của Google cho rằng bạn không nên sử dụng biểu tượng hay thẻ “open to work’, nó thực sự rất tệ.

Cảm giác như bạn đang tuyệt vọng.

Khi nói đến các cuộc phỏng vấn xin việc, với tư cách là ứng viên, bạn muốn tạo cho doanh nghiệp bạn đang phỏng vấn cảm giác rằng bạn luôn có những lựa chọn khác và họ phải đấu tranh vì bạn. “Tuyển dụng cũng giống như hẹn hò. Bạn phải làm cho đối phương cảm thấy như bạn là người duy nhất và có giá trị để theo đuổi.”

Nếu bạn sử dụng thẻ ‘open to work’ (sẵn sàng để ứng tuyển công việc mới), điều này có nghĩa là chưa có bất cứ nhà tuyển dụng nào liên hệ với bạn, và điều này khiến cho nhà tuyển dụng (đầu tiên) gọi cho bạn có cảm giác thật tệ.

Khi bạn ở trạng thái tuyệt vọng, hiếm có nhà tuyển dụng nào muốn bạn.

Cuối cùng, các nhà tuyển dụng tin rằng “những người giỏi nhất là những người không phải đi tìm việc làm”. Những người đó luôn cởi mở trong việc trò chuyện với các nhà tuyển dụng tiềm năng, nhưng vì họ hài lòng với vị trí hiện tại, vì kỹ năng và tài năng của họ đã giúp họ tạo dựng nên những cơ hội tuyệt vời cho bản thân, họ chưa muốn chuyển việc.

Điều đó không có nghĩa là bạn không nên nộp CV xin việc nếu bạn đang muốn tìm kiếm một công việc mới, chỉ là bạn không cần phải thông báo cho nhà tuyển dụng biết bạn chưa tìm thấy cơ hội nào để ứng tuyển cả.

“Dù tốt hay xấu, đó là quy luật tự nhiên của con người – khi bạn tuyệt vọng thì mọi người sẽ không muốn bạn và ngược lại”.

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer

Top 10 doanh nghiệp lớn nhất Việt Nam 2023

CTCP Báo cáo Đánh giá Việt Nam (Vietnam Report) phối hợp cùng Báo VietnamNet công bố Bảng xếp hạng VNR500 – Top 500 Doanh nghiệp lớn nhất Việt Nam năm 2023.

Top 10 doanh nghiệp lớn nhất Việt Nam 2023
Top 10 doanh nghiệp lớn nhất Việt Nam 2023

Theo đó, Công ty TNHH Samsung Electronics Việt Nam Thái Nguyên vẫn vững ngôi vương trong danh sách.

Những cái tên kỳ cựu như Tập đoàn Dầu trí Việt Nam (Petro Vietnam), Tập đoàn Xăng dầu Việt Nam (Petrolimex), Tập đoàn Công nghiệp – Viễn thông Quân đội (Viettel)… vẫn trong top.

Các công ty tư nhân lọt top như Hòa Phát, Vingroup đều tụt 3 hạng, lần lượt xuống vị trí 8 và 10.

Hai cái tên không còn trong danh sách Top 10 là Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) và CTCP Đầu tư Thế giới Di động (MWG).

Bảng xếp hạng VNR500 đã bước sang năm thứ 17, nhằm tìm kiếm, ghi nhận và tôn vinh những thành tích của các doanh nghiệp có quy mô lớn, duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh hiệu quả và ổn định, những doanh nghiệp đã cho thấy bản lĩnh kiên cường trước những cơn sóng biến động bất ngờ từ bối cảnh quốc tế và sự giảm tốc tăng trưởng của nền kinh tế.

Bên cạnh việc công bố Bảng xếp hạng Top 500 Doanh nghiệp lớn nhất Việt Nam năm 2023, Vietnam Report cũng công bố Bảng xếp hạng Top 500 Doanh nghiệp tư nhân lớn nhất Việt Nam năm 2023.

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer

Central Retail (Thái Lan) đánh bại doanh thu của WinCommerce và Bách Hoá Xanh

Chuỗi Big C, Go!… thuộc Central Retail Corp (Thái Lan) đánh bại doanh thu của WinCommerce và Bách Hoá Xanh trong 9 tháng đầu năm 2023.

Central Retail Corp đánh bại doanh thu của WinCommerce và Bách Hoá Xanh
Central Retail Corp đánh bại doanh thu của WinCommerce và Bách Hoá Xanh

Ngày 14/11, ông Yol Phokasub, Giám đốc điều hành Tập đoàn Central Retail – công ty mẹ của chuỗi siêu thị Go! cho biết: “Central Retail củng cố vị trí dẫn đầu trong ngành bán buôn và bán lẻ (Retail) ở Thái Lan và nước ngoài, thể hiện hiệu quả hoạt động mạnh mẽ của công ty trong suốt thời gian qua”.

