Theo báo cáo của Ủy ban Giao dịch và Chứng khoán Mỹ, chỉ trong vòng 6 tháng đầu năm 2022, thuật ngữ Metaverse xuất hiện với tần suất dày đặc, tuy nhiên, liệu Metaverse có là tương lai của Internet.
Theo báo cáo của Ủy ban Giao dịch và Chứng khoán Mỹ, chỉ trong vòng sáu tháng đầu năm 2022, chữ “metaverse” xuất hiện khoảng hơn 1.100 lần trong các hồ sơ (regulatory filings) của các công ty trên sàn chứng khoán. Một năm trước đó, con số này mới chỉ là 260 lần, và chỉ khoảng hơn chục lần trong 20 năm trước đây.
Cuộc đua… vào vũ trụ ảo Metaverse.
Hiện nay, Amazon, Apple, Google, Microsoft, Nvidia, Tencent – sáu trong các công ty lớn nhất thế giới – đang đua nhau xây dựng metaverse.
Hồi tháng 1-2022, Microsoft thông báo chi trả khoản tiền 75 triệu đô la Mỹ cho công ty chuyên về trò chơi điện tử Activision Blizzard để công ty này hỗ trợ xây dựng metaverse.
Theo ước tính của McKinsey & Company thì tổng số vốn đầu tư liên quan tới metaverse lên tới 120 tỉ đô la Mỹ chỉ trong vòng năm tháng đầu năm nay.
Metaverse là gì? Metaverse (tạm dịch là vũ trụ ảo) là một thế giới “kéo dài” của thế giới thực, trong đó mỗi cá nhân sẽ được thể hiện qua dạng avatar, và sống trong một không gian ba chiều (3D).
Điều đó có nghĩa là người tham gia metaverse có thể tự do lựa chọn hình ảnh đại diện, tương tác với các thành viên khác hay cũng có thể di chuyển trong thế giới ảo, nhờ vào kính thực tế ảo và nhiều công cụ hỗ trợ khác. Metaverse có thể hướng tới nhiều mục đích khác nhau, như giải trí, giáo dục, công việc hay kinh doanh.
Ý tưởng về metaverse đã tồn tại từ cả thế kỷ nay, nhưng thuật ngữ metaverse xuất hiện cách đây chỉ khoảng 30 năm, đầu tiên là trong các tiểu thuyết… khoa học viễn tưởng.
Trong cuốn Snow Crash (1992), tác giả Neal Stephenson miêu tả một thế giới hiện tại ảo (virtual reality-VR).
Đó là một thế giới metaverse do máy tính tạo ra, con người giao tiếp, làm việc và giải trí trong thế giới này, nhờ vào kính ảo và kết nối Internet.
Metaverse nghe có vẻ rất giống Matrix, thế giới ảo trong bộ phim nổi tiếng cùng tên, nhưng Matrix lại là một vũ trụ giả lập mà hầu như tất cả mọi người sống cả cuộc đời ở đây.
Metaverse là thế giới ảo tồn tại song song với thế giới thực, nơi người ta có thể lựa chọn kết nối với nó, hay không.
Hiện nay, lợi ích kinh tế của metaverse là không thể phủ nhận. Theo Citi and KPMG, metaverse sẽ đạt giá trị doanh thu 13 tỉ đô la Mỹ/năm vào năm 2030.
Tất nhiên, ở thời điểm này, vũ trụ ảo metaverse chưa thực sự định hình, và đối với phần lớn chúng ta, nó vẫn còn khá vô hình.
Nhưng phải thừa nhận rằng thế giới của chúng ta hiện nay đang thay đổi một cách chóng mặt nhờ vào công nghệ. Chúng ta chuyển nhanh từ máy tính bàn kết nối Internet tới di động rồi tới công nghệ đám mây.
Hiện nay, Internet tồn tại ở mọi quốc gia, với khoảng 40.000 mạng máy tính, hàng triệu ứng dụng, hàng tỉ máy chủ, khoảng hơn hai tỉ trang web cũng như hàng chục tỉ thiết bị. Những công nghệ nói trên đều có thể chia sẻ thông tin, dữ liệu, hoặc kết nối với nhau.
Theo tờ Time, hiện nay, khoảng 20% nền kinh tế thế giới được coi là “số hóa”, trong khi 80% còn lại cũng vận hành nhờ vào thế giới số.
Cuộc cách mạng tiếp theo rất dễ có thể là một thế giới ảo, nơi chúng ta có thể tồn tại dưới dạng không gian ba chiều, chứ không chỉ “đứng ngoài” như hiện nay.
Tuy nhiên, để xây dựng và vận hành metaverse- nơi có số lượng khổng lồ người tham gia tương tác, thì hệ thống hiện nay chưa đáp ứng được, cũng như cần vô số các thiết bị điện tử mới để có thể tham gia vào metaverse như ta hình dung.
Hiện nay, phiên bản gần nhất với metaverse là trò chơi Second Life, với khoảng hơn một triệu người chơi vào năm 2008, tuy nhiên, nó chỉ mới ở dạng không gian 2 chiều (2D) mà thôi.
Metaverse liệu sẽ “tái tạo tương lai”?
Vậy chúng ta liệu có thể dự đoán tương lai “metaverse” sẽ là thế nào? Một ngày kia, một thế giới ảo tồn tại song song với thế giới thật sẽ có thể “kiểm soát” cả thế giới thật của chúng ta?
David Chalmers, triết gia, giáo sư về khoa học thần kinh của trường New York University cho rằng metaverse sẽ dần trở thành “hiện thực”. Cùng quan điểm với ông, không ít chuyên gia cũng dự đoán rằng metaverse sẽ “tái tạo tương lai”.
Theo nghiên cứu của Pew Research Center, 54% các chuyên gia được phỏng vấn (gồm các chuyên gia về công nghệ, chuyên gia phần mềm, các nhà lãnh đạo về chính sách và kinh doanh, nhà nghiên cứu và hoạt động xã hội) cho rằng tới năm 2040 thì metaverse sẽ trở nên hoàn hoàn “đắm chìm” (immersive – có nghĩa là ở không gian ba chiều nơi người sử dụng có thể tương tác và cảm giác như thật) và sẽ có thể vận hành mọi thao tác của đời sống hàng ngày của hàng trăm triệu người.
Ví dụ, nhiều chuyên gia dự đoán rằng metaverse trong tương lai sẽ làm thay đổi cách giáo dục. Thay vì xem một đoạn video Apollo 15 và thí nghiệm mà phi hành gia David Scott thực hiện trên mặt trăng, học sinh có thể trực tiếp làm thí nghiệm trên mặt trăng, trong thế giới ảo.
Thay vì giải phẫu một con ếch, học sinh có thể đi thăm cơ quan nội tạng của nó với từng chi tiết chính xác. Cho dù học sinh đó ở đâu, ở Mỹ hay ở Việt Nam, thì đều có thể tiếp cận được với phương pháp giáo dục này.
Tuy nhiên, đối với nhiều người khác, thì rất khó có thể dự đoán vai trò của metaverse trong tương lai. Liệu metaverse có chỉ dừng lại ở vị trí “giải trí”, là một trò chơi giả tưởng không hơn không kém?
Nếu nhìn vào tốc độ phát triển của công nghệ hiện nay, thì ta có thể thấy rõ rằng xã hội con người đã thay đổi sâu rộng như thế nào từ sự ra đời của công nghệ kỹ thuật số.
Metaverse hoàn toàn có thể là “kỷ nguyên thứ 4”, sau sự xuất hiện của máy tính lớn (mainframe) từ những năm 1950, tiếp theo là máy tính cá nhân và Internet từ những năm 1980 và của thiết bị di động và điện toán đám mây mà chúng ta đang dùng ngày nay.
Tất nhiên, một số người vẫn hy vọng rằng metaverse chỉ dừng lại ở trò chơi giả tưởng. Theo họ, các ông lớn công nghệ đã và đang có ảnh hưởng quá lớn tới cuộc sống của chúng ta, và metaverse sẽ là một bước kiểm soát khác sâu rộng hơn nhiều.
Tim Sweeney, nhà sáng lập, giám đốc điều hành của Epic Games từng nói rằng “nếu một công ty giành được quyền kiểm soát metaverse, thì họ sẽ có quyền lực hơn bất kỳ chính phủ nào”.
Hiện nay, lợi ích kinh tế của metaverse là không thể phủ nhận. Theo Citi and KPMG, metaverse sẽ đạt giá trị doanh thu 13 tỉ đô la Mỹ vào năm 2030.
Jensen Huang, nhà sáng lập của Nvidia thì tin rằng GDP của metaverse một ngày nào đó sẽ “vượt cả GDP của thế giới thực”.
MoMo và Starbucks Vietnam vừa chính thức công bố hợp tác, theo đó, MoMo là ví điện tử đầu tiên trở thành phương thức thanh toán tại tất cả các cửa hàng Starbucks trên toàn quốc.
Dưới tác động của đại dịch trong suốt hơn 2 năm qua, chuyển đổi số đã và đang trở thành xu hướng tất yếu đối với hầu hết doanh nghiệp, đặc biệt trong lĩnh vực F&B nhằm phục vụ người dùng đa kênh (Omni-channel), đáp ứng tiện ích thanh toán mới, chuyển đổi số còn là cách để doanh nghiệp cung cấp trải nghiệm vượt trội cho khách hàng.
Thêm vào đó, xu hướng hợp tác giữa các doanh nghiệp F&B và các Fintech trong lĩnh vực thanh toán cũng trở thành động lực thúc đẩy xã hội thanh toán không tiền mặt an toàn và hiện đại.
Tại Việt Nam, MoMo là ví điện tử đầu tiên trở thành phương thức thanh toán của chuỗi Starbucks Vietnam (bằng hình thức mã thanh toán).
Như vậy, bên cạnh hình thức thanh toán tiền mặt và thẻ, từ nay, khách hàng Starbucks Vietnam đã có thể trải nghiệm phương thức thanh toán nhanh chóng, tiện lợi và tiệm cận lối sống không tiền mặt đã phát triển tại nhiều quốc gia.
Hợp tác này là bước khởi đầu trong mục tiêu mang đến một trải nghiệm hiện đại, thuận tiện và an toàn cho người dùng.
Thông qua hợp tác với MoMo, Starbucks Vietnam có thể ngay lập tức kết nối với hệ sinh thái hàng chục triệu người dùng tích cực của MoMo và khách hàng có thể dễ dàng thanh toán tại Starbucks bằng MoMo.
Dự kiến trong tương lai gần, hai bên sẽ nghiên cứu, triển khai thêm nhiều dịch vụ, cải tiến tính năng mới, nâng cao trải nghiệm người dùng.
Chia sẻ về hợp tác, bà Patricia Marques, Tổng giám đốc Starbucks Vietnam cho biết: “Hiện nay, với nhu cầu ngày càng tăng về tính tiện dụng trong việc thanh toán thì ví điện tử là một trong những tiêu chí mà Starbucks Vietnam mong muốn có tại các cửa hàng để tạo thêm sự thuận tiện hơn cho khách hàng.
Với MoMo, chúng tôi đã tìm được một đối tác lý tưởng không chỉ về mặt ứng dụng công nghệ mà còn về sức ảnh hưởng lớn trong cộng đồng người tiêu dùng tại Việt Nam.
Chúng tôi hy vọng thông qua việc hợp tác này có thể nâng cao hơn nữa chất lượng phục vụ tại chuỗi Starbucks Vietnam”.
Tham gia Cộng đồng We’re Marketer để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: Link
Xu hướng chi quảng cáo của các nhà phát triển và chính sách cập nhật của Apple năm ngoái đã tác động trực tiếp đến vị thế của những ông lớn trên thị trường.
Theo nghiên cứu mới đây của Appsumer, Apple tiếp tục tham vọng chen chân vào thị trường quảng cáo trực tuyến, trong bối cảnh Google và Facebook đang khốn đốn với mảng kinh doanh này.
Vị thế độc quyền của hai ông lớn trong ngành đang đứng trước nguy cơ tan rã.
Nghiên cứu này dựa trên phân tích ngân sách quảng cáo trực tuyến (Online Advertising) của hơn 100 công ty ứng dụng tiêu dùng khác nhau, từ đó chỉ ra rằng mảng kinh doanh quảng cáo của Apple đã được hưởng lợi từ bản cập nhật chính sách bảo mật iOS hồi năm ngoái.
Cụ thể, tính năng App Tracking Transparency (ATT) được Apple trang bị trên iOS 14.5 cho phép người dùng quyết định các ứng dụng nào có thể giám sát hoạt động, thu thập dữ liệu IDFA của mình.
Thống kê của Appsumer cho thấy, trong quý II vừa qua, tỷ lệ chấp nhận nhà quảng cáo xuất hiện trên App Store đã tăng gần 4% so với năm ngoái, lên 94,8%. Trong khi đó, tỷ lệ này ở Google và Facebook đều giảm lần lượt 2% và 3%.
Apple đã “bước vào lĩnh vực độc quyền của Facebook và Google, đồng thời chiếm vị trí đầu bảng về sự chấp nhận của nhà quảng cáo”, Appsumer nhận định.
Shumel Lais, Tổng giám đốc Appsumer, cho rằng vị thế của Apple được cải thiện một phần do ngày càng nhiều nhà phát triển ứng dụng sẵn sàng chi trả mạnh tay hơn để tăng cường lượt tải xuống.
Đồng thời, việc cập nhật tính năng ATT cũng gây trở ngại cho các công ty như Facebook, Google trong việc theo dõi người dùng và đưa ra quảng cáo phù hợp.
“Đáng chú ý, các giới hạn thu thập dữ liệu ATT phổ biến không áp dụng theo cách tương tự với Apple”, Lais nói. Điều đó có nghĩa là “Apple có thể có khả năng hiển thị tốt hơn một chút hoặc có lợi thế hơn so với các kênh khác trên iOS”.
Xét về tổng chi tiêu của nhà phát triển ứng dụng trên “miếng bánh chung” thì Google vẫn đứng đầu với 34% thị phần, Facebook đứng thứ hai với 28%, tiếp theo là Apple với 15%.
Ở phân khúc thị trường thấp hơn, TikTok đã vượt qua Snap với 3% thị phần, nhưng bị giảm gần 7% tỷ lệ chấp nhận ứng dụng trong quý thứ II.
Lais cho biết các nhà phát triển ứng dụng vẫn đang cố gắng tìm kiếm cách quảng cáo tối ưu trên nền tảng của các video ngắn.
Thật ra, các dữ liệu đều không quá tệ cho Facebook, khi thị phần công ty đã tăng lên 28%, cho thấy công ty đang có “dấu hiệu phục hồi”.
Vào tháng 7, Meta, công ty mẹ của Facebook đã báo cáo doanh thu quý II sụt giảm nhanh hơn dự kiến và cho biết doanh số bán hàng sẽ giảm trở lại so với cùng kỳ năm trước trong quý III.
Lais cho biết Facebook được hưởng lợi từ sự ngẫu nhiên của quảng cáo, so với Google và Apple, những công ty sắp xếp quảng cáo dựa trên các cụm từ khoá tìm kiếm.
“Facebook vẫn có những đặc tính rất độc đáo để người dùng khám phá, vì vậy, công ty vẫn còn cơ hội,” Lais nói.
Tham gia Cộng đồng We’re Marketer để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: Link
Cùng tìm hiểu về các nội dung như thương mại điện tử là gì, các mô hình kinh doanh thương mại điện tử (TMĐT) chính, các sàn thương mại điện tử lớn trên toàn cầu và nhiều nội dung khác.
Thương mại điện tử là gì? Trong bối cảnh khi mà nền kinh tế chịu sự chi phối ngày càng lớn của các yếu tố công nghệ và kỹ thuật số (digital), các hoạt động kinh doanh hay thương mại theo đó cũng ngày càng phát triển mạnh mẽ hơn trên môi trường trực tuyến (internet), khái niệm thương mại điện tử cũng được ra đời từ đây.
Các nội dung sẽ được MarketingTrips phân tích trong bài bao gồm:
Một số lưu ý về khái niệm thương mại điện tử mà bạn nên hiểu.
Ưu điểm của thương mại điện tử là gì?
Nhược điểm của thương mại điện tử là gì?
Thương mại điện tử được ra đời trong bối cảnh nào.
Sự khác biệt giữa thương mại điện tử và doanh nghiệp điện tử (eBusiness) là gì?
Thấu hiểu thuật ngữ thương mại điện tử.
Website hay ứng dụng (App) thương mại điện tử là gì?
Các số liệu thống kê chính về thương mại điện tử toàn cầu bạn cần theo dõi trong 2022 là gì?
Phân tích một số mô hình thương mại điện tử phổ biến trên toàn cầu.
Một số câu hỏi thường gặp trong lĩnh vực thương mại điện tử.
Dưới đây là nội dung chi tiết.
Thương mại điện tử là gì?
Thương mại điện tử là khái niệm được dùng để chỉ một mô hình kinh doanh trong đó các doanh nghiệp, thương hiệu hay thậm chí là cá nhân mua bán hàng hóa và dịch vụ qua môi trường trực tuyến (Internet).
Các hoạt động thương mại điện tử chủ yếu diễn ra thông qua 4 mô hình chính bao gồm: B2C (Business to Consumer), B2B (Business to Business), C2C (Customer to Customer) và C2B (Customer to Business).
Vì mọi sản phẩm và dịch vụ đều có thể được mua bán thông qua mô hình thương mại điện tử, đây được xem là một trong những mô hình kinh doanh mang tính đột phá và có tiềm năng tăng trưởng cao trong tương lai.
Theo Wikipedia, thương mại điện tử là tất cả những gì liên quan đến hoạt động mua hoặc bán sản phẩm theo phương thức điện tử trên các nền tảng trực tuyến hoặc qua Internet.
Thương mại điện tử hoạt động dựa trên các công nghệ như thương mại di động (mobile commerce), chuyển tiền điện tử (electronic transfer), quản lý chuỗi cung ứng, internet marketing, xử lý giao dịch trực tuyến, trao đổi dữ liệu điện tử (EDI) và hệ thống thu thập dữ liệu tự động.
Những tiến bộ của các yếu tố công nghệ và ngành công nghiệp điện tử là nền tảng và tiền đề cho sự phát triển của thương mại điện tử.
Thương mại điện tử trong tiếng Anh có nghĩa Electronic Commerce.
eCommerce Enabler là gì?
eCommerce Enabler là doanh nghiệp cung cấp các giải pháp đầu cuối cho các thương hiệu kinh doanh thương mại điện tử.
Các dịch vụ này có thể bao gồm việc quản lý các cửa hàng chính thức, cung cấp dịch vụ digital marketing, dịch vụ sáng tạo, quản lý dịch vụ khách hàng, quản lý và thực hiện chuỗi cung ứng.
Nói một cách dễ hiểu, các eCommerce Enabler giúp các thương hiệu bán hàng trực tuyến hoạt động xuyên suốt và hiệu quả hơn trên thị trường thương mại điện tử.
Thương mại là gì?
Thương mại là khái niệm dùng để đề cập đến việc các bên mua và bán tham gia vào quá trình trao đổi hàng hoá. Thay vì với thương mại điện tử, các bên mua bán hàng hoá trên môi trường trực tuyến, Thương mại chỉ quan đến việc mua bán hàng hoá.
Thương mại di động là gì?
Thuật ngữ Thương mại di động (Mobile Commerce) hoặc Mobile eCommerce lần đầu được đặt ra vào năm 1997 bởi Kevin Duffey tại buổi ra mắt Diễn đàn Thương mại Di động Toàn cầu.
Thương mại di động đề cập đến “năng lực thương mại điện tử trong việc phân phối hàng hoá trực tiếp đến tay người tiêu dùng, ở bất kỳ đâu, thông qua công nghệ không dây.”
Một số lưu ý về khái niệm thương mại điện tử mà bạn nên hiểu.
Thương mại điện tử chỉ đơn giản là việc mua bán hàng hóa và dịch vụ qua môi trường Internet.
Các giao dịch thương mại điện tử chủ yếu được tiến hành trên máy tính, máy tính bảng, điện thoại thông minh và các thiết bị thông minh khác.
Hầu hết mọi thứ đều có thể được mua bán thông qua thương mại điện tử.