Theo báo cáo tài chính được công bố, 9 tháng đầu năm, tổng doanh thu của ông lớn bán lẻ Thái Lan đạt 182.784 triệu baht (hơn 126.000 tỷ đồng) và lợi nhuận ròng là 5.257 triệu baht (hơn 3.600 tỷ đồng), lần lượt tăng 7% và 26% so với cùng kỳ năm ngoái.

Trong đó, Việt Nam vẫn là thị trường nước ngoài đem về doanh thu cao nhất cho tập đoàn. Lãnh đạo Central Retail cho biết công ty điều chỉnh chiến lược hoạt động tại Việt Nam để ứng phó với những biến động kinh tế nhất thời.

Luỹ kế 9 tháng đầu năm, Central Retail Việt Nam góp 37.655 triệu baht (gần 26.000 tỷ đồng) vào doanh thu của công ty mẹ, giảm 6,5% so với cùng kỳ năm ngoái. Trong đó, mảng kinh doanh thực phẩm vẫn chiếm phần lớn doanh thu của Central Retail Vietnam với 31.839 triệu baht (gần 22.000 tỷ đồng).

Nếu xét về doanh thu trong các hệ thống bán lẻ hiện đại,Central Retail Việt Nam vẫn là doanh nghiệp có doanh thu lớn nhất trong giai đoạn 9 tháng đầu năm nay. Cùng bối cảnh, WinCommerce đạt doanh thu 22.400 tỷ đồng, và con số này ở Bách Hoá Xanh là 22.300 tỷ đồng.

Ông Olivier Langlet, Giám đốc điều hành Central Retail Việt Nam, cho biết: “Trong bối cảnh kinh tế đầy thách thức của năm 2023, Việt Nam cũng như phần còn lại của thế giới đều phải đối mặt với nhiều khó khăn. Tuy nhiên, Central Retail vẫn cam kết mở rộng mạnh mẽ danh mục đầu tư của mình”.

Theo ông Oliver Langlet, hiện nay, Central Retail vận hành hơn 340 cửa hàng bán lẻ trên 40 tỉnh thành tại Việt Nam, bao gồm 77 cửa hàng bán lẻ thực phẩm, trong đó có 38 đại siêu thị GO! và 39 siêu thị. Ngoài ra, còn có hơn 200 cửa hàng bán lẻ phi thực phẩm và 39 trung tâm thương mại GO! Malls.

“Mục tiêu là mở rộng tới 600 cửa hàng trên 57 tỉnh thành”, ông Oliver Langlet cho biết.

Centrail Retail có kế hoạch mở thêm 4 siêu thị mini go! tại Việt Nam trong quý cuối năm, nâng con số tổng lên 10 chi nhánh.

Ngày 10/10, Central Retail khai trương siêu go! Hòa Thành tại Tây Ninh. Đây là siêu thị mini go! thứ 2 tại tỉnh Tây Ninh và là thứ 7 của tập đoàn tại Việt Nam. Siêu thị mini go! Hòa Thành có diện tích sàn hơn 2.000 m2.

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer

Theo Doanh Nghiệp & Kinh Doanh

AI đang làm thay đổi mạnh mẽ ngành bán lẻ

Trí tuệ nhân tạo (AI) có thể giúp giải bài toán vốn được xem là “nỗi đau” của nhiều doanh nghiệp bán lẻ, khi dữ liệu từ hành vi mua sắm của khách hàng rất nhiều, nhưng thực tế lại rời rạc và chưa được xâu chuỗi thành những chỉ báo quan trọng.

AI đang làm thay đổi mạnh mẽ ngành bán lẻ

Những năm gần đây, Việt Nam đã có những bước tiến vượt bậc trong lĩnh vực chuyển đổi số và trí tuệ nhân tạo (AI).

Thị trường AI tại Việt Nam được Statista dự đoán sẽ đạt tốc tăng trưởng hàng năm là 19,51% trong giai đoạn 2023 – 2030, đạt giá trị hơn 1,8 tỷ USD. Dù đang ở giai đoạn “sơ khai”, nhưng tiềm năng phát triển AI của Việt Nam là vô cùng lớn.

TS. Nguyễn An Nguyên – CEO của Trusting Social tin rằng, AI thậm chí có thể tạo ra một “nền kinh tế” mới tại Việt Nam, và thay đổi hầu hết các ngành.

Vị chuyên gia dự báo, trong 5 năm tới, AI có thể thay đổi hầu hết các ngành, và sự phổ biến này đang góp phần tạo ra một “nền kinh tế” trí tuệ nhân tạo.