Thương mại điện tử hoàn toàn có thể thay thế cho các cửa hàng truyền thống, mặc dù một số doanh nghiệp chọn cách duy trì song song cả hai mô hình.
Thương mại điện tử hoạt động chủ yếu trên 4 phân khúc thị trường chính bao gồm B2B (bán hàng từ doanh nghiệp đến doanh nghiệp), B2C (bán hàng từ doanh nghiệp tới người tiêu dùng), C2C (bán hàng từ người tiêu dùng tới người tiêu dùng) và C2B (bán hàng từ người tiêu dùng tới doanh nghiệp.
Những ưu điểm và nhược điểm của mô hình thương mại điện tử.
Mặc dù được xem là một trong những mô hình kinh doanh của tương lai, bản thân eCommerce cũng có những ưu điểm và nhược điểm riêng.
Ưu điểm của thương mại điện tử là gì?
Khi nói đến thương mại điện tử, thuận tiện là một trong những ưu điểm hay lợi thế lớn nhất. Trong khi ở các mô hình kinh doanh truyền thống, bạn chỉ có thể mua bán hay giao dịch trong một khoảng thời gian nhất định, với thương mại điện tử, bạn có thể liên tục giao dịch 24h mỗi ngày và 7 ngày mỗi tuần.
Nhiều sự lựa chọn là một lợi thế tiếp theo trên thương mại điện tử. Vì vốn không có sự giới hạn về không gian trưng bày như các mô hình truyền thống hay tại các cửa hàng vât lý, các cửa hàng thương mại điện tử có thể cung cấp cho người tiêu dùng vô số các sản phẩm và dịch vụ khác nhau.
Người tiêu dùng thậm chí có thể tìm thấy các sản phẩm chỉ có trên các sàn giao dịch thương mại điện tử mà không tìm thấy ở bất cứ đâu khác.
Nhược điểm của thương mại điện tử là gì?
Dịch vụ khách hàng bị hạn chế là nhược điểm đầu tiên của các nền tảng thương mại điện tử. Nếu bạn mua máy tính trực tuyến, bạn không thể yêu cầu nhân viên trực tiếp kiểm tra các tính năng mà bạn mong muốn được xem.
Mặc dù với những ứng dụng của các yếu tố công nghệ, người dùng có thể trò chuyện bất cứ khi nào với các nền tảng, yếu tố trực tiếp là không thể thay thế.
Nhược điểm tiếp theo của các mô hình thương mại điện tử là tính tức thời trong quá trình mua bán hay giao dịch. Khi bạn mua một món hàng nào đó trực tuyến, bạn phải đợi một khoảng thời gian nhất định trước khi tận tay chạm lấy nó.
Thiếu khả năng trải nghiệm sản phẩm cũng là một hạn chế của thương mại điện tử. Thay vì với các mô hình kinh doanh truyền thống (bán hàng trực tiếp tại cửa hàng), bạn có thể thoải mái trải nghiệm các sản phẩm trước khi ra quyết định mua hàng.
Với thương mại điện tử, mọi thứ trở nên khó khăn hơn rất nhiều. Mặc dù ở môt số ngành hàng ở một số quốc gia nhất định, thông qua các công nghệ như VR và AR, người dùng có thể thử các sản phẩm trực tuyến, tuy nhiên mọi thứ vẫn còn rất hạn chế.
Thương mại điện tử được ra đời trong bối cảnh nào.
Ngày nay, hầu hết chúng ta đã từng mua sắm trực tuyến một thứ gì đó tại một thời điểm nào đó, điều này có nghĩa là chúng ta đã tham gia vào ngành thương mại điện tử.
Trong khi thương mại điện tử có mặt ở khắp mọi nơi, chỉ một số ít người biết rằng thương mại điện tử đã xuất hiện trước cả khi internet bắt đầu.
Các hoạt động thương mại điện tử chính thức được bắt đầu từ những năm 1960 khi các doanh nghiệp sử dụng một hệ thống điện tử được gọi là “Trao đổi dữ liệu điện tử” (Electronic Data Interchange) để tạo điều kiện thuận lợi cho việc chuyển giao tài liệu.
Tuy nhiên, mãi đến năm 1994 mới có giao dịch thương mại điện tử đầu tiên.
Giao dịch liên quan đến việc bán đĩa CD giữa những người dùng với nhau thông qua một website bán lẻ trực tuyến có tên là NetMarket.
Kể từ giao dịch đầu tiên này, ngành công nghiệp thương mại điện tử đã trải qua rất nhiều thay đổi khác nhau và không ngừng phát triển.
Trong bối cảnh mới, khi thương mại điện tử dần trở thành một phương thức mua sắm được nhiều tiêu dùng bình chọn, các nhà bán lẻ truyền thống buộc phải dần tìm cách thích nghi mới có thể cạnh tranh với những cái tên như Alibaba, Amazon, eBay, Etsy hay Shopee.
Bởi những lợi thế vô cùng lớn như dễ dàng mua sắm, mua sắm không giới hạn, giao hàng miễn phí, giảm chi phí cho người tiêu dùng, ngành thương mại điện tử nói chung đang dần trở thành xu hướng của tương lai.
Sự khác biệt giữa thương mại điện tử và doanh nghiệp điện tử (eBusiness) là gì?
Thương mại điện tử là khái niệm đề cập đến tất cả những gì liên quan đến việc mua bán hàng hóa và dịch vụ trên môi trường trực tuyến (internet) và nó thực sự chỉ là một phần của doanh nghiệp điện tử (eBusiness).
Doanh nghiệp điện tử ngược lại liên quan đến toàn bộ quá trình điều hành một doanh nghiệp trực tuyến, dĩ nhiên, bán hàng (trực tuyến) chỉ là một phần của doanh nghiệp bên cạnh các bộ phận hay chức năng khác như công nghệ, tài chính, marketing hay nhân sự.
Thấu hiểu thuật ngữ thương mại điện tử là gì?
Như đã phân tích ở trên, thương mại điện tử là quá trình mua bán các sản phẩm và dịch vụ trên môi trường trực tuyến.
Để một giao dịch thương mại điện tử được xảy ra, có khá nhiều bên sẽ cùng tham gia vào quá trình xử lý dữ liệu, vận chuyển hàng hoá (logistics) và cả thanh toán (thông thường là từ các bên thứ 3).
Thương mại điện tử là một phần của ngành công nghiệp lớn hơn được gọi là kinh doanh điện tử hay doanh nghiệp điện tử (eBusiness), bao gồm tất cả các quy trình cần thiết để điều hành một doanh nghiệp trực tuyến (không chỉ là bán hàng trực tuyến).
Thương mại điện tử đã giúp các doanh nghiệp (đặc biệt là những doanh nghiệp nhỏ) tiếp cận và thiết lập sự hiện diện rộng rãi hơn trên thị trường bằng cách cung cấp các kênh phân phối rẻ hơn và hiệu quả hơn cho các sản phẩm hoặc dịch vụ của họ.
Website hay ứng dụng (App) thương mại điện tử là gì?
Các website hay ứng dụng thương mại điện tử là bất kỳ nền tảng nào cho phép người dùng mua và bán các sản phẩm và dịch vụ trực tuyến. Những cái tên như Amazon, Alibaba, Shopee, Lazada, Tiki là các ví dụ cụ thể về nền tảng thương mại điện tử.
Phân tích một số mô hình thương mại điện tử phổ biến trên toàn cầu.
B2C – Business to Consumer.
B2C thường được mô tả gắn liền với các hoạt động mua sắm ở trung tâm thương mại, siêu thị, ăn uống tại nhà hàng và một số hình thức mua sắm tại chỗ khác.
Tuy nhiên, với sự trỗi dậy của Internet, một mô hình kinh doanh B2C hoàn toàn mới dưới hình thức thương mại điện tử được gọi là B2C eCommerce đã được hình thành.
B2C eCommerce là mô hình đề cập những gì liên quan đến việc một doanh nghiệp bán hàng hóa hoặc dịch vụ cho một người tiêu dùng là cá nhân.
Hãy hình dung việc bạn mua một món hàng nào đó chẳng hạn như một đôi giày từ một nhà bán lẻ trực tuyến.
Khi một doanh nghiệp bán một hàng hóa hoặc dịch vụ cho một doanh nghiệp khác, mô hình này được gọi là B2B, nơi các doanh nghiệp trực tuyến trao đổi hàng hóa với nhau.
Ví dụ, khi một nhà sản xuất bán hàng hóa của mình cho một nhà bán buôn khác, đơn vị này sau đó bán lại cho các nhà bán lẻ khác. Trong trường hợp này, nhà sản xuất và nhà bán buôn đang hoạt động theo mô hình B2B.
C2C – Consumer to Consumer.
Khi một người tiêu dùng bán một hàng hóa hoặc dịch vụ cho một người tiêu dùng khác.
Mô hình thương mại điện tử C2C (C2C eCommerce) cho phép một cá nhân bán các sản phẩm của họ trực tuyến, chẳng hạn như những chiếc xe đạp hay các sản phẩm thủ công mỹ nghệ cho những người khác.
Khi một người mua nào đó quan tâm đến sản phẩm của bạn, họ có thể xem thông tin chi tiết về sản phẩm và liên hệ với bạn thông qua các nền tảng thương mại điện tử.
Ví dụ: bạn bán đồ nội thất cũ của mình trên eBay cho một người tiêu dùng khác.
C2B – Consumer to Business.
Khi một người tiêu dùng bán các sản phẩm hoặc dịch vụ của họ cho một doanh nghiệp hoặc tổ chức khác, nó được gọi là mô hình C2B.
Ví dụ, Một người có ảnh hưởng nào đó (Influencer/KOL) “bán” lượng người theo dõi họ cho một doanh nghiệp hay thương hiệu nào đó để đổ lấy một khoản phí.
G2B – Government to Business.
Khi các tổ chức chính phủ sử dụng các nền tảng trực tuyến để cung cấp một dịch vụ nào đó cho doanh nghiệp, đây được gọi là mô hình G2B hay G2B eCommerce.
B2G – Business to Government.
Ngược lại với mô hình G2B, B2G cung cấp các sản phẩm và dịch vụ theo chiều ngược lại.
C2G – Consumer to Government.
Khi chính phủ cho phép người tiêu dùng cung cấp các phản hồi tới chính phủ thông qua các nền tảng trực tuyến, mô hình C2G hay C2G eCommerce được hình thành.
Ví dụ, khi bạn thanh toán hóa đơn tiền điện thông qua website trực tuyến của chính phủ, đây cũng là một hình thức kinh doanh thương mại điện tử.
B2E – Business to Employee.
Đây là hình thức mà doanh nghiệp sử dụng một mạng lưới nội bộ cung cấp sản phẩm hoặc dịch vụ cho nhân viên của mình.
Các số liệu thống kê chính về thương mại điện tử toàn cầu bạn cần theo dõi trong 2022 là gì?
Theo số liệu thống kê thương mại điện tử của 99Firms cho năm 2022, thị trường thương mại điện tử toàn cầu không chỉ phát triển mạnh mẽ mà còn dự kiến hơn 95% tất cả các giao dịch mua bán sẽ được thực hiện thông qua các nền tảng thương mại điện tử vào năm 2040.
Dưới đây là những gì bạn cần quan tâm về thương mại điện tử 2022 (eCommerce 2022):
21,8% dân số trên toàn thế giới mua sắm trực tuyến.
Mặc dù tuỳ thuộc vào mục tiêu của doanh nghiệp của bạn là gì với thương mại điện tử, bạn có thể có các chiến lược tiếp cận khác nhau, tuy nhiên khi hơn 1/5 dân số toàn cầu chuyển sang mua sắm trực tuyến, bạn cũng cần suy nghĩ lại về việc dịch chuyển mô hình kinh doanh của mình.
Doanh số bán lẻ thương mại điện tử trên toàn thế giới dự kiến sẽ đạt hơn 5 nghìn tỷ USD vào năm 2022.
Đàn ông dành nhiều thời gian mua sắm trực tuyến hơn phụ nữ.
Trung bình, nam giới chi 220 USD cho mỗi giao dịch. Ngược lại, phụ nữ có xu hướng chi khoảng 151 USD cho mỗi giao dịch.
Gen X là những người sinh ra từ đầu những năm 1960 đến đầu những năm 1980.
Theo các số liệu dự báo, Gen X vẫn chiếm tỷ trọng lớn nhất trên các giao dịch thương mại điện tử, sau đó là đến Gen Y và Gen Z.
85% người mua hàng dựa vào các bài đánh giá và nghiên cứu trực tuyến khi ra quyết định mua hàng.
Trước khi ra các quyết định mua hàng trên các nền tảng thương mại điện tử, ngoài các yếu tố liên quan trực tiếp đến sản phẩm như giá cả hay khuyến mãi, người tiêu dùng coi các đánh giá (review) và các nội dung họ có được khi nghiên cứu trực tuyến là cơ sở để ra quyết định mua hàng.
Hơn một nửa số người dùng trực tuyến thừa nhận rằng họ xem các đánh giá trước khi mua bất cứ thứ gì.
Hơn 69% người mua sắm từ bỏ giỏ hàng của họ.
Dịch vụ vận chuyển, thuế, phí và các chi phí phụ khác là những lý do chính khiến mọi người từ bỏ giỏ hàng của họ.
Các cửa hàng trực tuyến hoạt động tích cực trên các nền tảng mạng xã hội (Social Media) có doanh số bán hàng nhiều hơn 32%.
Không chỉ áp dụng với các thế hệ trẻ hơn như Gen Y hay Gen Z. Các số liệu thống kê thương mại điện tử cho thấy 75% khách hàng thừa nhận rằng họ sử dụng mạng xã hội như là một phần của quá trình mua hàng.
Cũng bởi lý do này, hầu hết các nền tảng như Facebook, TikTok hay Instagram đã phát triển các tính năng mua sắm trong ứng dụng trong những năm gần đây.
Social Commerce hay thương mại xã hội từ đó trở thành một xu hướng mua sắm phổ biến trên toàn cầu.
30% khách hàng thích mua hàng từ những nơi họ đã mua sắm trước đó.
Thói quen mua sắm từ lâu vốn đã rất khó thay đổi, đặc biệt với thương mại điện tử, thói quen này cũng không phải là ngoại lệ.
Khi khách hàng tin tưởng vào một thương hiệu nào, họ có xu hướng mua sắm lặp lại bởi họ có cảm giác an tâm hơn với những giá trị vốn quen thuộc.
Một số câu hỏi thường gặp trong lĩnh vực thương mại điện tử.
Thương mại điện tử trong luồng là gì?
Thương mại điện tử trong luồng là hình thức thương mại điện tử trong đó người dùng có thể mua sắm trực tiếp từ các video (chủ yếu trên các nền tảng mạng xã hội như TikTok hay Facebook) mà không cần phải rời khỏi ứng dụng.
Thương mại điện tử xã hội là gì?
Thương mại điện tử xã hội (Social eCommerce) là tính năng thương mại điện tử trên các nền tảng mạng xã hội như Facebook, Instagram hay TikTok.
Khi người dùng ngày càng không chỉ xem mạng xã hội là nơi để giải trí hay tương tác với bạn bè mà còn là để mua sắm và hơn thế nữa, các nền tảng đã sớm tích hợp tính năng Thương mại điện tử xã hội để cho phép người dùng mua sắm trực tiếp trong ứng dụng.
Thương mại điện tử FMCG là gì?
Thương mại điện tử FMCG là khái niệm đề cập đến việc kinh doanh ngành hàng FMCG trên các nền tảng thương mại điện tử. Khi thương mại điện tử bùng nổ và người tiêu dùng bắt đầu chọn mua sắm các sản phẩm FMCG từ các trang trực tuyến, thuật ngữ Thương mại điện tử FMCG bắt đầu xuất hiện.
Kết luận.
Khi thương mại điện tử toàn cầu được dự báo sẽ cán mốc hơn 5000 tỷ USD vào năm 2022 (Theo Shopify), và sau đó sẽ tiếp tục tăng trưởng mạnh, việc đầu tư vào các hoạt động thương mại điện tử là không thể tranh khỏi.
Để có thể nhanh chóng thích nghi với bối cảnh mới, những gì doanh nghiệp hay thương hiệu cần làm là tối ưu lại toàn bộ hệ thống, dịch chuyển (một phần hoặc toàn bộ) sang thương mại điện tử và đáp ứng nhu cầu mua sắm trực tuyến ngày càng cao.
Hy vọng với những phân tích ở trên, các bạn có thể hiểu bản chất thực sự của thương mại điện tử là gì, những ưu và nhược điểm của nó và hơn thế nữa.
Tham gia Cộng đồng We’re Marketer để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: Link
Instagram hiện đang thử nghiệm tính năng chia sẻ lại (Repost), cho phép người dùng Instagram đăng lại các bài đăng của họ.
Được công ty mẹ Meta công bố vào ngày 8/9, tính năng đăng lại bài đăng hiện đang được thử nghiệm với một số người dùng được chọn.
Instagram Repost là gì?
Instagram Repost là tính năng cho phép người dùng chia sẻ lại bài đăng của người dùng khác trên Instagram lên tài khoản chính của họ.
Hiện tính năng này không khả dụng với người dùng Instagram.
Như bạn có thể thấy ở trên, tính năng đăng lại cũng sẽ xuất hiện ngay phần giao diện chính của tài khoản, phần này sẽ lưu lại tất cả các bài đăng mà người dùng đã từng chia sẻ từ các tài khoản khác.
Cập nhật với một số nền tảng khác.
Trong khi tính năng chia sẻ lại (Repost) trên Instagram đang được thử nghiệm trước khi mở rộng cho tất cả người dùng, nền tảng này đã cho phép người dùng chia sẻ các bài đăng trong câu chuyện (Stories) của họ (thay vì là lên nguồn cấp dữ liệu News Feed).
Twitter từ lâu đã có tính năng này với nút Retweet, cho phép người dùng chia sẻ lại các tweet từ người dùng khác lên nguồn cấp dữ liệu Twitter của họ.
TikTok cũng tương tự hiện đang thử nghiệm tính năng chia sẻ lại, tuy nhiên tính năng này không khả dụng với tất cả người dùng, đồng thời cũng bị giới hạn bởi một số loại nội dung bài đăng nhất định.
Đăng lại (Repost) bài đăng trên Instagram thông qua bên thứ 3.
Tính đến thời điểm hiện tại, người dùng Instagram phải sử dụng các ứng dụng của bên thứ 3 để có thể đăng lại nội dung từ các tài khoản khác.
Việc kết nối với các ứng dụng của bên thứ 3 với bất kỳ tài khoản nào cũng đều có nguy cơ ảnh hưởng đến quyền riêng tư và các vấn đề bảo mật về dữ liệu.
Bằng cách thêm tính năng đăng lại hay chia sẻ lại, người dùng Instagram có thể loại bỏ các ứng dụng bên thứ 3 không mong muốn, đồng thời cho phép họ chia sẻ lại các nội dung trực tiếp trong nguồn cấp dữ liệu thay vì chỉ là trong Câu chuyện (Stories).
Tham gia Cộng đồng We’re Marketer để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: Link
Một số kỹ sư cấp cao tại Facebook cho biết là hiện không có bất kỳ ai đang làm việc tại Facebook biết rõ dữ liệu của người dùng đang được giữ ở đâu.
Theo đó, 2 kỹ sư lâu năm của Meta đã nói về cách nền tảng này lưu trữ và theo dõi dữ liệu người dùng và tiết lộ rằng họ không tin có bất kỳ ai trong công ty có thể biết chính xác dữ liệu hiện được lưu trữ ở đâu.
Hai kỹ sư này đã bị thẩm vấn trong một phiên tòa liên quan đến vụ kiện về quyền riêng tư của người dùng xoay quanh vụ bê bối Cambridge Analytica năm 2018.
Cuộc thẩm vấn được dẫn dắt bởi một chuyên gia kỹ thuật do tòa án chỉ định, người đang cố gắng xác định chính xác các thông tin mà Facebook thu thập từ người dùng và tất cả thông tin đó hiện được lưu giữ ở đâu.
Một trong những kỹ sư đó là Eugene Zarashaw, hiện đã làm việc tại Meta, công ty mẹ của Facebook được 9 năm.
Người thứ hai là Steven Elia, anh là một giám đốc kỹ thuật phần mềm đã có 11 năm làm việc tại Facebook.