Lấy ví dụ trong ngành bán lẻ – nơi mà phần lớn các giao dịch thương mại đang diễn ra tại Việt Nam, trí tuệ nhân tạo có thể giúp giải bài toán vốn được xem là “nỗi đau” của nhiều doanh nghiệp, khi dữ liệu từ hành vi mua sắm của khách hàng rất nhiều, nhưng thực tế lại rời rạc và chưa được xâu chuỗi thành những chỉ báo quan trọng.

Chẳng hạn, ngày nay trí tuệ nhân tạo có thể giúp doanh nghiệp xác định được độ tuổi, giới tính, thói quen mua sắm ngay khi khách đặt chân vào cửa hàng. Trí tuệ nhân tạo cũng có thể giúp doanh nghiệp tăng cường hiệu suất nhân viên, thông qua camera giám sát trực tiếp.

Và điều quan trọng là các dữ liệu này sẽ được tập hợp, phân tích và đưa ra những báo cáo hành động, đánh giá những thay đổi trước và sau khi cải thiện dịch vụ. Như doanh nghiệp có thể bố trí lại mặt bằng để phù hợp thói quen mua sắm, cải thiện các chiến dịch marketing, thay đổi ca làm việc của nhân viên…

Tại Việt Nam, một số doanh nghiệp bước đầu đã thử nghiệm ứng dụng AI vào quản lý cửa hàng vật lý, như PNJ, GS25, Highlands Coffee hay hãng thời trang NEM…

Tất nhiên, các doanh nghiệp bán lẻ không tự xây dựng hệ thống AI riêng để giám sát cửa hàng, mà dựa vào các doanh nghiệp công nghệ. Palexy – một startup Việt được Do Ventures và Access Ventures hậu thuẫn đã sử dụng công nghệ thị giác máy tính và trí tuệ nhân tạo giúp các nhà bán lẻ đo lường hành vi khách hàng và năng suất nhân viên.

Sau khoảng 4 năm triển khai, Palexy đã trở thành đối tác của nhiều doanh nghiệp bán lẻ lớn tại Việt Nam như Elise, Phong Vũ Computer, Vinamilk, Lotte Mart,…

Theo đó, Palexy số hóa các nguồn dữ liệu có sẵn của hãng bán lẻ, bao gồm hệ thống camera giám sát, dữ liệu bán hàng, lịch khuyến mại… Những dữ liệu này được thu thập, phân tích, và tổng hợp thành các bảng điều khiển giúp doanh nghiệp lên kế hoạch kinh doanh, sản xuất.

Các giải pháp công nghệ như của Palexy hay các công ty công nghệ khác không yêu cầu doanh nghiệp phải cài đặt phần cứng, hay thuê thêm nhân viên. Phần mềm AI có thể chạy 24/7 và đóng nhiều vai trò, vừa như nhân viên bán hàng, lại vừa như cố vấn kinh doanh.

Một trường hợp thành công khác khi ứng dụng công nghệ AI trong bán lẻ tại cửa hàng trực tuyến là hệ thống thời trang công sở K&K Fashion. Thông qua đối tác Appier, K&K Fashion xử lý dữ liệu của khách hàng để đưa ra các đề xuất sản phẩm được cá nhân hóa trên các nền tảng thương mại điện tử.

Nhờ đó, tỷ lệ chuyển đổi của K&K Fashion cao hơn 150% so với mức trung bình của ngành. Hơn nữa, Appier đã giúp K&K thực hiện chiến dịch tiếp thị qua email với các đề xuất sản phẩm có liên quan, giúp nhãn hàng đạt được tỷ lệ chuyển đổi kinh ngạc, gấp 10 lần so với mức chung của thị trường.

Tới đây, thị trường Việt Nam có thêm sự gia nhập của CUE Group – tập đoàn công nghệ toàn cầu có trụ sở Singapore chuyên về các giải pháp trí tuệ nhân tạo trong doanh nghiệp, hứa hẹn sẽ mang tới nhiều chuyển biến tích cực cho ngành bán lẻ.

Năm ngoái, doanh thu của CUE Group đạt hơn 2 tỷ USD, với hơn 2.000 nhân sự. CUE Group được hậu thuẫn bởi quỹ đầu tư KKR, và là đối tác của các tập đoàn lớn như Bytedance, Tencent, JD…

So với các công nghệ hiện có trên thị trường, giải pháp RetailX của CUE được đánh giá là hoàn thiện và tối ưu hơn. Thay vì chờ phân tích và thu thập dữ liệu, điểm cải tiến ở RetailX có thể đưa ra những cảnh báo trong thời gian thực.