Trước đây, khi được hỏi về những thông tin mà Facebook đã lưu từ người dùng, Facebook cho biết là họ sử dụng công cụ “Tải xuống thông tin của bạn” (Download Your Information), tuy nhiên theo khảo sát thì công cụ này được phát hiện là không chứa tất cả thông tin mà tòa án muốn kiểm tra.
Tiếp đó, khi được hỏi là ai tại Facebook có thể biết rõ nơi lưu trữ tất cả những thông tin của một người dùng nhất định.
Zarashaw trả lời: “Tôi không tin rằng có ai đó tại Facebook biết chính xác điều này.”
Khi bị nhấn mạnh về việc liệu dữ liệu và hoạt động của người dùng có được lưu trữ trong hệ thống quảng cáo hay không, Elia cho biết:
“Tôi cũng đồng ý rằng không có một cá nhân nào tại Facebook có thể nhận biết rõ tất cả những thứ này hoặc đủ quen thuộc với chúng.”
Người phát ngôn của Meta cho biết rằng sẽ không có gì là ngạc nhiên cả khi các kỹ sư riêng lẻ không thể xác định nơi lưu trữ tất cả các dữ liệu của một người dùng trên các hệ thống của công ty.
Người phát ngôn nói thêm:
“Chúng tôi đã thực hiện – và tiếp tục đầu tư đáng kể để đáp ứng các cam kết và nghĩa vụ về quyền riêng tư của mình, bao gồm cả việc kiểm soát dữ liệu với nhân viên.”
Tham gia Cộng đồng We’re Marketer để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: Link
Theo Bộ Tư pháp Mỹ, Google trả hàng tỷ USD mỗi năm cho Apple, Samsung và các hãng viễn thông để duy trì vị thế công cụ tìm kiếm số 1 thị trường.
Luật sư Kenneth Dintzer của Bộ Tư pháp Mỹ không tiết lộ số tiền Google bỏ ra để trở thành công cụ tìm kiếm mặc định trên hầu hết trình duyệt và điện thoại di động Mỹ, song mô tả đây là “con số khổng lồ”.
Trả lời thẩm phán Amit Mehta trong phiên điều trần tại Washington mới đây, Dintzer cho biết: “Google đầu tư hàng tỷ USD để mọi người không thay đổi nó. Họ mua sự độc quyền mặc định vì sự mặc định rất quan trọng”.
Các hợp đồng của Google là cơ sở cho vụ kiện chống độc quyền của Bộ Tư pháp Mỹ với Google. Bộ cáo buộc công ty tìm cách duy trì độc quyền trên thị trường tìm kiếm trực tuyến theo cách vi phạm luật chống độc quyền. Các Tổng chưởng lý bang cũng đang theo đuổi một vụ kiện tương tự với “gã khổng lồ” này.
Phiên tòa chính thức có thể phải đợi đến năm sau, song buổi điều trần hôm 8/9 là phần cơ bản đầu tiên của một vụ kiện, kéo dài cả ngày, nơi mỗi bên đưa ra quan điểm của mình về việc kinh doanh của Google.
Đơn kiện Google được đệ trình trong những ngày cuối của chính quyền cựu Tổng thống Donald Trump. Đây là nỗ lực lớn đầu tiên của chính phủ nhằm siết quản lý các hãng công nghệ lớn và tiếp diễn dưới thời Tổng thống Joe Biden.
Nhà Trắng hôm qua cũng tổ chức hội nghị bàn tròn với các chuyên gia để “mổ xẻ” tác hại của các nền tảng công nghệ lớn tới kinh tế và sức khỏe trẻ em.
Luật sư John Schimidtlein của Google cho rằng Bộ Tư pháp Mỹ và các bang đã hiểu sai về thị trường và tập trung quá mức vào các đối thủ nhỏ hơn của họ như Bing của Microsoft, DuckDuckGo.
Thay vào đó, Google còn phải đối diện với cạnh tranh từ hàng tá công ty khác như TikTok của ByteDance, Meta, Amazon, Grubhub và các website khác, nơi mọi người truy cập để tìm kiếm thông tin.
“Bạn không phải lên Google để tìm kiếm trên Amazon. Bạn không phải lên Google để mua vé máy bay trên Expedia. Cạnh tranh khác nhau trên mỗi truy vấn không đồng nghĩa Google không phải đối diện với cạnh tranh khốc liệt”, ông nêu quan điểm.
Theo các luật sư của Bộ Tư pháp, các bang và cả Google, có được dữ liệu mới về truy vấn của người dùng vô cùng quan trọng với thành công của một công cụ tìm kiếm. Google sở hữu Chrome, trình duyệt web phổ biến nhất hiện nay và Android, hệ điều hành di động phổ biến thứ hai của Mỹ.
Trong bản trình bày của mình, luật sư Dintzer nhấn mạnh vào cơ chế của công cụ tìm kiếm Google và các hợp đồng mặc định đã ảnh hưởng đến đối thủ tiềm năng ra sao.
Trên di động, Google ký hợp đồng với Apple, Samsung, Motorola…, hầu hết các trình duyệt và ba nhà mạng Mỹ để bảo đảm công cụ tìm kiếm của họ là mặc định và cài sẵn trên thiết bị mới. Công cụ tìm kiếm Bing mặc định trên trình duyệt Edge của Microsoft và máy tính bảng Fire của Amazon.
Các hợp đồng của Google biến Google thành “cánh cổng” cho mọi người tìm kiếm website trên Internet, ngăn cản các đối thủ đạt được quy mô cần thiết để thách thức Google.
Luật sư Schmidtlein cho biết công ty đã ký hợp đồng với Apple và các trình duyệt như Mozilla từ đầu những năm 2000. Bộ Tư pháp và các bang không giải thích được vì sao bây giờ các thương vụ lại là vấn đề.
Những giao dịch chia sẻ doanh thu mà Google đề nghị với các trình duyệt vô cùng cần thiết với những công ty như Mozilla vì họ cho người dùng sử dụng miễn phí.
“Lý do họ hợp tác với Google không phải vì họ phải làm như vậy mà vì họ muốn vậy”, Schmidtlein khẳng định.
Công cụ tìm kiếm phổ biến phổ biến thứ 4 trên thế giới vào năm 2022, Yahoo, vừa thông báo mua lại nền tảng đánh giá chất lượng nội dung dựa trên thuật toán (algorithm-driven) The Factual.
Yahoo đã công bố thỏa thuận mua lại The Factual, công ty chuyên về hoạt động đánh giá tin tức và chấm điểm thiên vị cũng như độ tin cậy của các phương tiện truyền thông.
Yahoo sẽ tận dụng chỉ số này để cung cấp cho người dùng những cái nhìn sâu sắc hơn về độ chính xác và độ tin cậy của nội dung mà họ tiếp cận được.
Phía Yahoo cho biết:
“Việc mua lại The Factual tiếp tục cam kết của Yahoo trong việc đưa tin tức và thông tin đáng tin cậy đến gần 900 triệu người dùng của nền tảng trên toàn thế giới và xây dựng tầm nhìn tương lai của doanh nghiệp dựa trên tin tức.”
Các điều khoản tài chính của thỏa thuận hiện chưa được tiết lộ.
Việc Yahoo mua lại The Factual thể hiện cam kết chống lại những thông tin sai lệch.
Sau khi được mua lại, tất cả các nhân viên của The Factual đều sẽ tham gia vào Yahoo news và tiếp tục sứ mệnh của họ.
Những thông tin sai lệch và tin giả đang trở thành mối quan tâm ngày càng lớn trong một môi trường khi mà mạng xã hội đã trở nên quá phổ biến với một lượng thông tin khổng lồ.
Yahoo sẽ sử dụng hệ thống tính điểm của The Factual như là một “phân tích đầu tiên về các câu chuyện tin tức”, điều này thậm chí còn đi xa hơn các sáng kiến xác minh tính xác thực của Google, Facebook và YouTube đưa ra.
Chủ tịch kiêm Giám đốc điều hành Yahoo Home Ecosystem, Matt Sanchez cho biết:
“Sự kết hợp giữa tính báo chí của Yahoo và nội dung của các đối tác xuất bản của chúng tôi với thuật toán xếp hạng tin tức của The Factual sẽ mang lại một mức độ minh bạch mới cao hơn cho người dùng Yahoo, cho phép họ đưa ra những quyết định sáng suốt về các nguồn tin tức của mình.”
The Factual hiện chấm điểm hơn 10.000 bài báo bằng tiếng Anh mỗi ngày, cung cấp thứ hạng trên bản tin hàng ngày và một trang web hiển thị các chủ đề thịnh hành trực tiếp.
Thuật toán chấm điểm Tin tức của The Factual sử dụng trí tuệ nhân tạo (AI).
The Factual được ra mắt vào năm 2019, sử dụng trí thông minh nhân tạo (AI) để chấm điểm các câu chuyện tin tức trên thang điểm 100 bằng cách sử dụng 4 tiêu chí:
Chất lượng trang web, theo dõi lịch sử sản xuất các bài báo có nguồn gốc tốt và chất lượng cao.
Mức độ chuyên môn của tác giả viết bài, xem xét kiến thức chuyên môn của tác giả về một chủ đề dựa trên các bài viết trước đó.
Giọng điệu của bài viết, xem xét quan điểm thực sự đằng sau ngôn ngữ đang sử dụng.
Chất lượng nguồn tin, đo lường chất lượng và sự đa dạng của các nguồn và các trích dẫn trực tiếp.
Những điểm số này sau đó được sử dụng để tạo ra một điểm trọng số trung bình, được hiển thị cho người đọc, cùng với các ghi chú liên quan khác.
Điểm thấp hơn cho thấy độ tin cậy thấp hơn, trong đó các ý kiến đưa ra không nhất thiết phải được hỗ trợ bởi bằng chứng thực tế. Mặt khác, điểm số cao hơn cho thấy một bài báo có khả năng đáng tin cậy hơn.
Mặc dù những điểm số này ban đầu sẽ chỉ xuất hiện trên Yahoo News nhưng trong tương lai, nó có khả năng cung cấp cho hàng triệu người dùng của nhiều trang tin khác.
Tham gia Cộng đồng We’re Marketer để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: Link
Influencer nói chung và KOL nói riêng hiện đang trở thành một trong những công việc được khao khát nhất của cả trẻ em và người lớn. Tuy nhiên, mọi thứ được tô hồng trên mạng khiến họ có kỳ vọng không thực tế.
Khi lên 4 tuổi, các con của Benjamin Burroughs, giáo sư về truyền thông tại Đại học Nevada Las Vegas (Mỹ), bị ám ảnh bởi kênh YouTube Ryan’s World.
Trong mỗi video, đứa trẻ tên Ryan sẽ đập hộp loạt đồ chơi và khiến người xem cảm thấy như đang ngồi chơi cùng cậu bé.
Nỗi ám ảnh về “thế giới của Ryan” đã vượt ra ngoài màn ảnh. Gần như ngay lập tức, các con của Burroughs đều hỏi liệu chúng có thể trở thành YouTuber hay không.
“Vợ chồng tôi đã nói không”, Burroughs nói.
Họ cảm thấy kỳ lạ khi kiếm tiền từ con cái và không muốn cung cấp thêm thông tin cá nhân của những đứa trẻ cho các nền tảng mạng xã hội.
Bằng kinh nghiệm của mình, Burroughs bắt đầu nghiên cứu về thế giới hấp dẫn, sinh lợi và đôi khi có vấn đề về mặt đạo đức của những người có ảnh hưởng là trẻ em, theo VOX.
KOL hay Influencer – Nghề rất hấp dẫn.
Influencer hiện là một trong những con đường sự nghiệp được mong muốn nhất với cả trẻ em và người lớn. Cuộc thăm dò của Morning Consult cho thấy 54% người Mỹ 13-38 tuổi sẽ trở thành KOL nếu có cơ hội.
Nghiên cứu của Harris Poll với 3.000 trẻ em cho thấy ở cả Mỹ và Anh, nếu lựa chọn giữa giáo viên, vận động viên chuyên nghiệp, nhạc sĩ, phi hành gia hoặc YouTuber, gần 30% xếp YouTuber là lựa chọn hàng đầu.
Vậy đâu là ranh giới giữa việc đưa ra quyết định an toàn, sáng suốt hay phá nát ước mơ của trẻ thơ?
“Một mặt, cha mẹ có thể hỏi ‘Vì sao tôi phải kìm hãm sự sáng tạo của con mình?’. Họ muốn chia sẻ điều gì đó với thế giới. Nhưng sau khi trở thành công việc, lựa chọn này trở thành một vùng xám”, Burroughs nói.
Vị giáo sư khuyên các bậc phụ huynh nên suy nghĩ về tình huống mà họ và con cái sẵn sàng xử lý.
“Khuôn mặt của đứa trẻ sẽ xuất hiện trên máy quay không? Chúng có đang diễn xuất không? Cha mẹ có giới thiệu công việc họ đã làm không?”, ông nói.
Đây là những điều mà Sarah Zeiler tự hỏi khi con gái Ellie bắt đầu tạo video trên YouTube khi còn là thiếu niên.
“Tôi đã khích lệ con bé. Tôi nghĩ nếu yêu thích, con nên tự sáng tạo nội dung thay vì chỉ xem của người khác”, cô nói.
Zeiler thiết lập một số quy tắc: không mặc bikini, không trang điểm và không khoe khoang về những thứ bản thân có.
Nhưng khi bạn học ở trường bắt đầu thích thú với video của Ellie, chủ yếu là về thời trang và sở thích của các cô gái tuổi teen, cô đã từ bỏ.
Dù có trở thành người có ảnh hưởng hay không, vẫn có cảm xúc không thể tránh khỏi từ việc nhận về phản hồi liên tục từ xung quanh, cả trực tuyến lẫn ngoài đời.
Sau đó, trong thời gian ở nhà cách ly, Ellie bắt đầu đăng lên TikTok clip nhảy, hát nhép và mặc trang phục dễ thương. Người xem chủ yếu bị cuốn hút bởi cô rất giống ngôi sao Charli D’Amelio.
Trong vòng 2 tuần, Zeiler đã nhận được lời mời hợp tác từ các công ty tiếp thị và người quản lý. Tuy nhiên, nhờ kiến thức nền tảng về PR và quảng cáo, người mẹ biết rằng cô và con gái cần phải dành thời gian trước khi ký bất kỳ hợp đồng nào. Điều này cũng tốt cho Ellie, đang học trung học, khi những cơ hội này ập đến.
“Con bé đã đủ trưởng thành và thực sự hiểu những gì đang diễn ra. Chúng tôi đợi 6 tháng, khi Ellie có 3 triệu người theo dõi, để ký hợp đồng đầu tiên”, cô nói.
Kỳ vọng không thực tế.
Hiện, Ellie 18 tuổi. Zeiler hy vọng cha mẹ của những người có ảnh hưởng đầy tham vọng sẽ đảm bảo rằng con cái của họ không cho rằng chúng sẽ nổi tiếng hoặc nếu có, thì điều đó sẽ tồn tại mãi mãi.
“Điều tôi muốn nói là đừng bỏ học hay công việc hàng ngày cho đến khi thực sự có thể kiếm sống không chỉ vài tháng, mà là nhiều năm, nhờ nghề sáng tạo nội dung”, cô nói.
Ngay cả khi được thuật toán ưu ái, điều quan trọng là làm KOL không phải toàn bộ cuộc sống của trẻ em.
“Hãy dành thời gian cho những việc khác vì nghề này không có gì đảm bảo. Tôi luôn muốn Ellie cảm thấy như con bé có quyền lựa chọn”, cô chia sẻ.
Thực tế, thanh thiếu niên dành nhiều thời gian lướt mạng xã hội có thể khó hiểu rằng cơ hội kiếm sống từ việc đăng nội dung là rất nhỏ.
Các con của Burroughs muốn trở thành người có ảnh hưởng vì bị lôi cuốn bởi lối sống sinh lợi được cho là vui vẻ, tự thiết lập lịch trình và nhận nhiều thứ miễn phí. Tuy nhiên, phân tích năm 2018 cho thấy 85% lưu lượng truy cập YouTube chỉ dành cho 3% kênh và hơn 96% người dùng YouTube kiếm được ít hơn mức nghèo của liên bang Mỹ.
Ngay cả khi tiền không phải là động lực, việc trẻ em nhận biết và thần tượng đứa trẻ trông giống chúng là điều hiển nhiên. Trớ trêu thay, đó là cách Ryan của Ryan’s World trở thành YouTuber. Cậu bé xem những đứa trẻ khác đăng video và cũng muốn điều tương tự.
Burroughs cảnh báo rằng việc tung hô quá mức nghề influencer có thể khiến trẻ em có kỳ vọng sai lầm về cuộc sống thực.
“Cha mẹ nên trò chuyện với con cái để giúp chúng nhận thức được rằng chúng đang bị ảnh hưởng bởi những KOL trên mạng. Họ làm cho mọi chuyện có vẻ như hoàn toàn bình thường khi trẻ em liên tục mở đồ chơi cả ngày”, ông nói.
Có lẽ không phải kỳ vọng cụ thể vào về nghề influencer hay KOL, điều mà trẻ em và thanh thiếu niên mong mỏi đơn giản chỉ là sự phấn khích, hào nhoáng, cuộc sống không có bài tập về nhà, nơi thế giới chỉ được tạo nên từ những kỳ nghỉ và thời gian vui chơi. Rốt cuộc, ai không muốn sự thảnh thơi này?
HoSE cho biết cổ phiếu HVN của Vietnam Airlines có thể bị hủy niêm yết nếu báo cáo tài chính hợp nhất kiểm toán năm 2022 tiếp tục lỗ sau thuế của công ty mẹ hoặc vốn chủ sở hữu âm.
Sở Giao dịch Chứng khoán TPHCM (HoSE) vừa có thông báo gửi Tổng công ty Hàng không Việt Nam (Vietnam Airlines) để lưu ý về khả năng hủy niêm yết với cổ phiếu doanh nghiệp này.
Cụ thể, HoSE cho biết đầu tháng 6, cơ quan này đã có quyết định giữ nguyên diện kiểm soát đối với cổ phiếu HVN của Vietnam Airlines do vốn chủ sở hữu hãng hàng không này đã âm 2.160 tỉ đồng.
Bên cạnh đó, căn cứ trên báo cáo tài chính hợp nhất quí 1-2022 và lợi nhuận sau thuế của cổ đông công ty mẹ trên báo cáo tài chính kiểm toán hai năm gần nhất (2020-2021) cũng báo số âm.
Vì vậy, cổ phiếu của hãng hàng không quốc gia thuộc diện chứng khoán bị kiểm soát theo quy định tại Quy chế Niêm yết và giao dịch chứng khoán niêm yết của HoSE.
Theo báo cáo tài chính hợp nhất soát xét bán niên 2022, lợi nhuận sau thuế của cổ đông công ty mẹ Vietnam Airlines tiếp tục báo số âm 5.167,6 tỉ đồng, lợi nhuận sau thuế chưa phân phối đến ngày 30-6 âm 28.904,2 tỉ đồng và vốn chủ sở hữu âm 4.897,4 tỉ đồng.
Theo quy định tại Nghị định 155/2020 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Chứng khoán năm 2019, cổ phiếu của công ty đại chúng sẽ bị hủy bỏ niêm yết khi kết quả sản xuất kinh doanh bị thua lỗ trong 3 năm liên tục hoặc tổng số lỗ lũy kế vượt quá số vốn điều lệ thực góp hoặc vốn chủ sở hữu âm trong báo cáo tài chính kiểm toán năm gần nhất trước thời điểm xem xét.
Do đó, HoSE lưu ý công ty về khả năng cổ phiếu bị hủy niêm yết nếu báo cáo tài chính hợp nhất kiểm toán năm 2022 tiếp tục lỗ sau thuế cổ đông công ty mẹ và/hoặc vốn chủ sở hữu bị âm. Nguy cơ bị hủy niêm yết của Vietnam Airlines là khá lớn.
Bởi trước đó, tại Đại hội cổ đông thường niên diễn ra vào tháng 6 vừa qua, Vietnam Airlines đặt mục tiêu doanh thu công ty mẹ 45.252 tỉ đồng, gấp 2,3 lần so với cùng kỳ năm trước.