Chẳng hạn, chủ doanh nghiệp có thể nhận được ngay cảnh báo khi RetailX phát hiện hành vi không đúng quy chuẩn như đồng phục nhân viên, vấn đề vệ sinh tại cửa hàng. Ở các địa điểm nhạy cảm như ngân hàng, RetailX sẽ cảnh báo ngay lập tức khi xuất hiện người ngã, nguy cơ sử dụng vũ lực…

Nguyên lý hoạt động của RetailX dựa trên một trợ lý AI phần cứng, có kết nối với các camera giám sát, an ninh đang rất phổ biến tại các cửa hàng, trung tâm thương mại, showroom bán lẻ. Trợ lý AI này sau đó sẽ thu thập các dữ liệu bằng hình ảnh và chuyển thành các thông tin hữu ích dành cho doanh nghiệp theo thời gian thực.

Các dữ liệu này có thể là hành vi, sở thích mua sắm của khách hàng. Cũng có thể là thái độ nhân viên tương tác với khách, đồng phục, vệ sinh ở cửa hàng. Cao cấp hơn là các cảnh báo an ninh, cảnh báo ngã, cảnh báo xuất hiện vũ lực…

Bằng cách này, công nghệ RetailX của CUE không chỉ áp dụng riêng cho các cửa hàng bán lẻ, mà phạm vi áp dụng rộng hơn ở các địa điểm như ngân hàng, trung tâm thương mại, sự kiện hội nghị, triển lãm..

Đồng thời, doanh nghiệp cũng có thể nhận các báo cáo hàng tháng, hàng quý từ RetailX để từ đó đưa ra các cải tiến, tối ưu trong kinh doanh.

Bà Hương Giang – Giám đốc điều hành CUE Việt Nam cho biết, trước khi gia nhập thị trường Việt Nam, RetailX đã được áp dụng rộng rãi tại nhiều quốc gia như: Hàn Quốc, Trung Quốc, Malaysia, Singapore… với các khách hàng tiêu biểu như: chuỗi Tous Les Jours, LBX Pharmacy, Under Armour, Emart24,…

Để giúp Tous les Jours đạt được mục tiêu cải thiện quản lý tinh gọn, giảm chi phí và tăng hiệu quả, CUE đã ứng dụng RetailX vào việc thu thập dữ liệu từ các camera hiện có trong các cửa hàng.

Nhờ đó, Tous les Jours đã kiểm soát được tình trạng hàng hóa theo thời gian thực, theo dõi chất lượng dịch vụ cửa hàng, quy tắc ứng xử của nhân viên, yếu tố vệ sinh, và thông tin chi tiết về lưu lượng khách tại cửa hàng ở bất kì thời điểm nào trong ngày.

Với Under Armour, RetailX của CUE đã giúp nhà bán lẻ này thiết lập cửa hàng thể thao kỹ thuật số đầu tiên trên thế giới. Công nghệ giúp số hoá toàn bộ sản phẩm, nâng cao trải nghiệm tổng thể của người tiêu dùng như: phòng thử đồ 3D, máy quét chân…

Từ đó, người dùng có được trải nghiệm lựa chọn sản phẩm phù hợp theo thông số chính xác của cơ thể. Tất cả hành động của khách hàng được RetailX ghi nhận để nghiên cứu dữ liệu, đưa ra giải pháp riêng cho từng cửa hàng.

“Các doanh nghiệp bán lẻ của Việt Nam hiện đang tập trung phát triển theo chiều sâu bằng cách tối ưu chi phí vận hành, tối ưu danh mục hàng hóa, tồn kho, cũng như khai thác tối đa tiềm năng từ dữ liệu khách hàng… cho từng cửa hàng cụ thể. Và việc ứng dụng công nghệ AI vào quản lý kinh doanh sẽ là xu thế tất yếu giúp các doanh nghiệp Việt giải quyết bài toán này với chi phí tiết kiệm nhất”, bà Giang nhận xét.

Hơn hết, phía CUE cho biết, chi phí triển khai RetailX không tốn kém như nhiều doanh nghiệp lo ngại, có thể tuỳ chỉnh theo yêu cầu của từng ngành nghề, và đề cao tính bảo mật của dữ liệu theo các tiêu chuẩn của châu Âu.

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer

Theo The Leader

Profile khủng của CEO lâm thời của OpenAI

Mới đây, thông tin Sam Altman – nhà sáng lập của OpeanAI (công ty mẹ của ChatGPT) chính thức bị đuổi việc đã thu hút không ít sự chú ý. Người tạm thời thay thế CEO 38 tuổi này là Mira Murati – nữ giám đốc công nghệ (CTO) của công ty.

Profile khủng của CEO lâm thời của OpenAI
Profile khủng của CEO lâm thời của OpenAI

ChatGPT là chabot AI ra mắt vào cuối năm ngoái và nhanh chóng gây sốt trên toàn cầu khi cán mốc 100 triệu người dùng chỉ sau 2 tháng. Con số này vô cùng ấn tượng bởi TikTok mất 9 tháng trong khi Instagram mất 30 tháng để đạt mức 100 triệu người dùng. Cùng với sự phổ biến của ChatGPT, Sam Altman cũng được chú ý nhiều hơn trong làng công nghệ với tư cách là nhà sáng lập và CEO của OpenAI.

Tuy nhiên, có một nhân vật khác tuy ít được biết đến hơn nhưng là người đóng vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển của OpenAI. Đầu năm nay, chính Altman đã thừa nhận rằng Murati mới thật sự là người tạo ra ChatGPT.

Trước khi được bổ nhiệm vai trò mới, Murati (34 tuổi) là giám đốc quản lý ChatGPT và DALL-E, mô hình AI chuyển văn bản thành hình ảnh. Đây là những sản phẩm đã thúc đẩy OpenAI – công ty bắt đầu hoạt động cách đây 8 năm với tư cách là một phòng nghiên cứu phi lợi nhuận, đạt được thành công ngoài sức tưởng tượng.

Khi ChatGPT gây bão trên toàn thế giới, Murati là người chịu trách nhiệm đảm bảo công cụ này không gây hiểu lầm cho người dùng, thể hiện sự thiên vị hay loại bỏ tính nhân văn.

Murati sinh ra và lớn lên ở Albania. Thời điểm đó, dù Internet tại quốc gia này chưa thực sự phát triển nhưng Murati luôn tìm kiếm trên mạng để trả lời cho những câu hỏi liên quan đến công nghệ của mình.

Năm 16 tuổi, Murati nhận học bổng tại một trường quốc tế ở Vancouver (Canada). Sau đó, cô lấy bằng kỹ sư tại Dartmouth (Mỹ) rồi chuyển đến San Francisco để đảm nhận vai trò quản lý sản phẩm cấp cao của Tesla (chịu trách nhiệm sản xuất dòng xe Model X).

Bên cạnh đó, cô còn có kinh nghiệm làm việc trong một số lĩnh vực khác như hàng không vũ trụ, thực tế ảo (công ty Leap Motion) và ngân hàng. Murati gia nhập OpenAI năm 2018 với tư cách Phó chủ tịch bộ phận trí tuệ nhân tạo. Từ tháng 5 năm ngoái, cô đảm nhiệm vị trí CTO của công ty.

Murati được đánh giá là lãnh đạo công nghệ có phong cách giản dị. Cô thường mặc trang phục quần jeans và áo phông. Phong thái của cô rất bình tĩnh nhưng cũng thể hiện được sự quyết đoán trong công việc.

Cũng trong năm 2022, cô xuất hiện trên chương trình truyền hình nổi tiếng của Mỹ “The Daily Show”, trả lời về hệ thống DALL-E 2 cũng như các câu hỏi về cách AI có thể nâng cao trí tưởng tượng của xã hội.

Năm nay, Murati được tạp chí Fortune vinh danh trong top 100 phụ nữ quyền lực nhất thế giới. Trong cuộc phỏng vấn mới đây với tờ Wired, Murati cho biết nền tảng của mình là kỹ thuật và tin rằng AGI (trí tuệ nhân tạo tổng hợp) sẽ là công nghệ đóng vai trò quan trọng bậc nhất.

Về phần OpenAI, công ty được cho là đang trên đà đạt mốc doanh thu hơn 1 tỷ USD. Đây là bước nhảy vọt lớn đối với OpenAI khi một số tài liệu cho thấy trong năm ngoái, công ty này chỉ mang lại doanh thu chưa đến 30 triệu USD.

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer

 

Theo Ngọc Hiệp | Markettimes

Chủ nghĩa tiêu dùng (Consumerism) là gì? Ưu và nhược điểm của Chủ nghĩa tiêu thụ

Trong phạm vi bài viết này, hãy cùng MarketingTrips tìm hiểu về một thuật ngữ rất phổ biến trong lĩnh vực kinh tế tiêu dùng nói chung và marketing nói riêng đó là Chủ nghĩa tiêu dùng (tiếng Anh được gọi là Consumerism): chủ nghĩa tiêu dùng là gì, nó ảnh hưởng ra sao đến nền kinh tế, ưu điểm, nhược điểm và ví dụ về chủ nghĩa tiêu dùng (chủ nghĩa tiêu thụ) và hơn thế nữa.

Chủ nghĩa tiêu dùng là gì
Chủ nghĩa tiêu dùng là gì? Ưu và nhược điểm của chủ nghĩa tiêu dùng

Chủ nghĩa tiêu dùng là gì? Được sử dụng rất phổ biến trong kinh tế vĩ mô, tiêu dùng hay cả ngành marketing, thuật ngữ chủ nghĩa tiêu dùng (Consumerism) thường được nhắc đến với ý tưởng tích cực và có lợi cho bản thân người tiêu dùng lẫn xã hội, tuy nhiên trong thực tế nó cũng đi kèm với không ít khía cạnh tiêu cực hay quan điểm trái chiều từ cả góc nhìn kinh tế và xã hội.