Mặc dù doanh thu tăng nhưng công ty vẫn dự kiến sẽ lỗ ròng 9.335 tỉ đồng trong năm nay, giảm 23,5% so với khoản lỗ năm trước. Lợi nhuận sau thuế công ty mẹ âm 9.335 tỉ đồng.
Kế hoạch kinh doanh lỗ được xây dựng trên cơ sở năm nay hãng hàng không quốc gia lên kế hoạch vận chuyển 17 triệu khách cùng 271.200 tấn hàng hóa.
Trước đó, bên kiểm toán cũng cho biết, khả năng hoạt động liên tục của Tổng công ty sẽ phụ thuộc vào sự hỗ trợ về tài chính của Chính phủ Việt Nam và việc được gia hạn thanh toán các khoản vay từ các ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng, các khoản phải trả cho các nhà cung cấp và cho thuê.
Những điều kiện này, cùng các vấn đề khác cho thấy sự tồn tại của các yếu tố không chắc chắn trọng yếu có thể dẫn tới nghi ngờ về khả năng hoạt động liên tục của Tổng công ty.
Trên thị trường, cổ phiếu HVN của Vietnam Airlines sau giai đoạn ngắn phục hồi từ giữa tháng 6 đến nay đã đảo chiều suy giảm.
Tính trong một tuần gần nhất, thị giá cổ phiếu này đã giảm gần 6%, hiện giao dịch ở mức 16.100 đồng/cổ phiếu. Tính từ đầu năm đến nay, thị giá HVN cũng đã giảm hơn 30%.
Trong năm nay, Vietnam Airlines đã và đang đàm phán với các ngân hàng thương mại để có thêm hạn mức tín dụng phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh.
Tại ngày 30-6, tổng hạn mức tín dụng mà Vietnam Airlines đã ký với các ngân hàng thương mại là khoảng 18.549 tỉ đồng, trong đó hạn mức tín dụng của các khoản vay ngắn hạn chưa sử dụng là khoảng 10.354 tỉ đồng.
Tổng Công ty cũng đã tìm kiếm các nguồn thu khác bao gồm thanh lý tàu bay, động cơ tàu bay và các khoản đầu tư tài chính.
Đến ngày lập báo cáo soát xét 30-8, Vietnam Airlines đã thanh lý một tàu bay, bán quyền mua và thuê lại một động cơ tàu bay, thanh lý khoản đầu tư vào hãng hàng không Cambodia Angkor Air (K6) và đã thu được một phần giá trị hợp đồng với số tiền khoảng 861 tỉ đồng.
Ngoài ra doanh nghiệp cũng chuẩn bị các điều kiện để phát hành cổ phiếu tăng vốn. Qua một số phân tích cũng cho thấy khả năng cổ phiếu của Vietnam Airlines bị huỷ niêm yết là khá cao.
Tham gia Cộng đồng We’re Marketer để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: Link
Khi thương mại điện tử là ưu tiên phát triển chính của TikTok, nền tảng này vừa chia sẻ một số thông tin chi tiết mới về sự bùng nổ của thương mại điện tử (eCommerce) trong ứng dụng.
Như MarketingTrips đã từng phân tích ở trong rất nhiều bài viết trước đây, khi vấn đề kiếm tiền từ quảng cáo thông qua các video ngắn vẫn còn là một vấn đề khó khăn của TikTok, thương mại điện tử sẽ tiếp tục là mục tiêu tăng trưởng của nền tảng này.
Cũng tương tự tuỳ chọn mua sắm trong ứng dụng mà công ty mẹ ByteDance đã rất thành công với phiên bản Douyin tại thị trường Trung Quốc, TikTok cũng đang muốn có được thành công đó ở nhiều các thị trường khác.
Theo quan điểm của TikTok:
“Thương mại điện tử không còn là tương lai của hoat động mua sắm – nó hiện chính là mua sắm. Trong bối cảnh mới này, các thương hiệu phải theo kịp hành vi mua sắm trực tuyến luôn thay đổi của người tiêu dùng – và TikTok đang không ngừng nỗ lực để theo đuổi kỷ nguyên mua sắm mới này.”
Để cung cấp thêm một số góc nhìn về vấn đề này, TikTok vừa chia sẻ một số thông tin chi tiết mới về cách người dùng tương tác với các hoạt động mua sắm trong luồng (in-stream shopping) và những xu hướng mới này đang giúp định hình sự phát triển của ứng dụng như thế nào.
Người tiêu dùng tỏ ra thích thú khi mua sắm trực tuyến nhiều hơn gấp 2 lần so với mua sắm truyền thống.
So với các cách thức mua sắm trên các nền tảng mua sắm trực tuyến khác, người mua sắm trên các nền tảng mạng xã hội (Social Commerce) có xu hướng mua nhanh hơn 1.2 lần và mua để giải toả yếu tố về tinh thần nhiều hơn 1.3 lần.
Khi TikTok là một phần trong hành trình mua sắm của khách hàng (Customer Journey), 51% người tiêu dùng thích khám phá các sản phẩm từ quảng cáo trên TikTok, 87% có xu hướng xem phát trực tuyến khi cân nhắc mua hàng và 76% xem các bài đăng có hashtag xu hướng trước khi mua hàng.
37% người tiêu dùng sẽ mua sắm trên TikTok khi nội dung của thương hiệu có thể giải trí họ, 21% mua hàng vì các nội dung và sản phẩm “được sản xuất ra là để dành riêng cho họ” và 20% sẽ mua hàng khi việc mua hàng có thể khiến họ trở nên tốt hơn.
Tham gia Cộng đồng We’re Marketer để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: Link
Với khối tài sản trị giá khoảng 250 tỷ USD và là người giàu nhất thế giới tính đến năm 2022, cùng với đó là hơn 100.000 nhân viên toàn cầu, Elon Musk có thể được coi là một trong số những nhà lãnh đạo thành công nhất mọi thời đại.
Không chỉ là người giàu nhất thế giới và nắm trong tay nhiều nhân viên, Elon Musk còn gắn liền với nhiều quy tắc lãnh đạo, là những bài học có giá trị cho nhiều nhà lãnh đạo khác, dưới đây là 3 quy tắc trong số đó.
Quản lý vi mô và trong một số trường hợp là quản lý siêu vi mô.
Vào năm 2015, trong một cuộc phỏng vấn với The Wall Street Journal, Elon Musk tự mô tả mình là một “nhà quản lý nano”, tức quản lý nhân viên theo kiểu chi tiết.
Một cựu Trưởng bộ phận Nhân sự tại SpaceX (công ty do Elon Musk quản lý) nhận xét:
“Chỉ có áp lực mới tạo ra kim cương, và Elon Musk là một nhà chế tạo kim cương bậc thầy”.
“Anh ấy biết nó không mấy dễ chịu, nhưng anh ấy cũng biết bạn sẽ vượt quá mức mong đợi của chính mình nếu anh ấy tiếp tục nhiệt tình và ủng hộ.”
Một kỹ sư phần mềm của Tesla nói thêm: “Anh ấy thách thức mọi người và thúc đẩy họ làm những điều mà họ không nghĩ là họ có thể làm được, và mọi thứ sau đó quá tuyệt vời.”
Khi được cho rằng là quá mất thời gian và công sức khi phải quản lý mọi người theo kiểu vi mô, Elon Musk nói rằng “Tôi không thể tìm được người để ủy quyền.”
Họp ít hơn và ngắn hơn.
Elon Musk cũng chia sẻ triết lý quản trị của mình với các nhân viên Tesla trong một email, trong đó ông viết rằng, nên có ít các cuôc hợp hơn và các cuộc họp nên ngắn hơn đồng thời những người không có đóng góp ý kiến gì thì không nên tham dự.
Ông nói: “Hãy rời khỏi các cuộc họp ngay khi bạn thấy rõ rằng bạn đang không giúp gia tăng giá trị cho các cuộc hợp hay gia trị của bản thân. Rời đi không phải là thô lỗ nhưng bắt mọi người ở lại và lãng phí thời gian của họ là không thể chấp nhận.”
Ông cũng nói rằng nhân viên nên sử dụng biệt ngữ và bỏ qua các chuỗi mệnh lệnh để cải thiện giao tiếp.
Ông viết: “Nếu việc tuân theo các ‘quy tắc của công ty’ làm bạn bực bội và giảm hiệu suất trong một số tình huống cụ thể nào đó, thì quy tắc đó nên thay đổi.”
Trong một email gửi cho nhân viên, Elon Musk nói với các nhân viên Tesla rằng ông không ngại gì nếu họ nghe nhạc trong nhà máy hoặc thêm “bất kỳ điểm nhấn nhỏ nào khiến công việc trở nên thú vị hơn.”
Elon Musk khó tính trong cách quản trị.
Một giám đốc kỹ thuật cấp cao của Tesla từng nói rằng:
“Nếu bạn nói sai điều gì đó hoặc mắc một sai lầm nào đó, anh ấy sẽ quyết định rằng bạn là một tên ngốc và không có gì có thể làm thay đổi suy nghĩ đó của anh ấy.”
Các nhân viên Tesla cho biết rằng Elon Musk có thể đòi hỏi rất cao và khó đoán.
“Về cơ bản Elon Musk làm những gì mà anh ấy muốn, bất cứ khi nào anh ấy muốn.”
Khi được cho rằng từng có những hành động là các “phản hồi quá gay gắt và chế nhạo nhân viên” của mình, Elon Musk cho rằng “Tôi chỉ là đưa ra các phản hồi một cách rõ ràng và thẳng thắn, và có thể điều này đang được hiểu là chế nhạo hay gay gắt.”
Tham gia Cộng đồng We’re Marketer để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: Link
Trong khi có không ít các ý kiến cho rằng các thương hiệu lớn ít hoặc không chi tiêu nhiều cho quảng cáo, sự thật lại diễn ra theo cách ngược lại.
Vào năm 2021, gã khổng lồ ngành FMCG, Procter & Gamble (P&G) là nhà quảng cáo lớn nhất trên toàn thế giới, đã chi tiêu đến 8,1 tỷ USD vào các hoạt động quảng cáo.
Amazon đứng thứ hai trong danh sách với số tiền chi cho quảng cáo là 4,8 tỷ USD, trong khi Unilever đứng ở vị trí thứ ba với mức chi 4,7 tỷ USD, Apple cũng chi tới 2,7 tỷ USD cho quảng cáo.
Tổng chi tiêu cho quảng cáo toàn cầu đạt mức 722,84 tỷ USD trong năm 2021.
Microsoft là thương hiệu ít chi tiêu cho quảng cáo khi công ty này chỉ bỏ ra 1,1 tỷ USD cho các hoạt động quảng cáo trong 2021.
Mức ngân sách chi tiêu cho quảng cáo cụ thể như sau (theo số liệu từ Statista):
Về mặt bằng chung, các thương hiệu thuộc mảng FMCG, F&B hay bán lẻ chi tiêu mạnh nhất cho quảng cáo, tiếp sau đó là các thương hiệu nhóm công nghệ, các thương hiệu xe hơi như Nissan, Volkswagen hay Ford cũng chi tiêu tương đối mạnh.
Theo những thông tin mới đây, sàn thương mại điện tử lớn nhất Đông Nam Á Shopee đã huỷ bỏ nhiều hồ sơ tiếp nhận ứng viên trong bối cảnh công ty mẹ Sea Group liên tục báo cáo thua lỗ.
Theo thông tin từ Reuters, một nhóm WeChat gồm khoảng 60 người báo cáo rằng thư mời nhận việc của họ đã bị Shopee rút lại chỉ trong vài ngày trước ngày nhận việc.
Một kỹ sư đã nghỉ việc tại công ty mẹ của TikTok, ByteDance, trước khi nộp đơn vào Shopee cho biết:
“Tôi đã nghĩ đó là một cuộc gọi lừa đảo … cho đến khi tôi nhận ra đó là một đợt hủy bỏ thư mời nhận việc trên diện rộng của Shopee.”
Một đại diện của Shopee cho biết:
“Do những điều chỉnh mới trong kế hoạch tuyển dụng cho một số nhóm công nghệ, một số vị trí tại Shopee đã không còn nữa. Chúng tôi đang nỗ lực để hỗ trợ những người bị ảnh hưởng.”
Động thái này của Shopee diễn ra sau các đợt cắt giảm việc làm khác gần đây tại công ty mẹ Sea Group.
Các nhân viên tại Booyah!, một ứng dụng phát trực tiếp trò chơi, thuộc mảng trò chơi Garena của Sea cũng đã được thông báo rằng họ sẽ phải nghỉ việc và ứng dụng sẽ không còn được cập nhật nữa, các dự án phát triển khác của Sea cũng sẽ dừng hoạt động.
Những tín hiệu u ám từ Sea Group.
Vào đầu tháng 3, Sea từng cho biết là họ sẽ tiếp tục đầu tư vào Shopee nhằm mục tiêu cạnh tranh với Lazada thuộc Alibaba Group Holding, và sự tăng trưởng của Shopee vẫn là ưu tiên hàng đầu.
Tuy nhiên gần đây, Sea đã rút lại dự báo tăng trưởng cho sàn thương mại điện tử trong bối cảnh thị trường ngày càng bất ổn và có nhiều thay đổi.
Sea đã chứng kiến giá trị thị trường (market value) của mình tăng vọt lên mức hơn 200 tỷ USD vào tháng 10 năm ngoái khi mảng game Garena phát triển bất chấp đại dịch, tuy nhiên tính đến thời điểm hiện tại, con số này chỉ còn khoảng 27 tỷ USD.
Tham gia Cộng đồng We’re Marketer để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: Link
Theo thông báo mới đây từ Google, tính năng điều chỉnh giá thầu “top content bids” hiện có trong Google Ads sẽ ngừng hoạt động từ tháng 10.
Theo đó, bắt đầu từ tháng 10 tới, các nhà quảng cáo Google Ads sẽ không thể điều chỉnh giá thầu dựa trên những nội dung mà Google cho là phổ biến và có lưu lượng truy cập cao.
Tính năng điều chỉnh giá thầu (bid adjustments) là gì trong Google Ads.
Điều chỉnh giá thầu là việc tăng hoặc giảm giá thầu theo tỷ lệ phần trăm. Mức điều chỉnh giá thầu cho phép bạn hiển thị quảng cáo của mình với tần suất nhiều hơn hoặc ít hơn dựa trên vị trí, thời điểm và cách mọi người tìm kiếm.
Ví dụ: đối với bạn, đôi khi một lượt nhấp sẽ có giá trị hơn nếu nó đến từ điện thoại thông minh, tại một thời điểm nhất định trong ngày hoặc từ một vị trí cụ thể.
Bạn cũng có thể điều chỉnh giá thầu dựa trên hiệu suất của quảng cáo, nhờ đó cải thiện lợi tức đầu tư (ROI).
Số tiền chi tiêu cho từng lượt nhấp có thể khác nhau vì giá thầu tăng hoặc giảm theo hệ số điều chỉnh mà bạn đặt, nhưng tổng ngân sách trung bình hằng ngày sẽ không thay đổi.
Tính năng điều chính giá thầu Top content bids trong Google Ads.
Top content bids hay Giá thầu cho các nội dung hàng đầu là tính năng điều chỉnh giá thầu (Bids) cho phép nhà quảng cáo đặt điều chỉnh giá thầu cho những nội dung được Google cho là phổ biến, những nội dung có số lần hiển thị lớn, đồng thời nhận được mức lưu lượng truy cập và mức độ tương tác của người xem cao.
Các điều chỉnh giá thầu này có thể được thêm vào ở cấp nhóm quảng cáo (Ad groups) và hiện chỉ có sẵn từ 0% đến + 500%.
Nếu bạn muốn thêm công cụ sửa đổi phủ định (negative modifier), tùy chọn khả dụng duy nhất sẽ là thêm website làm vị trí phủ định.
Kể từ tháng 10 sắp tới, tất cả các điều chỉnh giá thầu cho nội dung hàng đầu sẽ mặc định trở về 0%.
Tham gia Cộng đồng We’re Marketer để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: Link
Nếu bạn ngồi đó và cuộn màn hình chỉ để xem nội dung, điều đó không hẳn là xấu nhưng nhìn chung nó không mang lại lợi ích tích cực từ mạng xã hội vốn được tạo ra để xây dựng mối quan hệ.
Tập trung xây dựng mối quan hệ.
Có mặt với tư cách khách mời trong một chương trình podcast gần đây mang tên Joe Rogan Experience, Mark Zuckerberg – CEO Tập đoàn Meta cho biết ông nghĩ rằng các nền tảng mạng xã hội như Facebook, Twitter, Instagram… có thể mang lại lợi ích cho sức khỏe tinh thần của người dùng nhưng chủ yếu chỉ khi họ sử dụng để kết nối với người khác.
“Nếu bạn ngồi đó và cuộn màn hình chỉ để xem nội dung, điều đó không hẳn là xấu nhưng nhìn chung nó không mang lại lợi ích tích cực từ mạng xã hội vốn được tạo ra để xây dựng mối quan hệ”, tỷ phú công nghệ nói.
Hầu hết mọi người đều biết câu chuyện về sự ra đời của mạng xã hội Facebook ở phòng ký túc xá. Mark Zuckerberg cho biết nền tảng để tạo ra Facebook ban đầu vào năm 2004 không phải là vì mình bỏ học đại học hay do từ bỏ bất kỳ sở thích nào khác.
Thay vào đó, CEO của Meta cho biết đó là do những mối quan hệ cá nhân mà ông đã tạo ra khi còn đi học.
Theo Zuckerberg, giao lưu với ai tại trường đại học “là quyết định quan trọng nhất” mà một sinh viên có thể đưa ra, vì “bạn sẽ trở thành người giống như những người xung quanh bạn”. Tỷ phú công nghệ nói: “Tôi cho rằng, nhìn chung nhiều người đang quá tập trung vào mục tiêu mà không đầu tư đủ nhiều cho các mối quan hệ mà họ đang gây dựng”.
Vào đầu những năm 2000, Mark Zuckerberg đã gặp Eduardo Saverin, Dustin Moskovitz, Chris Hughes và Andrew McCollum khi cả 5 người đang là sinh viên tại Đại học Harvard.
Dự án khởi nghiệp của các nhà đồng sáng lập Facebook (nay đổi tên thành Meta) đã cách mạng hóa mạng xã hội và trở thành một trong những công ty công nghệ lớn nhất thế giới hiện nay. Tính tới tháng 7/2022, Meta có vốn hóa thị trường khoảng 562 tỷ USD.
Mặc dù nhóm các nhà sáng lập chia tay không mấy êm đẹp, nhưng đến nay Mark Zuckerberg cho biết vẫn giữ quan điểm ưu tiên tập trung xây dựng các mối quan hệ hơn là tập trung vào các mục tiêu. Ông áp dụng điều này cả khi tuyển dụng.
Mark cho biết, khi đánh giá một ứng viên, ông tưởng tượng sẽ thế nào nếu làm việc cùng người ấy, thay vì chỉ là ông chủ.
Chiến lược để tạo ra môi trường làm việc vừa gắn kết vừa hiệu quả, theo CEO Meta là làm việc cùng những người có chung quan điểm giá trị trên bình diện con người.
Như vậy, bạn sẽ có khả năng đạt được các mục tiêu trong công việc hơn. Điều quan trọng không phải là chọn bạn bè hay đối tác, mà là tìm kiếm sự phù hợp.
Mạng xã hội mang lại nhiều lợi ích khi được sử dụng đúng mục đích.
Theo thông tin được tiết lộ, mặc dù Mark Zuckerberg dành phần lớn thời gian của mình trên mạng xã hội, nhưng ông không lướt một cách vô thức. Đó là bởi vì Zuckerberg cho rằng mạng xã hội tốt nhất khi được sử dụng để giao tiếp.
Mark Zuckerberg cũng không phải là người duy nhất không khuyến khích việc sử dụng mạng xã hội quá mức. Một số nghiên cứu chỉ ra rằng, việc sử dụng mạng xã hội quá nhiều có thể dẫn đến trầm cảm và lo lắng ở một số người dùng.
Các chuyên gia cho rằng, điều đó chỉ xảy ra nếu người dùng đang sử dụng các nền tảng mạng xã hội để chỉ “cuộn” màn hình xem nội dung, thay vì tương tác với người khác.