Phân tích dưới đây từ MarketingTrips sẽ giúp bạn có được những cái nhìn từ tổng thể đến chi tiết xoay quanh thuật ngữ này, từ các khái niệm và ý nghĩa cơ bản đến các phân tích chuyên sâu về cách chủ nghĩa tiêu dùng tác động đến nền kinh tế và xã hội.

Chủ nghĩa tiêu dùng là gì?

Chủ nghĩa tiêu dùng hay còn được gọi là Chủ nghĩa tiêu thụ hoặc Văn hoá tiêu dùng, trong tiếng Anh có nghĩa là Consumerism, là ý tưởng cho rằng việc tăng cường tiêu thụ các hàng hóa và dịch vụ mua trên thị trường luôn là mục tiêu mong muốn và hạnh phúc của một người tiêu dùng nào đó.

Về cơ bản, sự hạnh phúc và thoả mãn của các nhóm người tiêu dùng này phụ thuộc vào việc họ có được tiêu dùng, mua sắm và sở hữu của cải vật chất hay không. Chủ nghĩa tiêu dùng gắn liền với yếu tố Vật chất hơn là Tinh thần.

Theo ý nghĩa kinh tế, chủ nghĩa tiêu dùng có liên quan đến ý tưởng rằng hoạt động chi tiêu của người tiêu dùng là động lực chính của nền kinh tế và khuyến khích người tiêu dùng chi tiêu nhiều hơn là mục tiêu chính của các chính sách.

Từ quan điểm này, chủ nghĩa tiêu dùng là một hiện tượng tích cực nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.

Tuy nhiên, nhiều quan điểm khác lại cho rằng việc coi động lực để có được nhiều của cải vật chất là gốc rễ của nhiều vấn đề, bao gồm việc gây lo lắng cho cá nhân và làm xói mòn cơ cấu xã hội.

Những lưu ý cần hiểu về cái gọi là Chủ nghĩa tiêu dùng.

  • Chủ nghĩa tiêu dùng là lý thuyết được sử dụng chủ yếu trong lĩnh vực kinh tế thị trường (và marketing) cho rằng những cá nhân hay người tiêu dùng càng tiêu thụ nhiều hàng hóa và dịch vụ thì họ sẽ càng có cuộc sống tốt hơn.
  • Một số nhà kinh tế tin rằng chi tiêu tiêu dùng (consumer spending) giúp kích thích sản xuất và tăng trưởng kinh tế.
  • Các nhà kinh tế xem tiêu dùng (consumption) là việc đáp ứng nhu cầu và mong muốn sinh học của người tiêu dùng dựa trên việc tối đa hóa các tiện ích.
  • Thay vào đó, các nhà xã hội học lại xem tiêu dùng là việc đáp ứng những nhu cầu và mong muốn vốn được nhìn nhận theo hướng xã hội thông qua các giao dịch mang tính biểu tượng.
  • Chủ nghĩa siêu tiêu dùng (Hyper-consumerism) đã bị chỉ trích rộng rãi vì những hậu quả gây ra cho kinh tế, xã hội, môi trường và tâm lý.

Hiểu đúng về khái niệm chủ nghĩa tiêu dùng.

Khi nói đến các khái niệm hay thuật ngữ kinh tế, điều quan trọng không phải là chuyện đúng sai của câu từ mà là ý nghĩa sâu xa hay bản chất đằng sau các khái niệm đó.

Trong cách sử dụng thông thường, chủ nghĩa tiêu dùng đề cập đến xu hướng của những người chủ yếu sống trong nền kinh tế tư bản tham gia vào lối sống chủ nghĩa vật chất quá mức xoay quanh việc tiêu dùng quá mức theo phản xạ (tự nhiên), và điều này thường gây lãng phí.

Theo nghĩa này, chủ nghĩa tiêu dùng được hiểu rộng rãi là góp phần phá hủy các giá trị và lối sống truyền thống, sự bóc lột hoặc “khai thác” người tiêu dùng bởi các doanh nghiệp lớn, thứ cuối cùng sẽ tạo ra sự kiệt quệ về môi trường và những tác động tâm lý tiêu cực khác.

Ví dụ, Thorstein Veblen là nhà kinh tế học và nhà xã hội học thế kỷ 19 nổi tiếng với việc đặt ra thuật ngữ “tiêu dùng phô trương” (conspicuous consumption) trong cuốn sách Lý thuyết về giai cấp nhàn rỗi (1899).