Việc sử dụng mạng xã hội thường xuyên vào các mục đích chẳng hạn như “phản hồi nội dung mà người khác chia sẻ” hằng ngày thực sự có liên quan đến tâm lý tích cực và sức khỏe tâm thần tổng thể của người dùng, một nghiên cứu năm 2019 do các nhà khoa học của Đại học Harvard thực hiện cho thấy.
Tuy nhiên, điều ngược lại sẽ trở thành sự thật khi mọi người quá phụ thuộc vào mạng xã hội hoặc kết nối một mối quan hệ không lành mạnh.
Nếu mọi người chỉ “kiểm tra ứng dụng quá mức” vì sợ bỏ lỡ điều gì đó, cảm thấy thất vọng hoặc cảm thấy mất kết nối với bạn bè thì không nên đăng nhập vào mạng xã hội, điều đó có thể gây ảnh hưởng xấu đến sức khỏe của họ, Mesfin Awoke Bekalu – một trong những nhà khoa học tham gia nghiên cứu giải thích.
Trong thực tế, Mark Zuckerberg là đối tượng của rất nhiều lời chỉ trích về chủ đề này. Các nhà phê bình cho rằng, Facebook và Instagram là “chất gây nghiện” và có hại, đặc biệt là đối với thanh thiếu niên và trẻ em.
Để đáp lại những lập luận đó, các nền tảng này đã tung ra tính năng đồng hồ đo thời gian người dùng dành cho các ứng dụng mạng xã hội, hiển thị thông báo nhắc nhở hoặc thậm chí buộc đăng xuất sau một khoảng thời gian nhất định.
Đó là lý do tại sao Mark Zuckerberg tuyên bố mục tiêu của Facebook và mô hình vũ trụ ảo metaverse trong tương lai không phải là khiến mọi người dành nhiều thời gian hơn trên Internet. Thay vào đó là để làm cho thời gian của mọi người trên Internet trở nên hấp dẫn hơn và đầy tính tương tác.
Zuckerberg nói: “Tôi không nhất thiết muốn mọi người dành nhiều thời gian trên màn hình máy tính. Tôi chỉ muốn thời gian mà mọi người dành cho mạng xã hội trở nên tốt hơn”.
Tham gia Cộng đồng We’re Marketer để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: Link
Trong báo cáo “Đông Nam Á – ngôi nhà cho chuyển đổi kỹ thuật số”, Facebook chia sẻ cách mà sự tăng trưởng kỹ thuật số của Đông Nam Á vượt xa phần còn lại của châu Á Thái Bình Dương và trạng thái bình thường mới của người tiêu dùng.
Đông Nam Á đang dẫn đầu về chuyển đổi kỹ thuật số ở châu Á Thái Bình Dương.
Đến cuối năm 2021, sẽ có 350 triệu người tiêu dùng kỹ thuật số ở Đông Nam Á. Có nghĩa là gần 80% người tiêu dùng ở Đông Nam Á sẽ sử dụng kỹ thuật số.
Đại dịch đã gây ra sự dịch chuyển mô hình trong hành trình mua hàng của người tiêu dùng.
Hình thức trực tuyến trở nên phổ biến hơn bao giờ hết trong hành trình mua hàng của người tiêu dùng ngày nay, từ Khám phá cho đến Mua hàng.
Là kênh khám phá hàng đầu trong khu vực, mạng xã hội còn giữ vai trò then chốt trong việc thúc đẩy mức độ cân nhắc về thương hiệu.
Sản phẩm và trải nghiệm khách hàng là yếu tố quan trọng để thắng cuộc chiến chinh phục lòng trung thành.
51% người tiêu dùng ở Đông Nam Á cho biết họ đã chuyển từ các thương hiệu được mua nhiều nhất trong 3 tháng qua, nêu ra các yếu tố thúc đẩy họ chuyển đổi là chất lượng, trải nghiệm và tính bền vững.
Hiện nay, yếu tố bền vững buộc người tiêu dùng chuyển đổi thương hiệu và chi nhiều tiền hơn.
Khoảng 80% người tiêu dùng Đông Nam Á sẵn sàng trả cao hơn đến 10% để mua những sản phẩm bền vững và ủng hộ các sáng kiến có trách nhiệm với xã hội.
Lối sống tập trung vào hoạt động tại nhà sẽ tiếp tục sau đại dịch.
Người tiêu dùng Đông Nam Á được cho là sẽ tiếp tục dành thời gian ở nhà sau đại dịch COVID, đặc biệt là đối với hoạt động ăn uống và mua sắm.
86% dịch vụ giao thức ăn tại nhà và 75% hoạt động mua sắm trực tuyến tại nhà được cho là sẽ duy trì sau đại dịch COVID.
Các khoản đầu tư thúc đẩy hoạt động đột phá kỹ thuật số trong khu vực.
Người tiêu dùng kỹ thuật số thích thanh toán bằng ví điện tử, với công nghệ có mức tăng trưởng 71% hàng năm. Lĩnh vực Công nghệ tài chính đang phát triển với hơn 80% quỹ đầu tư mạo hiểm đang đổ vào Internet và công nghệ ở Đông Nam Á.
Bạn có thể xem hoặc tải xuống chi tiết báo cáo tại đây
Tham gia Cộng đồng We’re Marketer để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: Link
Theo thông tin mới đây từ Reuters, Instagram vừa bị Ireland phạt khoản tiền khổng lồ lên đến 400 triệu USD vì liên quan đến việc sử dụng dữ liệu trẻ em.
Theo đó, Cơ quan quản lý quyền riêng tư dữ liệu của Ireland đã đồng ý phạt mức phạt kỷ lục 405 triệu euro (402 triệu USD) đối với mạng xã hội Instagram sau cuộc điều tra về việc xử lý dữ liệu trẻ em.
Người phát ngôn của công ty mẹ Meta Platforms Inc cho biết Instagram đang có kế hoạch kháng cáo để phản đối khoản tiền phạt.
Cuộc điều tra bắt đầu từ năm 2020, trong đó tập trung vào người dùng trẻ em trong độ tuổi từ 13 đến 17, những người được phép sử dụng tài khoản doanh nghiệp (business accounts) trên Instagram với mục tiêu cuối cùng của nền tảng là lấy số điện thoại, email và thông tin cá nhân.
Người phát ngôn của Cơ quan Bảo vệ Dữ liệu Ireland (DPC) cho biết:
“Chúng tôi đã thông qua quyết định cuối cùng của mình vào thứ Sáu tuần trước và đó chính là khoản phạt trị giá 405 triệu euro.”
Người phát ngôn của Meta cho biết, Instagram đã cập nhật cài đặt của mình hơn một năm trước và kể từ đó đã không ngừng phát hành các tính năng mới để giữ an toàn thông tin cho người dùng trẻ tuổi.
Người phát ngôn cho biết Instagram không đồng ý với cách tính tiền phạt của Ireland và hiện đang có kế hoạch kháng cáo.
DPC liên tục tác động đến Facebook, Apple, Google và những gã khổng lồ công nghệ khác do trụ sở chính của EU được đặt tại Ireland.
Năm ngoái, WhatsApp đã bị phạt kỷ lục 225 triệu euro vì không tuân thủ các quy tắc dữ liệu của EU được ban hành từ năm 2018.
Tham gia Cộng đồng We’re Marketer để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: Link
Meta vừa chia sẻ một số thông tin mới về cách thuật toán đề xuất và phân phối video của Facebook hoạt động (và cách để tối ưu nội dung dựa trên thuật toán).
Nếu bạn chưa từng nghe qua thì Meta hiện đang mong muốn bạn đăng nhiều Reels hơn, Reels là nền tảng có mức độ phát triển nhanh nhất của hệ sinh thái Meta và hiện chiếm hơn 20% trong tổng thời gian mà người dùng dành cho Instagram.
Trên thực tế, video nói chung là định dạng nội dung (content format) có mức độ tương tác cao nhất trên Facebook, chiếm khoảng 50% thời gian mọi người dành cho Facebook.
Đây cũng là lý do tại sao các thuật toán của Facebook ngày càng ưu ái nhiều hơn cho video, khuyến khích người dùng đăng và chia sẻ nhiều Reels hơn.
Thông qua một chia sẻ mới, Meta đã công bố các yếu tố chính có trong thuật toán xếp hạng và đề xuất video trên Facebook – đó là những gì mà Facebook xem xét và đánh giá khi quyết định xem liệu video nào nên được ưu tiên và video nào thì không.
Yếu tố đầu tiên trong thuật toán đề xuất nội dung video của Facebook là “Tính nguyên bản” (Originality), đó chính là những nội dung được sáng tạo và chia sẻ lần đầu.
Theo giải thích của Facebook:
“Trong nền kinh tế nhà sáng tạo (Creator Economy), các video gốc đóng vai trò phản ánh tiếng nói và giá trị độc đáo của các nhà sáng tạo nội dung. Chúng là những nội dung lần đầu tiên được xuất bản. Chúng tôi ưu tiên video gốc và coi đó như là ‘phần thưởng’ cho những nỗ lực sáng tạo thực sự.”
Nếu bạn là một marketer, sản xuất các nội dung gốc nên là chiến lược ưu tiên hàng đầu (thay vì là chỉ chú trọng vào chất lượng nội dung).
Về cơ bản, như Facebook đã từng tuyên bố trước đây, thuật toán đề xuất video của Facebook sẽ làm giảm phạm vi tiếp cận (Reach) của các nội dung được chia sẻ lại (và trong một số trường hợp là xét phạt các Trang thường xuyên vi phạm nguyên tắc này).
Thành phần quan trọng thứ 2 xuất hiện trong thuật toán đề xuất và phân phối video của Facebook là “khả năng thu hút sự chú ý và giữ chân”.
Theo góc nhìn này, Facebook nói rằng những video có khả năng thu hút được sự chú ý của khán giả hay đối tượng mục tiêu và truyền cảm hứng cho họ sẽ có khả năng nhận được nhiều ưu tiên phân phối hơn.
Thời gian xem video hay khả năng giữ chân người dùng ở lại với video cũng là một thành tố quan trọng khác có trong thuật toán.
Facebook cho biết:
“Tỷ lệ giữ chân người xem là một trong những chỉ số hàng đầu để đánh giá mức độ tiếp nhận nội dung của người xem.
Khả năng giữ chân người xem có thể cho thấy rằng chủ đề và cấu trúc của video phù hợp với nội dung mà khán giả của bạn muốn xem, trong khi nếu họ từ bỏ sớm video, điều này có nghĩa là nội dung của bạn không đúng với những gì mà họ đang mong đợi.”
Nghệ thuật sử dụng Storytelling hay Kể chuyện nên được ưu tiên trong chiến lược xây dựng và phát triển video.
Facebook cho biết thêm:
“Độ dài của video không phải là yếu tố quan trọng trong thuật toán xếp hạng video của Facebook. Miễn là nội dung có tính liên quan chặt chẽ với nhau, hấp dẫn và khiến khán giả quan tâm, dài hay ngắn không thực sự quan trọng.”
Facebook cũng gợi ý rằng các nhà sáng tạo nội dung (Content Creator) nên cân nhắc việc thêm các phụ đề hấp dẫn (kịch tính) để tối đa hóa tỷ lệ giữ chân, đồng thời chất lượng sản xuất video cũng có thể góp phần khiến cho mọi người muốn tương tác nhiều hơn.
“Lòng trung thành và ý niệm” là yếu tố chính tiếp theo trong thuật toán đề xuất và phân phối video của Facebook, và Facebook cũng nhấn mạnh vào chỉ số lượng người xem lặp lại.
“Khi mọi người thường xuyên quay lại để xem video của một Trang hay tài khoản nào đó, chúng tôi coi đó như là một tín hiệu mạnh mẽ và tích cực để ưu tiên phân phối.
Điều này đặc biệt đúng khi chúng tôi thấy rằng mọi người tích cực tìm kiếm nội dung của bạn hoặc tìm kiếm nội dung đó trên Facebook Watch hoặc trực tiếp trên tài khoản.”
Tương tự như việc duy trì sự chú ý của người xem, việc tiếp tục sản xuất các nội dung video chất lượng cao và hấp dẫn để thu hút mọi người quay lại xem nhiều hơn có thể là một rào cản khác của nhiều thương hiệu.
Facebook gợi ý thêm rằng các nội dung bất ngờ có thể giúp thu hút nhiều đối tượng hơn, đồng thời bạn có thể sử dụng phương pháp kể chuyện dài (longer-form storytelling), trên nhiều video hơn.
Facebook nói tiếp:
“Bạn cũng nên tối ưu hoá tìm kiếm cho video. Điều này bao gồm việc viết các tiêu đề hay đoạn mô tả một cách rõ ràng và thêm một vài thẻ (hashtag) có liên quan.
Điều này có thể giúp nhiều người hơn xem nội dung của bạn, trên cả từ kết quả Tìm kiếm, qua các video được đề xuất trong Nguồn cấp dữ liệu (News Feed) đến trong Facebook Watch.”
Yếu tố cuối cùng mà Facebook đề cập trong thuật toán xếp hạng và đề xuất nội dung video đó là “Tương tác” – tức những thứ như Lượt thích, Lượt chia sẻ hay Nhận xét.
“Chúng tôi ưu tiên các nội dung giúp khơi dậy các cuộc trò chuyện và tương tác có ý nghĩa giữa những người thực. Để làm được điều này, thuật toán của chúng tôi sẽ tăng cường phân phối các video có khả năng truyền cảm hứng cho các tương tác giữa bạn với bạn (friend-to-friend) hoặc giữa người với người (person-to-person) trên Facebook.”
Nói tóm lại, thuật toán phân phối và đề xuất video của Facebook sẽ dựa trên 4 yếu tố xếp hạng chính.
Tính nguyên bản (nội dung gốc).
Khả năng thu hút sự chú ý và giữ chân người dùng.
Lòng trung thành và ý niệm (ý định).
Khả năng tương tác.
Ngoài ra, Facebook cũng chia sẻ thêm các yếu tố sẽ làm giảm mức độ phân phối của video:
Video trông giống như các bản trình chiếu (slideshows) – Facebook nói rằng video phụ thuộc quá nhiều vào hình ảnh tĩnh có thể bị giảm phân phối.
Cố tình tự chia sẻ nội dung – Nếu bạn đang tìm cách tự chia sẻ các nội dung do mình tạo ra, dù là thông qua các tài khoản ảo hay Trang được tạo ra với mục đích chia sẻ thì điều này cũng đang đi ngược lại với thuật toán xếp hạng video của Facebook.
Sử dụng các chiến thuật “kêu gọi” – Đừng thúc giục mọi người thích, chia sẻ hoặc bình luận về nội dung chỉ để tăng phạm vi tiếp cận.
Video đánh lừa người xem – Đừng đăng các video với nội dung giật gân hoặc đánh lừa người xem để họ phải xem.
Facebook nói rằng các Trang liên tục thể hiện những hành vi này “cuối cùng có thể mất khả năng tạo doanh thu thông qua quảng cáo trong luồng (in-stream ads ) hoặc các công cụ kiếm tiền khác của Facebook”.
Trong khi bạn có thể cho rằng sẽ rất khó để tuân thủ tất cả các thuật toán nói trên của Facebook, bằng cách hạn chế vi phạm đến mức tối đa hay tối ưu nội dung theo các chỉ dẫn này, Trang và thương hiệu của bạn cuối cùng sẽ có nhiều cơ hội hơn để hiển thị và tương tác với người dùng.
Tham gia Cộng đồng We’re Marketer để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: Link
Mốt số dữ liệu nghiên cứu mới đây cho thấy Gen Z trong khi vẫn truy cập mạng xã hội Facebook hằng ngày, họ lại dành nhiều thời gian hơn cho các ứng dụng khác.
Trong khi TikTok liên tục đứng đầu bảng trong số các ứng dụng mạng xã hội được tải xuống nhiều nhất trên các cửa hàng ứng dụng (iOS và Google Play) và là “ứng dụng số 1” của Gen Z, nghiên cứu mới đây cho thấy ứng dụng được truy cập nhiều nhất lại là Facebook.
“Ứng dụng mạng xã hội số 1 ở Mỹ theo mức độ hoạt động hằng tháng được sử dụng bởi Gen Z là Facebook, TikTok đứng thứ tư, sau Instagram và Facebook Messenger.”
Như bạn có thể thấy ở dữ liệu của cột thứ 2, trong khi Gen Z vẫn truy cập (log-in) Facebook nhiều nhất, họ lại sử dụng nhiều hơn hay ở lại lâu hơn trên Instagram, TikTok, Snapchat và một số ứng dụng khác.
Có một câu hỏi mà rất nhiều người sẽ băn khoăn đó là những người trẻ nói chung và Gen Z nói riêng hiện đang làm gì trên mỗi ứng dụng? Nghiên cứu cũng đã có câu trả lời.
Trước hết, về mức sử dụng thực tế:
“Theo Pew Research Center, Gen Z là thế hệ duy nhất có sự sụt giảm về mức độ sử dụng các nền tảng mạng xã hội (Social Media) trong những năm gần đây.
Tuy nhiên, chúng ta cần hiểu rằng cũng có một sự khác biệt nhất định về khái niệm mức độ sử dụng mạng xã hội và cách sử dụng nó trong thực tế.
Dữ liệu của data.ai cho thấy rằng người dùng Gen Z ở 5 thị trường lớn tham gia vào mạng xã hội nhiều hơn bất kỳ nhóm tuổi hay thế hệ nào khác trong số 10 ứng dụng mạng xã hội có lượng truy cập hàng tháng (MAU) lớn nhất.
Gen Z truy cập vào các ứng dụng mạng xã hội nhiều hơn từ 12% so với Millennials (Gen Y) ở Hàn Quốc, hơn đến 19% ở Mỹ và tới 30% ở Đức.”
Dữ liệu cũng cho thấy người dùng từ 18-29 tuổi báo cáo rằng họ đang sử dụng các ứng dụng mạng xã hội ít hơn, trong khi tất cả các nhóm nhân khẩu học khác đã tăng thời gian của họ.
Người dùng trẻ tuổi đang tỏ ra tích cực hơn bất kì nhóm người dùng nào khác trên các ứng dụng mạng xã hội, điều này trái ngược hoàn toàn với nhiều quan điểm cho rằng họ đang quay lưng lại với các ứng dụng.
Sự khác biệt hay thay đổi chính ở đây là, thay vì đăng nhập vào một ứng dụng duy nhất, người dùng trẻ tuổi chọn cách sử dụng nhiều ứng dụng hơn với sự đa dạng nhiều hơn về thời gian sử dụng trên mỗi ứng dụng.
Dữ liệu cho thấy, mặc dù Gen Z vẫn đăng nhập vào Facebook hằng ngày (và MAU của Facebook vẫn lớn nhất), họ dành nhiều thời gian hơn để xem video trên TikTok.
“Mặc dù Gen Z đăng nhập vào các ứng dụng mạng xã hội yêu thích của họ thường xuyên hơn trong 5 thị trường được phân tích, nhưng điều này không phải lúc nào cũng đúng khi nói về thời gian sử dụng.
Trên thực tế, ở cả Đức và Mỹ, Gen X trung bình dành nhiều thời gian hơn 25% trên các ứng dụng mạng xã hội so với Gen Z.”
Đối với những người làm marketing, điều này có nghĩa là trong khi mọi người có thể đăng nhập vào một số ứng dụng nhất định mỗi ngày hoặc hàng tháng, điều quan trọng là họ có ở đó đủ lâu không hay họ dành nhiều thời gian nhất ở đâu.
Đây chính là điểm mấu chốt để tối đa hoá khả năng tiếp cận hoặc sự cộng hưởng thông qua các chiến dịch quảng cáo.
Người dùng trẻ thực sự vẫn đăng nhập vào Facebook, Messenger và Instagram với tần suất rất cao, họ đang dành nhiều thời gian hơn để tương tác trên Instagram, TikTok và Snapchat.
Nghiên cứu của data.ai cũng cho thấy rằng, MAU (Monthly Active Users) chỉ là một chỉ số tương đối để đo lường hiệu suất của các ứng dụng, thay vào đó, thời gian sử dụng (time spend on app) lại thực sự mang nhiều ý nghĩa thực tế hơn.
Theo số liệu nghiên cứu của eMarketer về thời gian sử dụng trung bình của người dùng tại Mỹ trên các nền tảng mạng xã hội năm 2022, TikTok, YouTube, Twitter hay Snapchat là những cái tên nổi bật nhất.
Dĩ nhiên, bản thân các nghiên cứu cũng chỉ mang tính tương đối, điều quan trọng là bạn phải dành nhiều thời gian hơn để tìm hiểu sâu hơn đằng sau những con số, phải thực sự hiểu thứ mà người dùng cần tìm kiếm trên mỗi ứng dụng, thứ mà họ đang làm và quan tâm, và hơn thế nữa.
Tham gia Cộng đồng We’re Marketer để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: Link
TikTok cho biết không có bằng chứng về vụ xâm phạm dữ liệu nào sau khi có tin đồn TikTok bị hack lan truyền trên mạng.
Hồi cuối tuần qua, tin đồn TikTok bị tấn công bắt đầu râm ran trên mạng, xuất phát từ một bài viết trên diễn đàn dữ liệu trực tuyến và sau đó là trên Twitter.
Tuy nhiên, người phát ngôn TikTok khẳng định không có bằng chứng bị xâm phạm dữ liệu. Dù vậy, các chuyên gia bảo mật vẫn khuyến nghị người dùng nền tảng này thay đổi mật khẩu và bảo đảm đã kích hoạt xác thực hai lớp (2FA) để đề phòng.
Theo Forbes, các báo cáo đầu tiên về việc TikTok bị hack xuất hiện trên bảng tin nhắn Breach Forums ngày 3/9. Tài khoản AgaintsTheWall đăng ảnh chụp màn hình được cho là từ vụ rò rỉ dữ liệ TikTok và WeChat.
Hacker còn úp mở chưa quyết định sẽ đem bán hay công bố cho mọi người. Một liên kết dẫn tới hai mẫu của dữ liệu cũng được đăng tải, cùng với video về một bộ dữ liệu. Người đăng còn nói rằng đã trích xuất 2 tỷ bản ghi từ cơ sở dữ liệu.
Trong một bài đăng Twitter ngày 3/9, người dùng BlueHornet|AgainstTheWest tuyên bố đánh cắp được mã nguồn backend nội bộ của TikTok.
Tuy nhiên, phát vôn viên TikTok cho biết: “Bộ phận an ninh mạng của chúng tôi đã điều tra các tuyên bố và không tìm thấy bằng chứng xâm phạm dữ liệu”.
Trả lời Bloomberg, TikTok cũng xác định các đoạn mã nghi vấn hoàn toàn không liên quan đến mã nguồn backend của mình.
Jake Moore, cố vấn an ninh mạng toàn cầu tại hãng bảo mật ESET, nhận định, là nền tảng mạng xã hội lớn, TikTok vẫn thu hút giới hacker và chúng sẽ tiếp tục tìm kiếm những lỗ hổng nếu có.
Dù TikTok có bị lộ dữ liệu thật hay không, người dùng cũng nên cài đặt cảnh báo trong ứng dụng và xác thực hai lớp, đặt mật khẩu không trùng với các tài khoản khác.
Tham gia Cộng đồng We’re Marketer để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: Link
Hiện nay, vốn hóa của GoTo còn khoảng 26 tỷ USD, gấp đôi Grab chỉ là 13 tỷ USD. Cả hai sẽ công bố báo cáo tài chính quý vài ngày tới.
Nhiều năm qua, Grab và GoTo – công ty mẹ Gojek luôn cạnh tranh trong một cuộc chiến tốn kém của để giành vị trí dẫn đầu thị trường siêu ứng dụng, gọi xe, giao đồ ăn…
Giờ đây, cả 2 công ty này đều thua lỗ, và phải vật lộn để thuyết phục các nhà đầu tư về tiềm năng phát triển của họ. Kể từ khi IPO, cổ phiếu Grab và GoTo đã sụt giảm.
Tiềm năng tăng trưởng của Indonesia đã giúp GoTo vượt mặt Grab. Công ty lên sàn Jakarta hồi tháng 4 và giá cổ phiếu đến nay đã mất khoảng 3%. Grab thì niêm yết tại Mỹ và mất 60% giá trị từ khi niêm yết.
Theo đó, vốn hóa của GoTo hiện còn khoảng 26 tỷ USD, gấp đôi Grab chỉ là 13 tỷ USD. Cả hai sẽ công bố báo cáo tài chính quý vài ngày tới.
Grab hiện coi Singapore là thị trường lớn nhất của mình, ngay cả khi hãng này cố gắng mở rộng phạm vi hoạt động sang các quốc gia khác, bao gồm cả Indonesia, nền kinh tế lớn nhất Đông Nam Á.
Về phía GoTo, doanh nghiệp này đang đứng đầu về dịch vụ gọi xe tại quê nhà với hơn 270 triệu dân đều am hiểu về thiết bị di động và mua sắm trên nền tảng bán lẻ trực tuyến Tokopedia, hay gọi xe và đặt đồ ăn qua ứng dụng của Gojek.
“Với lợi thế là thương hiệu “cây nhà lá vườn” và quan hệ hợp tác với Tokopedia, GoTo – công ty công nghệ lớn nhất Indonesia có thể bảo vệ được thị phần trong mảng giao đồ ăn trước Grab – ứng dụng vốn đang dẫn đầu trong mảng này ở Đông Nam Á. Từ đó, GoTo có thể cải thiện lợi nhuận”, Nathan Naidu, chuyên gia Bloomberg Intelligence nhận định.
Hiện GoTo là một trong số các công ty vốn hóa lớn nhất niêm yết trên sàn chứng khoán Indonesia, cùng với Bank Central Asia, Bank Rakyat Indonesia và Telkom Indonesia.
Năm 2021, hai startup Internet lớn nhất nước là Gojek và Tokopedia đã hợp nhất để có thêm sức mạnh cạnh tranh với các đối thủ trên thị trường khắc nghiệt.
Ngoài các dịch vụ gọi xe và giao hàng, GoTo còn cung cấp các dịch vụ công nghệ và thanh toán di động cho người bán. Tính đến tháng 9 năm ngoái, GoTo đã có khoảng 2,5 triệu tài xế và 14 triệu người bán hàng đăng ký trên ứng dụng này.
Trong khi đó, Grab đang cung cấp các dịch vụ giao nhận, di chuyển và tài chính kỹ thuật số tại 465 thành phố thuộc 8 quốc gia khu vực Đông Nam Á bao gồm Campuchia, Indonesia, Malaysia, Myanmar, Singapore, Philippines, Thái Lan và Việt Nam.
Tham gia Cộng đồng We’re Marketer để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: Link
Thông qua một tài liệu mới, Google vừa chia sẻ cách để những người làm SEO nói riêng và marketing nói chung có thể tối ưu thẻ mô tả Meta Description cho các bài viết trên website của họ.
Meta Description là gì?
Như bạn có thể thấy ở trên, Meta Description chính là đoạn mô tả ngắn về nội dung của một bài viết nào đó, chẳng hạn trong đoạn khoanh đỏ trên hình là Meta Description của bài viết về chủ đề Storytelling là gì của MarketingTrips.
Google gợi ý cách viết thẻ Meta Description.
Theo đó, Google liệt kê các cách viết Meta Description theo kiểu Tốt và Xấu để bạn có thể tối ưu và hạn chế các cách viết không phù hợp.
Meta Description được xem là Xấu hay không phù hợp khi:
Đoạn mô tả được sử dụng cho mọi bài đăng trên website.
Không chứa nội dung mang tính tóm tắt bài viết.
Thẻ mô tả quá ngắn (dưới 5 từ).
Và dưới đây chính là thứ mà Google xem là Tốt khi viết Meta Description.
Giải thích cụ thể về nội dung của bài viết. Nếu bạn đang bán một thứ gì đó, Meta Description nên nêu bật thứ được bán.
Sử dụng từng nội dung riêng biệt cho từng bài viết.
Meta Description nên là đoạn mô tả tổng quan về nội dung của bài viết (toàn trang).
Nên chứa một số thông tin chi tiết và cụ thể. Ví dụ nếu bạn bán Bút chì thì đoạn Meta Description có thể là “Bút chì cơ tự mài có thể tự động điều chỉnh. Có cả màu Hồng cổ điển và màu vàng Schoolbus. Đặt hàng hơn 50 cây bút chì, được giao hàng miễn phí.”
Tham gia Cộng đồng We’re Marketer để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: Link
Một nhóm mới có tên là New Monetization Experiences đã được Meta thành lập với mục tiêu phát triển các tính năng có trả phí tới người dùng.
Theo đó, đội nhóm mới sẽ xây dựng và phát triển “các tính năng có thể trả phí” cho các sản phẩm thuộc hệ sinh thái của Meta như Facebook, Instagram và WhatsApp.
Động thái này được đưa ra trong bối cảnh hoạt động kinh doanh quảng cáo của Meta bị ảnh hưởng nghiêm trọng bởi những thay đổi của Apple trên iOS đồng thời các khoản chi tiêu cho quảng cáo kỹ thuật số (Digital Advertising) cũng đang có xu hướng giảm nhiệt.
Trong một cuộc phỏng vấn với tờ The Verge, Ông John Hegeman, Phó chủ tịch phụ trách các hoạt động tìm kiếm doanh thu của Meta, cho biết nền tảng vẫn nỗ lực phát triển hoạt động kinh doanh quảng cáo của mình và không có kế hoạch cho phép người dùng trả tiền để tắt quảng cáo trong ứng dụng (như cách mà Twitter và YouTube đang làm với các tài khoản có trả phí).
Về mặt tổng thể, khoản doanh thu hơn 100 tỷ USD mỗi năm của Meta gần như hoàn toàn đến từ quảng cáo và mặc dù công ty này đã có một số tính năng có trả phí trên các ứng dụng, tuy nhiên nó hiện không phải là ưu tiên hàng đầu.
Về lâu dài, Meta nhận thấy các tính năng có trả phí sẽ trở thành “một phần có ý nghĩa trong hoạt động kinh doanh của mình”.
Với Facebook, quản trị viên các nhóm Facebook hiện đã có thể tính phí quyền truy cập vào những nội dung độc quyền và người dùng cũng có thể mua các “ngôi sao” ảo để gửi cho nhà sáng tạo yêu thích của họ.
WhatsApp đã tính phí cho một số doanh nghiệp nhất định và Instagram gần đây đã thông báo rằng những nhà sáng tạo cũng có thể bắt đầu tính phí đăng ký quyền truy cập (subscription) vào nội dung độc quyền.
Tuy nhiên, Facebook hay Instagram không phải là các nền tảng duy nhất hiện đang nỗ lực để tính phí cho người dùng, các nền tảng khác như TikTok, Twitter hay Telegram cũng đang có kế hoạch tương tự.
TikTok hiện đã bắt đầu thử nghiệm bản có trả phí cho nhà sáng tạo vào đầu năm nay còn Twitter thì tính phí với Super Follows.
Ngoài ra, các ứng dụng như Telegram và Snapchat cũng đều bổ sung các dịch vụ có trả phí để cho phép người dùng sử dụng nhiều hơn các tính năng trên nền tảng.
Tham gia Cộng đồng We’re Marketer để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: Link
LinkedIn vừa công bố báo cáo mới nêu bật những kỹ năng Marketing hiện có nhu cầu tuyển dụng cao nhất trên nền tảng.
Dữ liệu trong báo cáo của mạng xã hội việc làm LinkedIn được tổng hợp trong những tháng gần đây và so sánh với các kỹ năng hàng đầu đã có từ năm 2015.
LinkedIn nhận thấy rằng các bộ kỹ năng công việc (skill sets) đã thay đổi khoảng 25% kể từ năm 2015 và dự kiến sẽ thay đổi 41% vào năm 2025.
Digital Marketing hay Tiếp thị kỹ thuật số tiếp tục chiếm vị trí cao trong danh sách các kỹ năng được yêu cầu cao nhất. Tiếp thị truyền thông mạng xã hội (Social Media Marketing) cũng nằm trong danh sách này.
Top 20 Kỹ năng được yêu cầu nhiều nhất.
Đây là 20 kỹ năng được yêu cầu hàng đầu hiện nay, được xếp hạng theo thứ tự dựa trên những gì mà nhà tuyển dụng đang tìm kiếm trong các bài đăng tuyển dụng trên LinkedIn:
Vào năm 2021, người dùng đã chi tiêu đến 4.8 tỷ USD cho nền tảng nội dung người lớn OnlyFans, chủ sở hữu nền tảng kiếm được gần 1 tỷ USD doanh thu.
Chỉ trong vòng 2 năm, OnlyFans đã trả hơn 500 triệu USD (433 triệu bảng Anh) cho chủ sở hữu của nền tảng khi nhu cầu về nội dung người lớn liên tục tăng trưởng mạnh.
Leonid Radvinsky, 40 tuổi người Mỹ gốc Ukraine hiện là chủ sở hữu và là cổ đông duy nhất của nền tảng, OnlyFans có trụ sở chính tại London, Vương Quốc Anh.
Báo cáo kinh doanh mới đây cho thấy lợi nhuận trước thuế của OnlyFans đã tăng 615% lên mức 432 triệu USD trong 12 tháng tính đến tháng 9 năm 2021.
Về cơ bản, OnlyFans hoạt động như một nền tảng cung cấp nội dung người lớn, nơi những “nhà sáng tạo nội dung” có thể cung cấp các nội dung người lớn và giữ 80% số tiền kiếm được, 20% còn lại thuộc về OnlyFans để phục vụ cho các hoat động vận hành.
Hiện OnlyFans có 2,1 triệu “nhà sáng tạo” (Content Creator) đã đăng ký và có thể bán nội dung, 188 triệu “người hâm mộ” (Fans) có trả phí, tức những người dùng đã trả tiền để mua video hoặc để nhắn tin cho những “nhà sáng tạo” yêu thích của họ.
Về mặt mô hình kinh doanh, OnlyFans có thể được xem là “kẻ phá bĩnh” (Disruptor) đối với các mô hình kinh doanh nội dung người lớn truyền thống, và nền tảng cũng khá hấp dẫn với các “nhà sáng tạo” khi họ được giữ lại đến 80% doanh thu kiếm được.
Tất cả các hoạt động khác như marketing để thu hút người dùng sẽ do đội ngũ OnlyFans chịu trách nhiệm xây dựng và phát triển.
OnlyFans là công ty gia đình được thành lập vào năm 2016, với Tim Stokely là giám đốc điều hành và các thành viên còn lại trong gia đình đều tham gia vào các hoạt động kinh doanh và vận hành của nền tảng.
Mặc dù phần lớn doanh thu của OnlyFans đến từ các khách hàng tại Mỹ, nền tảng này vẫn được đăng ký tại Anh và đã trả đến 88 triệu USD tiền thuế doanh nghiệp vào 2021.
Giám đốc điều hành của OnlyFans cho biết:
“Chúng tôi đang trao quyền cho “nhà sáng tạo” để họ có thể chủ động kiếm tiền từ nội dung của họ và có quyền kiểm soát thực sự đối với nội dung đó.”
“Chúng tôi sẽ tiếp tục đầu tư vào nền kinh tế nhà sáng tạo (Creator Economy) bằng cách tăng cường tính an toàn, phát triển nội dung nguyên bản và tiếp tục phát triển cộng đồng ‘nhà sáng tạo’ cũng như ‘người hâm hộ’ của mình”.
Twitter hiện đang thử nghiệm tính năng cho phép người dùng sửa và bổ sung hashtag vào Tweet đã đăng trước đó trong vòng 30 phút kể từ khi đăng tải.
Ngày 1/9, Twitter thông báo sẽ ra mắt một trong các tính năng được người dùng mong chờ nhất: Sửa Tweet. Chức năng này đã được thử nghiệm nội bộ và sẽ mở cho các tài khoản Twitter Blue (có trả phí) vào cuối tháng.
Điều này đồng nghĩa bạn phải trả phí thuê bao tháng để dùng thử tính năng mới. Twitter Blue hiện có mức phí 4,99 USD/tháng.
Nếu nhu cầu đủ mạnh, nó sẽ giúp Twitter có thêm nguồn thu mới thông qua dịch vụ thuê bao. Ngoài khả năng sửa tweet đã đăng, dịch vụ khác của Twitter Blue bao gồm không hiển thị quảng cáo, bộ biểu tượng ứng dụng tùy chỉnh…
Theo Twitter, tính năng sửa tweet cho phép người dùng sửa văn bản và bổ sung hashtag vào một tweet trong vòng 30 phút kể từ khi tweet được đăng lần đầu.
Nội dung bài đăng tweet sau khi sửa sẽ có một nhãn, biểu tượng và tem thời gian để người xem biết được nó đã bị sửa. Người dùng sẽ bấm vào nhãn để xem lịch sử chỉnh sửa và xem các phiên bản cũ.
Twitter cho biết việc giới hạn thời gian chỉnh sửa và lưu lại lịch sử về một tweet (bài đăng) sẽ “bảo vệ tính toàn vẹn của cuộc trao đổi” trên nền tảng.
Tham gia Cộng đồng We’re Marketer để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: Link
Coca-Cola và Grab vừa công bố hợp tác với quy mô trên toàn khu vực Đông Nam Á nhằm mục tiêu thúc đẩy các hoạt động chuyển đổi số.
Cụ thể, hai đơn vị sẽ tận dụng mạng lưới bán lẻ ngoại tuyến sâu rộng của Coca-Cola và mạng lưới trực tuyến của Grab để mở ra nhiều cơ hội tăng trưởng trong bối cảnh thị trường tiêu dùng kỹ thuật số đang phát triển bùng nổ.
Hai công ty sẽ cùng phối hợp thực hiện các sáng kiến có thể tăng cường kỹ năng số cho các đối tác cửa hàng, thúc đẩy sự tiện lợi và loạt sản phẩm nước giải khát dành cho người dùng.
Cả hai hợp tác tập trung vào bốn lĩnh vực chiến lược: Phát triển cùng với đối tác cửa hàng thông qua GrabFood và GrabMart; Kết nối với người tiêu dùng bằng những phương thức quảng cáo mới thông qua GrabAds;
Tăng cường hỗ trợ cho các đối tác cửa hàng nhỏ, truyền thống thông qua chuyển đổi số; Kết hợp quy mô hoạt động của hai công ty để đóng góp tích cực cho Đông Nam Á.
“Chúng tôi đang chuyển đổi mô hình kinh doanh của mình để phù hợp với thời đại kỹ thuật số. Mối quan hệ đối tác mới với Grab tại khắp các thị trường Đông Nam Á sẽ giúp chúng tôi mở rộng khả năng tiếp cận trực tuyến và đón đầu những xu hướng mua sắm đang liên tục thay đổi, trong bối cảnh chúng tôi đang gia tăng thêm nhiều giá trị cho người tiêu dùng và thúc đẩy tăng trưởng”, ông Sam Way, đại diện Coca-Cola Đông Nam Á và Nam Thái Bình Dương cho biết.
“Mối quan hệ hợp tác này thể hiện cam kết chung của cả hai công ty trong việc hỗ trợ các đối tác cửa hàng phát triển hoạt động kinh doanh hơn nữa thông qua chuyển đổi số và các dịch vụ tài chính.
Nhờ nắm bắt các nhu cầu mới và các nhu cầu chưa được đáp ứng của người tiêu dùng, các đối tác cửa hàng sẽ có thể cung cấp những dịch vụ ngày càng tốt hơn cho người tiêu dùng.
Việc này đồng thời cũng sẽ giúp người tiêu dùng thêm yêu mến thương hiệu Grab và Coca-Cola”, ông Saad Ahmed, Giám đốc khu vực, bộ phận quản lý đối tác cửa hàng của Grab cho biết.
Tham gia Cộng đồng We’re Marketer để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: Link
Trong khi Vũ trụ ảo Metaverse là một trong những từ khoá HOT nhất thế giới công nghệ hiện nay, vẫn có nhiều những nhận định chưa đúng đắn về thuật ngữ này.
Đối với hầu hết những ai từng là một phần của kỹ nguyên công nghệ dot-com, vào năm 2022, họ cũng có thể là một phần của vũ trụ ảo Metaverse, một xu hướng công nghệ được xem là “tương lai của thế giới internet”.