Tiêu dùng phô trương là một phương tiện để thể hiện địa vị xã hội của một người, đặc biệt khi hàng hóa và dịch vụ được trưng bày công khai là quá đắt đối với những người khác cùng tầng lớp. Kiểu tiêu dùng này thường gắn liền với những người giàu có nhưng cũng có thể áp dụng cho bất kỳ tầng lớp kinh tế nào khác trong xã hội, bao gồm cả tầng lớp trung lưu hoặc thấp hơn.

Khi người tiêu dùng chi tiêu, các nhà kinh tế cho rằng người tiêu dùng được hưởng lợi từ các tiện ích của hàng tiêu dùng mà họ mua, nhưng các doanh nghiệp cũng được hưởng lợi từ việc tăng doanh thu và lợi nhuận. Ví dụ: nếu doanh số bán ô tô tăng, các nhà sản xuất ô tô sẽ thấy lợi nhuận tăng.

Một số nhà kinh tế khác coi mức chi tiêu tiêu dùng ngày càng tăng là mục tiêu quan trọng trong việc xây dựng và duy trì một nền kinh tế vững mạnh, bất kể lợi ích đối với người tiêu dùng hay toàn xã hội. Tuy nhiên, những người khác lại khá lo ngại về những tác động xã hội tiêu cực mà chủ nghĩa tiêu dùng (đặc biệt là chủ nghĩa siêu tiêu dùng) gây ra.

Những tác động kinh tế của chủ nghĩa tiêu dùng.

Theo lý thuyết về kinh tế học vĩ mô của nhà kinh tế học Keynes, thúc đẩy chi tiêu của người tiêu dùng thông qua chính sách tài chính và tiền tệ là mục tiêu hàng đầu của các nhà hoạch định chính sách kinh tế.

Chi tiêu tiêu dùng luôn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng cầu và tổng sản phẩm quốc nội (GDP), do đó thúc đẩy chi tiêu tiêu dùng được coi là cách hiệu quả nhất để lèo lái nền kinh tế theo hướng tăng trưởng.

Chủ nghĩa tiêu dùng coi người tiêu dùng (consumer) là mục tiêu của chính sách kinh tế và là dòng tiền (cash cow) cho kinh tế với niềm tin duy nhất rằng việc tăng cường tiêu dùng sẽ mang lại lợi ích cho nền kinh tế. Tiết kiệm thậm chí có thể được coi là có hại cho nền kinh tế vì nó gây tổn hại đến chi tiêu tiêu dùng tức thì.

Các hoạt động Marketing và quảng cáo của doanh nghiệp thường tập trung vào việc tạo ra nhu cầu của người tiêu dùng đối với các sản phẩm mới hơn là thông báo cho người tiêu dùng về các tiêu dùng cần thiết đơn thuần.

Hiểu về khái niệm Tiêu dùng phô trương.

Nhà kinh tế chính trị Thorstein Veblen là người đã phát triển nên khái niệm tiêu dùng phô trương vào năm 1899, trong đó ông đưa ra giả thuyết rằng một số người tiêu dùng mua, sở hữu và sử dụng sản phẩm không phải vì giá trị sử dụng trực tiếp của chúng mà như là một cách để báo hiệu địa vị kinh tế và xã hội của họ.

Khi mức sống tăng lên, mức tiêu dùng phô trương cũng tăng lên.

Dưới hình thức tiêu dùng phô trương, chủ nghĩa tiêu dùng có thể tạo ra chi phí thực tế rất lớn cho nền kinh tế. Việc tiêu thụ hàng hoá chỉ để giành lấy địa vị xã hội cuối cùng sẽ đè nặng lên môi trường, thị trường và nhiều thứ khác.

Các nhà xã hội học coi chủ nghĩa tiêu dùng là sự tiêu dùng mang tính biểu tượng và có thể không giúp tối đa hóa lợi ích cá nhân của người tiêu dùng.

Thay vào đó, nó có thể đóng vai trò là tín hiệu cho người khác và giúp xác định danh tính của một người nào đó. Khi trở thành người tiêu dùng, các tác nhân xã hội (ví dụ như các áp lực ngang hàng hoặc nhà quảng cáo) sẽ làm hạn chế quyền tự do lựa chọn của chính người tiêu dùng.

Ưu điểm và nhược điểm của chủ nghĩa tiêu dùng là gì?

Ưu điểm của chủ nghĩa tiêu dùng.

Những người ủng hộ chủ nghĩa tiêu dùng coi việc chi tiêu của người tiêu dùng là hành động có thể thúc đẩy nền kinh tế và dẫn đến tăng cường sản xuất hàng hóa và dịch vụ. Khi chi tiêu tiêu dùng cao hơn, GDP có thể tăng lên.

Nhược điểm của chủ nghĩa tiêu dùng.