Vào năm 1993, khi World Wide Web (WWW) bắt đầu được áp dụng rộng rãi, có nhiều người tự hỏi rằng, “Thực chất thì nó là gì? Đâu là thực, đâu là thứ được cường điệu và chúng ta đang hướng tới đâu?”
Theo cách tiếp cận tương tự, Metaverse đang được định nghĩa theo cách mà nó được nhìn nhận và hiểu trong suốt quá trình hình thành. Trái với những gì nhiều người tin tưởng, nó không chỉ là những công nghệ thực tế ảo (VR) hay Avatar (Hình ảnh đại diện kỹ thuật số).
Metaverse là một địa điểm (Place), một hệ sinh thái (Ecosystem) và trên hết nó là một “thế giới internet hoàn toàn mới”.
Vũ trụ ảo Metaverse là thế giới phi tập trung (Decentralized).
Hiện tại, Metaverse được tạo thành từ một nhóm các hệ sinh thái. Không giống như World Wide Web, hiện không có bất kỳ cổng truy cập tiêu chuẩn hóa (standardized gateways) nào (chẳng hạn như Google Chrome hoặc DuckDuckGo) giúp Metazens (các công dân của vũ trụ ảo Metaverse) có thể di chuyển một cách liền mạch từ thế giới này sang thế giới khác.
Nhiều người suy đoán rằng Meta (Facebook) đang nỗ lực để sở hữu cổng truy cập (gateway), và họ đang tỏ ra bị thất thế trong cuộc chiến này.
Tuy nhiên, vốn dĩ họ có suy đoán đó là bởi vì phần lớn động lực cho sự phát triển của Metaverse đang diễn ra trong nền tảng phi tập trung (decentralized) của blockchain.
Một trong những nguyên tắc cơ bản được đặt ra bởi nhiều người sáng lập của các nền tảng Metaverse là nó sẽ được điều hành bởi một tổ chức tự trị phi tập trung (DAO – Decentralized Autonomous Organization).
Theo Cointelegraph, “DAO là một thực thể (entity) không có cơ quan điều hành trung tâm. Các quyết định được đưa ra từ dưới lên (bottom-up driven), được điều hành bởi một cộng đồng được tổ chức xung quanh một bộ quy tắc cụ thể được thực thi dựa trên công nghệ blockchain.”
Theo góc nhìn này, hãy coi đó là một phiên bản dân chủ của thế giới Internet, nơi được sở hữu và quản lý bởi các thành viên trong cộng đồng.
Các bạn cứ hình dung như thế này, thay vì với thế giới tập trung, các thành viên trong quốc hội sẽ đại diện bỏ phiếu để bầu ra các thành viên trong chính phủ (chẳng hạn như Thủ tướng Chính phủ), với thế giới phi tập trung (DAO), người bầu ra Thủ tướng Chính phủ sẽ là toàn dân, tức quyền khi này sẽ được phân chia đều cho tất cả mọi người.
Decentraland và Sandbox hiện là những nền tảng phi tập trung nổi bật nhất trong không gian vũ trụ ảo Metaverse.
Hiểu đơn giản, Decentraland hay Sandbox là những thế giới được phát triển dựa trên công nghệ chuỗi khối Ethereum (Ethereum blockchain) được kiểm soát bởi những người chơi cá nhân, những người có quyền bỏ phiếu để thay đổi các chính sách hay xác định cách thế giới đó hoạt động.
Theo nhiều nhận định, Decentraland là một nền dân chủ hơn là một vũ trụ ảo phi tập trung khi người dùng hiện đang bị ràng buộc nhiều thứ với hệ sinh thái riêng của họ.
Decentraland vs The Sandbox.
Nếu bạn là người dùng của Decentraland, tất cả những thứ mà bạn sở hữu như hình đại diện (Avatar), bất động sản hay các tài sản kỹ thuật số khác (NFT) không được hỗ trợ chuyển sang các nền tảng khác.
Điều này trái ngược với triết lý phi tập trung trong Metaverse là người dùng có thể sở hữu, quản lý và sử dụng chúng bên ngoài nền tảng gốc.
Việc không thể giao dịch các tài sản số một cách tự do và sử dụng chúng trong nhiều trò chơi hoặc nền tảng khác nhau sẽ khiến Decentraland gặp nhiều vấn đề khi tiến tới Metaverse.
Ngược lại, với The Sandbox, vì nền tảng này có nhiều lợi thế hơn về mặt phi tập trung, các tài sản số theo đó có tính thanh khoản cao hơn.
The Sandbox cung cấp cho người dùng sự linh hoạt thông qua việc tích hợp với OpenSea (một NFTs marketplace), Decentraland chỉ cho phép người dùng mua và giao dịch trên thị trường riêng của nó là MANA marketplace.
Đối với những ai sở hữu tài sản số (Digital Assets), khả năng tương tác liền mạch trên toàn bộ hệ sinh thái là yếu tố quyết định đến giá trị thực sự của tài sản.
Tuy nhiên với công nghệ có tên là cross-chain bridges hay cầu nối xuyên chuỗi, những điểm yếu hay hạn chế này có thể được xử lý một cách tương đối dễ dàng.
Cầu nối xuyên chuỗi là công nghệ giúp kết nối các blockchains độc lập với nhau và cho phép di chuyển các tài sản và thông tin giữa chúng, công nghệ này sẽ đóng một vai trò quan trọng trong việc cho phép khả năng tương tác giữa các mạng lưới hay giao thức không đồng nhất.
Một khi các cầu nối xuyên chuỗi được tiêu chuẩn hóa và triển khai trên tất cả các nền tảng, Metaverse sẽ trở thành mạng lưới đa liên kết rộng lớn mà nhiều người mơ ước.
Metaverse là vũ trụ ảo do người dùng sở hữu.
Với các nền tảng như Decentraland và The Sandbox, các Metazens được cung cấp một lượng kiểm soát đáng kể đối với thế giới trực tuyến mà họ đang sinh sống và tạo ra.
Tuy nhiên, khả năng mang tài sản và bản thân kỹ thuật số của một người từ nền tảng này sang nền tảng khác là hy vọng của hầu hết những ai đang nỗ lực để phát triển nên một Metaverse thực sự tích hợp và phi tập trung.
Theo mô hình này, chính người dùng sẽ đóng vai trò là cổng truy cập (gateway) thay vì chủ sở hữu của các nền tảng.
Vũ trụ ảo Metaverse: Một thế giới mới – Một tư duy mới.
Trong bối cảnh ngày nay, khi người dùng ngày càng mất niềm tin vào các công ty công nghệ lớn (Big Tech) và quan tâm nhiều hơn đến quyền riêng tư, vũ trụ ảo Metaverse nếu muốn phát triển thì phải khác với thế giới internet hiện có.
Để giữ cho các dự án Metaverse không trở thành một cơn ác mộng kinh hoàng nào đó, các nền tảng hay doanh nghiệp lớn không thể toàn quyền kiểm soát hay điều khiển nó, điều này đòi hỏi một tư duy mới với một hệ thống công nghệ quản lý mới.
Các hệ sinh thái khép kín vốn được kiểm soát chặt chẽ như Meta (Facebook), Microsoft hay Google rồi sẽ trở thành “quá khứ”.
Các bức tường sẽ cần phải được phá bỏ, xóa bỏ các đường biên giới và được cấp các quyền tự do. Và để làm được điều này, các công nghệ hiện đang thúc đẩy vũ trụ ảo Metaverse sẽ cần phải hoạt động hài hòa với nhau hơn là cạnh tranh hay xung đột.
Đây là cách duy nhất để người dùng có thể trải nghiệm Metaverse từ một nơi an toàn, quyền riêng tư cao và ít bị thao túng nhất.
Người dùng sẽ được kiểm soát nhiều hơn với những gì họ làm và được nhìn thấy, đó sẽ là một chiều không gian mới, một thế giới internet kiểu mới.
Tham gia Cộng đồng We’re Marketer để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: Link
Instagram đang thử nghiệm một số tính năng mới, sẽ cho phép người dùng kiểm soát nhiều hơn cách các nội dung được đề xuất đến họ.
Đầu tiên, nền tảng đang thử nghiệm tính năng cho phép người dùng đánh dấu nhiều bài đăng trên trang Khám phá (Explore) với tùy chọn “Không quan tâm” (Not Interested).
Khi lựa chọn tính năng này, Instagram cho biết họ sẽ ngay lập tức ẩn các bài đăng này và không hiển thị những nội dung tương tự trong tương lai.
Trước đây, “Không quan tâm” chỉ khả dụng với người dùng trên một số bài đăng tại một số thời điểm nhất định.
Nền tảng cũng đang bắt đầu thử nghiệm tuỳ chọn để người dùng có thể chọn không xem các bài đăng được đề xuất với một số từ khoá, cụm từ hoặc biểu tượng cảm xúc (emojis) nhất định có trong phần chú thích (Caption) hoặc thẻ hashtag.
Instagram lưu ý rằng cho dù bạn đang nhìn thấy một thứ gì đó không liên quan thì tính năng mới này có thể được sử dụng để ngừng xem những nội dung mà bạn không còn cảm thấy thú vị nữa.
Instagram cho biết thêm:
“Điều quan trọng đối với chúng tôi là mọi người cảm thấy hài lòng với khoảng thời gian mà họ dành cho Instagram, vì vậy, chúng tôi sẽ tiếp tục tìm cách giúp mọi người kiểm soát nhiều hơn những gì họ thấy trên nền tảng.”
Instagram cho biết những thay đổi này không phải là vĩnh viễn, có nghĩa là thuật toán của Instagram vẫn sẽ tập trung vào các bài đăng được đề xuất; chỉ là nền tảng đang tìm kiếm những giải pháp mới tối ưu hơn.
Bên cạnh các cập nhật mới, Instagram cũng bật mí một số mẹo mà người dùng có thể sử dụng để cải thiện trải nghiệm của họ.
Ví dụ: bạn có thể sử dụng tùy chọn nguồn cấp dữ liệu Yêu thích (Favorites feed) của ứng dụng để cuộn qua các bài đăng từ các tài khoản yêu thích của mình. Khi thêm một tài khoản nào đó vào nguồn cấp dữ liệu, bạn sẽ thấy các bài đăng từ tài khoản đó thường xuyên hơn.
Bạn có thể truy cập nguồn cấp dữ liệu Yêu thích bằng cách nhấn vào biểu tượng Instagram trong nguồn cấp dữ liệu của mình (như hình bên dưới).
Cuối cùng, người dùng Instagram có khả năng điều chỉnh các nội dung nhạy cảm để chọn xem nhiều hơn hoặc ít hơn một số loại nội dung nhạy cảm.
Bạn có thể xem cài đặt Kiểm soát nội dung nhạy cảm (Sensitive Content Control settings) của mình bằng cách đi tới phần Hồ sơ của bạn, nhấn vào menu Cài đặt (Settings) và chọn kiểm soát nội dung nhạy cảm (Sensitive Content control).
Tham gia Cộng đồng We’re Marketer để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: Link
Mạng xã hội Truth Social của cựu Tổng thống Mỹ Donald Trump không được cấp giấy phép đăng ký nhãn hiệu vì quá tương tự với nhiều thương hiệu hiện có và dễ gây nhầm lẫn.
Sau khi ông Donald Trump bị cấm sử dụng các mạng xã hội Facebook và Twitter vào năm 2021, ông tuyên bố sẽ lập ra một nền tảng mạng xã hội hoàn toàn mới để đưa ra sự thật.
Và như vậy, mạng xã hội Truth Social của vị Cựu Tổng thống đã chính thức ra mắt vào ngày 21/2/2022 và đã từng sở hữu số lượt tải đứng đầu trên App Store.
Tuy nhiên, mới đây, đơn đăng ký nhãn hiệu (Trademark) của mạng xã hội này đã bị từ chối, gây thêm những khó khăn nhất định cho ứng dụng này trong tương lai.
Những thương hiệu tương tự nhau.
Theo một tài liệu của Văn phòng Nhãn hiệu và Sáng chế Hoa Kỳ (USPTO) công bố vào tháng này cũng như những nhận định của luật sư về nhãn hiệu Josh Gerben, đơn đăng ký nhãn hiệu của mạng xã hội Truth Social của Trump đã bị từ chối, vì tên của mạng xã hội này quá giống với tên của các tổ chức kinh doanh khác.
USPTO cho biết, tên mạng xã hội của Cựu Tổng thống Trump giống với hai công ty truyền thông khác một cách khó hiểu”, trong đó bao gồm: ứng dụng truyền thông xã hội Vero – True Social và một mạng phát thanh của Cơ đốc giáo mang tên Truth Network.
Văn phòng cấp bằng sáng chế cho biết, cái tên Truth Social của mạng xã hội này mang những điểm đặc biệt giống” với từ “Truth” của nhãn hiệu Truth Network.
Trong khi đó, khi so sánh ứng dụng Truth Social với ứng dụng Vero – True Social, văn phòng cấp bằng sáng chế nhận định rằng “từ TRUTH và TRUE là 2 từ mang ý nghĩa chủ đạo trong nhãn hiệu của hai công ty này và đều có nghĩa là sự trung thực hoặc sự thật”.
Hơn nữa, theo hồ sơ, cả hai cái tên đều chứa từ SOCIAL (xã hội), điều này càng khiến cho tên của hai mạng xã hội này nghe có vẻ giống nhau.
Với những căn cứ trên, hồ sơ kết luận: “Các nhãn hiệu tương tự nhau và các hàng hóa và dịch vụ có liên quan đến nhau có thể sẽ gây nhầm lẫn về nguồn gốc của hàng hóa và dịch vụ của người nộp đơn.
Do đó, đơn đăng ký nhãn hiệu cho mạng xã hội Truth Social của Cựu Tổng thống Trump bị từ chối theo Mục 2 (d) của Đạo luật Nhãn hiệu của Hoa Kỳ”.
Và như vậy, ngài Cựu Tổng thống sẽ có khoảng 6 tháng để kháng cáo quyết định này của tòa án. Nhưng việc thay đổi quyết định có thể rất khó khăn, luật sư về nhãn hiệu Josh Gerben cho biết: “Chúng tôi đã làm rất nhiều việc để đối chiếu, so sánh và đưa ra kết luận.
Trong trường hợp này, tôi sẽ nói với khách hàng rằng họ có khoảng 33% cơ hội để kháng cáo thành công.”
Theo ông, việc Văn phòng Nhãn hiệu và Sáng chế Hoa Kỳ phản đối đơn đăng ký nhãn hiệu này là một trở ngại lớn cho Truth Social trong việc bảo vệ tên riêng của mình.
Trả lời phỏng vấn tờ CBS MoneyWatch, luật sư Gerben cho biết: “Bất kể công ty của bạn lớn đến mức nào hay những người ủng hộ bạn nổi tiếng như thế nào, Văn phòng Nhãn hiệu và Sáng chế Hoa Kỳ sẽ tự mình xem xét từng đơn đăng ký.
Và khi nhãn hiệu chưa đủ độc đáo, doanh nghiệp bạn vẫn sẽ vấp phải những vấn đề nhất định trong việc đăng ký”.
Đây không phải là trở ngại đầu tiên mà nền tảng mạng xã hội Truth Social gặp phải từ khi ra mắt. Vào tháng 6, Digital World Acquisition Corp – công ty mua lại Truth Social đã cảnh báo rằng thỏa thuận sát nhập giữa hai bên có thể gặp thất bại vì họ đã nhận được hàng loạt trát đòi hầu tòa liên quan đến mạng xã hội này.
Đồng thời, Ủy ban Chứng khoán và Sàn giao dịch Mỹ cũng đang điều tra về mục đích đặc biệt trong việc sát nhập giữa Digital World Acquisition Corp và Truth Social.
Truth Social được phát triển bởi Tập đoàn Truyền thông và Công nghệ Trump. Đây là một ứng dụng rất giống mạng xã hội Twitter – mạng xã hội đã cấm vị Cựu Tổng thống sử dụng tài khoản Twitter của mình vĩnh viễn vào tháng 1 năm 2021.
Sau khi ra mắt vào tháng 2, mạng xã hội này cũng đã gặp phải nhiều vấn đề như ít người dùng thường xuyên, ứng dụng tồn tại những lỗ hổng bảo mật, một số tính năng hạn chế và gây ảnh hưởng tới trải nghiệm của người dùng…
Vero và Truth Network.
Mạng xã hội Truth Social hiện cũng đang đối mặt với nguy cơ bị hai công ty còn lại thực thi quyền nhãn hiệu. Để giải quyết, luật sư Gerben cho rằng, Truth Social có thể tìm cách thương lượng với True Social hoặc Truth Network về vấn đề này.
Garben cho biết: “Rủi ro lớn nhất mà mạng xã hội của Cựu Tổng thống Trump có thể sẽ gặp phải đó là khả năng một trong hai công ty True Social hoặc Truth Network quyết định sẽ thực thi quyền nhãn hiệu và yêu cầu mạng xã hội Truth Social không được phép sử dụng tên của họ.”
Nhưng Trump không phải là người thích tránh các vụ kiện tụng. Garben nhận định:
“Tôi không nghĩ rằng việc USPTO từ chối nhãn hiệu Truth Social sẽ ngăn Trump sử dụng tên gọi này”.
Tham gia Cộng đồng We’re Marketer để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: Link
Facebook (Meta) ra mắt ứng dụng thương mại điện tử JioMart cho người dùng tại Ấn Độ thông qua hợp tác với Reliance Jio.
Với khoản đầu tư trị giá 6 tỷ USD vào nhà cung cấp internet Ấn Độ Reliance Jio, Facebook cho phép người dùng WhatsApp Ấn Độ mua sắm thông qua ứng dụng thương mại điện tử (eCommerce) mới có tên là JioMart.
Như bạn có thể thấy trong hình ảnh ở trên, JioMart về cơ bản là một nền tảng mua sắm trực tuyến tích hợp trong WhatsApp, JioMart là cánh cửa giúp Facebook thâm nhập mảng thương mại điện tử tại thị trường vô cùng đông đúc, Ấn Độ.
Theo giải thích của Facebook:
“JioMart trên WhatsApp sẽ cho phép mọi người ở Ấn Độ, kể cả những người chưa từng mua sắm trực tuyến trước đây, có thể mua sắm một cách liền mạch trong ứng dụng.
Người mua sắm có thể thêm các mặt hàng vào giỏ hàng của họ và thanh toán để hoàn tất giao dịch mà không cần phải rời khỏi cuộc trò chuyện của họ WhatsApp.”
Ở thời điểm hiện tại, WhatsApp có hơn 487 triệu người dùng hàng tháng tại Ấn Độ, và đây là lý do tại sao Facebook lại ra quyết định tích hợp thương mại điện tử tại thị trường này.
Trở lại năm 2020, Facebook đã mua 9,99% cổ phần của Jio Platforms với giá trị 5,7 tỷ USD, Reliance Jio cung cấp quyền truy cập internet cho hơn 420 triệu người dùng Ấn Độ và Facebook muốn tận dụng nguồn lực có sẵn này để thâm nhập vào Ấn Độ.
Theo một nguồn tin được tiết lộ khác, hiện Facebook đang có kế hoạch phát triển siêu ứng dụng (Super App) với nhiều tính năng tích hợp khác chứ không chỉ là thương mại điện tử và JioMart chỉ đóng vai trò như là “sản phẩm khởi động”.
Tham gia Cộng đồng We’re Marketer để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: Link
Doanh thu của Tập đoàn GoTo, Công ty mẹ đang sở hữu Gojek tăng 32% trong nửa đầu năm 2022 song vẫn chưa có lãi và lỗ gần 1 tỷ USD.
Ngày 30/8, GoTo cho biết 6 tháng đầu năm nay lỗ 14,17 nghìn tỷ rupiah (955 triệu USD), gần gấp đôi cùng kỳ năm 2021 ngay cả khi doanh thu tăng 32%.
Cụ thể, doanh thu nửa đầu năm đạt 3,3 nghìn tỷ rupiah. Đây là báo cáo kết quả kinh doanh quý thứ hai của GoTo kể từ khi lên sàn chứng khoán hồi tháng 4, cho thấy các thách thức gặp phải trên con đường sinh lời.
GoTo thành lập tháng 5/2021 sau khi sáp nhập ứng dụng gọi xe, giao đồ ăn Gojek với sàn thương mại điện tử Tokopedia. Ngoài GoTo, Indonesia còn có một kỳ lân khác là Bukalapak.
Dù thua lỗ, GoTo bày tỏ lạc quan rằng tình hình sẽ thay đổi, nhắc đến tăng trưởng trong tổng giá trị giao dịch và tổng doanh thu năm 2021 và quý đầu năm nay. GoTo không phải hãng công nghệ Đông Nam Á duy nhất vật lộn với việc kiếm tiền.
Grab, đối thủ của GoTo, cuối tuần trước báo cáo lỗ 572 triệu USD trong quý II vì do đầu tư nhiều vào bán hàng và Marketing, giảm 29% so với mức lỗ 801 triệu USD một năm trước đó. Trong khi đó, doanh thu đạt kỷ lục 321 triệu USD, tăng 79%, phản ánh nhu cầu giao hàng và gọi xe mạnh mẽ.
Grab kỳ vọng mảng giao đồ ăn sẽ hòa vốn vào quý I/2023 và mảng giao hàng nói chung hòa vốn vào quý II/2023, sớm hơn tương ứng 1 và 2 quý so với kế hoạc ban đầu nhờ chi phí cố định thấp hơn và giảm bớt ưu đãi.
Trong cuộc điện thoại với các nhà đầu tư, CEO Grab Anthony Tan tự tin sẽ giải quyết được các thách thức phía trước, tăng trưởng doanh thu bền vững và tăng tốc trên con đường lợi nhuận.
Để làm điều này, Grab nói sẽ tập trung hơn vào các khách hàng “chất lượng cao”, những người ít nhạy cảm với ưu đãi và sử dụng dịch vụ tần suất cao. Dù vậy, ông Tan cảnh báo nó sẽ phải đánh đổi tăng trưởng giao dịch.
Tham gia Cộng đồng We’re Marketer để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: Link
Thông qua YouTube Promotion Tab tức thẻ Promotions mới, các nhà sáng tạo có thể quảng cáo kênh của họ mà không cần phải truy cập vào trình quản lý quảng cáo của Google.
YouTube đã thêm thẻ Promotion (Promotion Tab) cho phép các nhà sáng tạo quảng cáo kênh và video của họ mà không cần thông qua Trình quản lý quảng cáo của Google (Google Ads Manager).
Thẻ Promotion mới nằm trong YouTube Studio và là một cách giúp người dùng tạo quảng cáo một cách dễ dàng và nhanh chóng hơn thay vì phải mất rất nhiều thời gian trong Google Ads Manager.
Với những nhà sáng tạo có quyền truy cập vào công cụ mới (được chọn), họ sẽ tìm thấy thẻ Promotion trên Trang nội dung (Content Page) của YouTube Studio.
YouTube cho biết:
“Thẻ YouTube Promotion mới sẽ giúp những người quản lý kênh chạy quảng cáo nhanh hơn cho nội dung hay kênh của họ.”
“Chúng tôi nhận thấy rằng hiện có rất nhiều nhà sáng tạo muốn có nhiều công cụ hơn để giúp phát triển kênh của họ và tiếp cận với nhiều khán giả tiềm năng hơn, vì vậy, chúng tôi đang thử nghiệm tính năng mới với mục tiêu khiến cho quá trình này được dễ dàng và tiện lợi hơn (so với việc sử dụng Google Ads).
Như đã đề cập, tính năng mới sẽ cho phép chủ sở hữu kênh và nhà quảng cáo phát triển kênh của họ mà không cần phải truy cập vào Google Ads. Tuy nhiên, đó cũng là một cách để YouTube mang lại nhiều doanh thu quảng cáo hơn.
Từ đây, những nhà sáng tạo hay người dùng vốn không quen thuộc với công cụ Google Ads vì khá phức tạp cũng có thể khởi chạy ngay các chiến dịch quảng cáo.
Chương trình hiện đang trong giai đoạn thử nghiệm và chỉ khả dụng với một số nhà sáng tạo (Creator) được chọn.
Tham gia Cộng đồng We’re Marketer để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: Link
Sau khoảng hơn 2 năm ra mắt, Facebook vừa thông báo sẽ đóng cửa ứng dụng chơi game theo yêu cầu Facebook Gaming từ tháng 10 tới.
Facebook đang lên kế hoạch đóng cửa Facebook Gaming, ứng dụng cho phép người dùng xem và chơi các trò chơi điện tử theo yêu cầu (video games on-demand).
Cụ thể, bắt đầu từ ngày 28 tháng 10 sắp tới, Facebook Gaming sẽ không còn khả dụng trên iOS và Android, trong khi các tính năng chơi game sẽ tiếp tục có thể truy cập thông qua ứng dụng Facebook chính.
Facebook cho biết:
“Chúng tôi muốn gửi lời cảm ơn chân thành đến tất cả các bạn vì tất cả những gì các bạn đã làm để xây dựng một cộng đồng thịnh vượng cho những người chơi game và người hâm mộ kể từ khi ứng dụng này ra mắt lần đầu tiên.”
“Tuy nhiên, sứ mệnh của chúng tôi trong việc kết nối người chơi, người hâm mộ và nhà sáng tạo với các trò chơi mà họ yêu thích vẫn không thay đổi và bạn vẫn có thể tìm thấy chúng khi truy cập Gaming trong ứng dụng Facebook.”
Facebook Gaming được ra mắt lần đầu từ năm 2020 và đã gây ra sự bùng nổ không nhỏ trong ngành chơi và xem trò chơi điện tử, Facebook Gaming từng được coi là mối đe dọa lớn nhất của Twitch, là “Market Leader” lúc bấy giờ được sở hữu bởi đế chế thương mại điện tử Amazon.
Theo báo cáo từ công ty nghiên cứu thị trường Streamlabs, trong quý 2 năm 2022, Facebook Gaming chỉ chiếm 7,9% thị phần về lượng giờ xem, xếp sau Twitch của Amazon (76,7%) và YouTube (15,4%).
Về bối cảnh tổng thể, Facebook không phải là gã khổng lồ internet đầu tiên đã thử và thất bại trong việc xây dựng các ứng dụng tương tự Twitch.
Vào năm 2020, Microsoft đã đóng cửa dịch vụ phát trực tuyến của riêng mình, Mixer, sau khi ký kết hợp đồng hàng triệu đô la để người chơi Fortnite nổi tiếng Tyler “Ninja” Blevins phát trực tuyến độc quyền trên dịch vụ của mình.
YouTube, đối thủ cạnh tranh gần nhất của Twitch gần đây đã đạt được nhiều thành công hơn khi vượt qua sự thống trị của Twitch.
YouTube Gaming, một bộ phận thuộc YouTube, là tên tuổi duy nhất được đánh giá có thể đe dọa vị thế cạnh tranh của Twitch. Gần đây, nền tảng đã thu hút một số nhân tài hàng đầu từ đối thủ, như Ludwig Ahgren, Rachell Hofstetter và Timothy Betar.
Sau khi ngừng ứng dụng Facebook Gaming, Meta cho biết sẽ tập trung nhiều hơn cho thiết bị VR và các sản phẩm liên quan đến Metaverse. Năm ngoái, công ty đã đổi tên từ Facebook thành Meta, cũng như đổ hàng tỷ USD để thực hiện tham vọng vũ trụ ảo.
Tham gia Cộng đồng We’re Marketer để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: Link
Trong phạm vi bài viết này, hãy cùng MarketingTrips tìm hiểu các nội dung xoay quanh chủ đề Creator Economy (nền kinh tế nhà sáng tạo) như: Creator Economy là gì, những xu hướng chính của Creator Economy, Creator Economy có giá trị bao nhiêu và hơn thế nữa.
Creator Economy là gì? Creator Economy có nghĩa là nền kinh tế nhà sáng tạo. Kể từ khi yếu tố công nghệ phát triển mạnh mẽ và ảnh hưởng trực tiếp đến nhiều khía cạnh khác nhau từ kinh doanh đến cuộc sống, đặc biệt khi các nền tảng mạng xã hội trở thành nơi không chỉ là để giải trí mà còn để mua sắm và hơn thế nữa, khái niệm Creator Economy ra đời và không ngừng phát triển.
Các nội dung sẽ được MarketingTrips phân tích trong bài bao gồm:
Những số liệu đáng tham khảo nhất về Creator Economy.
Creator Economy được phân loại như thế nào?
Influencer là gì?
KOL là gì?
Content Creator là gì?
Tìm hiểu tổng quan về Creator Economy.
Mối quan hệ giữa Social Media với Creator Economy là gì?
Lịch sử hình thành khái niệm Creator Economy.
Những nhóm đối tượng chính hiện đang thúc đẩy Creator Economy.
Những xu hướng Creator Economy chính trong năm 2022 là gì?
Những câu hỏi thường gặp xoay quanh chủ đề Creator Economy?
bên dưới là nội dung chi tiết:
Creator Economy là gì?
Creator Economy là khái niệm đề cập đến một nền kinh tế (Economy) nơi các nhà sáng tạo (Creator) thông qua sự hỗ trợ của các nền tảng hay phần mềm có thể kiếm tiền từ các sản phẩm sáng tạo của họ.
Các nền tảng hỗ trợ phổ biến nhất trong Creator Economy hiện nay đó là YouTube, Facebook, Instagram hay TikTok.
Ngoài thuật ngữ khá phổ biến là Economy (Nền kinh tế), theo từ điển Cambridge, Creator được định nghĩa là nhà sáng tạo, tác giả hay người xây dựng, những người có thể sản xuất hay tạo ra một thứ gì đó.
Theo cách định nghĩa của Adobe, Creator hay Nhà sáng tạo là người tham gia vào các hoạt động sáng tạo nội dung — như nhiếp ảnh, viết lách hoặc xây dựng NFT — và chia sẻ các công việc này trực tuyến ít nhất là hàng tháng, với hy vọng thu hút được một lượng khán giả tiềm năng để từ đó có thể kiếm tiền.
Tính đến năm 2022, Creator Economy có giá trị khoảng 100 tỷ USD với hơn 165 triệu nhà sáng tạo trên toàn cầu.
Creator Economy trong tiếng Việt có nghĩa là Nền kinh tế nhà sáng tạo.
Những số liệu đáng tham khảo nhất về Creator Economy.
Trước khi tìm hiểu sâu hơn về Creator Economy, dưới đây là những gì bạn cần nắm:
Định giá quy mô thị trường toàn cầu của Influencer Marketing (một phần của Creator Economy) là 13,8 tỷ USD, cao hơn gấp đôi so với năm 2019. (Statista)
Trong số hơn 165 triệu nhà sáng tạo (Creator) trên toàn thế giới, số nhà sáng tạo nghiệp dư (chiếm 92%) và nhà sáng tạo chuyên nghiệp (chiếm 8%). (SignalFire)
78% người tiêu dùng đã khám phá sản phẩm mới khi xem video của các nhà sáng tạo. (Statista).
Gen Y chiếm khoảng 42% Creator Economy và Gen Z là 14%, (Theo Adobe).
Creator Economy được phân loại như thế nào?
Như đã phân tích ở trên, Creator Economy là nền kinh tế được tạo ra từ những nhà sáng tạo (Creator) và khi mổ xẻ thuật ngữ này, chúng ta có thể phân loại các nhóm đối tượng chính khác nhau có trong Creator Economy.
Theo đó các nhóm đối tượng chính có thể là:
Influencer (Economy): Mặc dù chỉ chiếm một tỷ lệ phần trăm tương đối thấp trong toàn bộ khái niệm Creator, Influencer hay Người có ảnh hưởng là những người có “quyền lực” nhất trong Creator Economy. Influencer cũng có thể được phân loại thành nhiều kiểu khác nhau như Micro Influencer, Macro Influencer và hơn thế nữa.
KOL(Economy): Nhóm nhà sáng tạo thứ 2 có trong Creator Economy là KOL (Key Opinion Leader), chính là những chuyên gia trong các lĩnh vực chuyên nghiệp như kinh tế, chính trị, Y tế, Giải trí, Giáo dục và nhiều ngành nghề khác.
Content Creator(Economy): Content Creator hay Nhà sáng tạo nội dung là khái niệm đề cập đến tất cả những cá nhân làm các công việc về sản xuất, sáng tạo và xây dựng nội dung (Content) trên nhiều các nền tảng khác nhau, trong đó chủ yếu là trên các nền tảng mạng xã hội (Social Media).
Về mặt tổng thể, Creator Economy là một phần của bức tranh kinh tế lớn hơn đó là Nền kinh tế số hay Digital Economy.
Influencer là gì?
Influencer (trong tiếng Anh có nghĩa là người ảnh hưởng hoặc người có ảnh hưởng) là khái niệm chủ yếu được sử dụng trong phạm vi ngành marketing, kinh doanh và giải trí nói chung, thuật ngữ influenecer đề cập đến tất cả những cá nhân có khả năng gây ảnh hưởng đến người khác, đặc biệt là có thể làm thay đổi suy nghĩ và hành vi của họ.
Trong phạm vi ngành marketing, Influencer hay “người có ảnh hưởng” là thuật ngữ chung mang tính đại diện cho tất cả những người có sức ảnh hưởng dù cho họ đang làm việc trong lĩnh vực cụ thể là gì, họ ảnh hưởng trong phạm vi nào hay độ lớn của những nhóm đối tượng theo dõi (bị ảnh hưởng) họ.
Đặc điểm rõ ràng nhất để nhận diện một cá nhân nào đó là Influencer đó là sức ảnh hưởng của họ đến hành vi, tâm lý và thậm chí là các hành động cụ thể của đối tượng theo dõi họ.
Tuỳ theo từng mức độ ảnh hưởng hay lĩnh vực cụ thể mà các Influencer cũng được chia thành các nhóm hay có những tên gọi khác nhau, bạn có thể xem chi tiết ở các phần tiếp theo của bài viết này.
KOL là gì?
KOL là từ viết tắt của Key Opinion Leader, là khái niệm đề cập đến những người có khả năng gây ảnh hưởng đến một nhóm người nhất định trong xã hội.
Các KOL có thể là những nhà lãnh đạo doanh nghiệp, những nhà lãnh đạo tư tưởng ngành, những chuyên gia trong một lĩnh vực cụ thể nào đó hay thậm chí là các nhà chính trị gia.
Một trong những điểm nhận dạng rõ ràng nhất về các KOL là khả năng được nhìn nhận bởi công chúng, mức độ tín nhiệm, khả năng ảnh hưởng của họ trên các phương tiện truyền thông đại chúng (mass media) hay mức độ liên quan của họ đến đối tượng mục tiêu.
Ngoài ra, như bản thân ý nghĩa của chính nó “Key Opinion Leader”, các KOL chính là những người có khả năng dẫn dắt các quan điểm hay lập trường riêng của chính họ.
Content Creator là gì?
Content Creator hay nhà sáng tạo nội dung là những người tham vào công việc sản xuất những nội dung hay vật liệu sáng tạo mang tính giải trí và giáo dục cho các nhóm đối tượng mục tiêu (người mua, người ra quyết định, người ảnh hưởng…).
Những gì mà những người này tạo ra có thể xuất hiện dưới nhiều định dạng khác nhau như: bài viết trên blog của website doanh nghiệp, bài đăng trên các nền tảng mạng xã hội, các video trên YouTube, các biểu đồ đồ hoạ hay các ebooks…
Đối với thế giới kinh doanh ngày nay, các nhà sáng tạo nội dung đóng vai trò quan trọng trong việc trong việc tăng mức độ tương tác với khách hàng cũ lẫn khách hàng tiềm năng.
Tìm hiểu tổng quan về Nền kinh tế và Creator Economy.
Cách đây khoảng một thế kỷ trước, chúng ta sống trong một nền kinh tế công nghiệp (Industrial Economy). Đó là thời đại của sản xuất, nơi mà hầu hết mọi người có thể kiếm được tiền thông qua các công việc chân tay trong các xí nghiệp và nhà máy.
Tuy nhiên, đến những năm 1950, chúng ta đang chuyển sang nền kinh tế tiêu dùng (Consumer Economy).
Đây là giai đoạn mà sau một quá trình Khủng hoảng Kinh tế (Economic Depression), mọi người đang tìm kiếm những cách mới để tiêu tiền của họ.
Mọi người bắt đầu kiếm thêm thu nhập bằng cách thực hiện các dịch vụ cho người khác. Thương mại từ đây trở nên toàn cầu hóa nhiều hơn, với việc mọi người muốn có “nhiều thứ” hơn từ khắp nơi trên toàn thế giới.
Trong thời đại của internet, chúng ta bước vào nền kinh tế tri thức (Knowledge Economy), nơi công nghệ, tri thức và khả năng sáng tạo đóng vai trò then chốt.
Đây chính là tiền đề của Creator Economy vốn dựa trên internet, yếu tố công nghệ (các nền tảng) và khả năng sáng tạo (ra một thứ gì đó).
Mối quan hệ giữa Social Media với Creator Economy là gì?
Như đã phân tích ở trên, Creator Economy được phát triển trong bối cảnh khi các phương tiện truyền thông mạng xã hội (Social Media) phát triển mạnh mẽ.
Những nhà sáng tạo thành công là những nhà sáng tạo tận dụng tốt các nền tảng mạng xã hội để chia sẻ nội dung và xây dựng cộng đồng của riêng họ.
Theo số liệu đến năm 2022, mỗi người dùng internet sử dụng 3h mỗi ngày trên các nền tảng mạng xã hội, trong đó dành đến hơn 2h trên TikTok, gần 1h trên Facebook cùng nhiều nền tảng khác.
Khi các nền tảng mạng xã hội như Facebook, Instagram, Twitter, YouTube hay TikTok không chỉ là nơi để mọi người giải trí, tìm kiếm thông tin, mua sắm và tương tác với thương hiệu mà còn trở thành nơi để mọi người kết nối với các nhà sáng tạo yêu thích của họ, Creator Economy phát triển theo tỷ lệ thuận với sự phổ biến của các nền tảng này.
Những câu hỏi thường gặp xoay quanh chủ đề Creator Economy?
Creator Economy là ngành gì?
Như MarketingTrips đã phân tích ở trên, Creator Economy không phải là một ngành mà là một nền kinh tế nơi các nhà sáng tạo (Creator) đóng vai trò thúc đẩy tăng trưởng chính.
Thông qua các cộng đồng rộng lớn chủ yếu nhờ vào các nền tảng mạng xã hội, nhà sáng tạo có nhiều cơ hội để chia sẻ và kiếm tiền từ các hoạt động sáng tạo (nội dung) của họ.
Creator bao gồm những ai?
Creator là khái niệm mang tính đại diện, đại diện cho tất cả những nhà sáng tạo, tác giả, người biên tập, những người tạo ra các sản phẩm hay dịch vụ sáng tạo.
Nằm trong bối cảnh Creator Economy, Creator chủ yếu ám chỉ những nhà sáng tạo nội dung trên các nền tảng mạng xã hội với mục tiêu là kiếm tiền.
Creator Economy có giá trị bao nhiêu?
Tính đến năm 2022, Creator Economy có giá trị hơn 100 tỷ USD với khoảng hơn 150 triệu nhà sáng tạo đang hoạt động.
Kinh tế nhà sáng tạo là gì?
Là nền kinh tế được tạo ra từ các hoạt động sáng tạo của các nhà sáng tạo.
Kết luận.
Cho dù bạn đang có ý định trở thành một Creator trong Creator Economy đầy tiềm năng hay là một Marketer đang tìm cách kết nối và tận dụng Creator Economy để phát triển doanh nghiệp.
Việc hiểu bản chất của Creator Economy là gì cũng như những tác động của nó đến sự phát triển chung của doanh nghiệp là điều hết sức cần thiết. Giờ đây, bạn đã có thể bắt đầu hoạch định các chiến lược cho riêng mình.
Tham gia Cộng đồng We’re Marketer để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: Link
Bằng cách coi trọng việc xây dựng thương hiệu trong dài hạn, Starbucks đã có những chiến lược hết sức tinh tế và một trong số đó là chính sách Free Refill.
Hãy nhớ lại những ngày tháng khi Google, Internet hay các nền tảng mạng xã hội như Facebook hay Twitter chưa xuất hiện và phát triển như bây giờ, bạn thường dựa