Chủ nghĩa tiêu dùng thường bị chỉ trích vì lý do văn hóa. Một số người thấy rằng chủ nghĩa tiêu dùng có thể dẫn đến một xã hội sống vì vật chất mà bỏ qua các giá trị khác ví dụ như yếu tố tinh thần hay văn hoá.

Các phương thức sản xuất và lối sống truyền thống có thể được thay thế bằng việc tập trung vào việc tiêu thụ những hàng hóa đắt tiền hơn bao giờ hết với số lượng lớn hơn.

Chủ nghĩa tiêu dùng thường gắn liền với toàn cầu hóa trong việc thúc đẩy sản xuất và tiêu thụ hàng hóa và thương hiệu được giao dịch toàn cầu, điều này có thể không tương thích với văn hóa địa phương và mô hình hoạt động kinh tế của một số quốc gia nhất định. Chủ nghĩa tiêu dùng cũng có thể tạo ra động cơ khuyến khích người tiêu dùng gánh những khoản nợ không bền vững, điều này cũng góp phần gây ra khủng hoảng và suy thoái tài chính.

Các vấn đề về môi trường cũng thường gắn liền với chủ nghĩa tiêu dùng. Những vấn đề có thể bao gồm sự phát triển đô thị, ô nhiễm, cạn kiệt tài nguyên và các vấn đề về xử lý chất thải từ các hàng hoá tiêu dùng và bao bì dư thừa.

Chủ nghĩa tiêu dùng cũng bị chỉ trích vì lý do tâm lý. Nó được cho là nguyên nhân làm gia tăng sự lo lắng về địa vị, khi mọi người chịu nhiều áp lực liên quan đến địa vị xã hội và nhận thấy rằng nhu cầu của họ không “theo kịp những người nổi tiếng” hay những người khác trong xã hội.

Nghiên cứu tâm lý đã chỉ ra rằng những người tổ chức cuộc sống của họ xung quanh các mục tiêu tiêu dùng, chẳng hạn như mua sản phẩm, thường có tâm trạng kém hơn, bất hạnh hơn trong các mối quan hệ và các vấn đề tâm lý khác.

Các thí nghiệm tâm lý khác cũng đã chỉ ra rằng những người tiếp xúc với các giá trị tiêu dùng dựa trên sự giàu có, địa vị và của cải vật chất thường có biểu hiện lo lắng và trầm cảm nhiều hơn.

Nói cách khác, khoa học cho thấy chủ nghĩa tiêu dùng không hề khiến con người hạnh phúc chút nào (như cách mà những người ủng hộ chủ nghĩa tiêu dùng phát ngôn).

Một số ví dụ về chủ nghĩa tiêu dùng là gì?

Chủ nghĩa tiêu dùng (Consumerism) được xác định bằng việc một người tiêu dùng nào đó không ngừng theo đuổi việc mua sắm và tiêu dùng. Các ví dụ bao gồm mua sắm thoải mái, đặc biệt là những hoạt động thu hút nhiều người, chẳng hạn như trong các mùa lễ hội mua sắm hay giảm giá.

Một ví dụ khác về chủ nghĩa tiêu dùng liên quan đến việc theo đuổi các sản phẩm mới hàng năm (sản phẩm mới về cơ bản là có cùng mục đích sử dụng với các sản phẩm hiện có).

Tiêu dùng phô trương cũng là một ví dụ khác của chủ nghĩa tiêu dùng khi người tiêu dùng mua hàng chỉ để thể hiện địa vị hoặc thể hiện một hình ảnh cá nhân nào đó của họ. (Mặc dù điều này không phải lúc nào cũng mang hàm ý tiêu cực).

Chủ nghĩa tiêu dùng có hại cho xã hội không?

Trong khi mọi người cần phải là người tiêu dùng để sống và đạt được những nhu cầu cũng như mong muốn của mình, chủ nghĩa tiêu dùng quá mức được nhiều người bao gồm cả các chuyên gia kinh tế cho là ảnh hưởng tiêu cực đến xã hội.

Chủ nghĩa tiêu dùng dẫn đến các ngoại tác tiêu cực như ô nhiễm và lãng phí. Hơn nữa, chủ nghĩa tiêu dùng bắt đầu định nghĩa con người bằng những gì họ sở hữu.

Theo một số nhà xã hội học, văn hóa đại chúng chủ yếu được xây dựng và trở nên phổ biến thông qua ngành quảng cáo tạo ra những người tiêu dùng đóng vai trò thụ động bị các thương hiệu thao túng hơn là những thực thể năng động và sáng tạo.

Có những thành kiến mang tính hệ thống trong hệ thống tạo ra chủ nghĩa tiêu dùng. Nếu những thành kiến ​​này bị loại bỏ, nhiều người tiêu dùng sẽ áp dụng lối sống ít tiêu dùng hơn.

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer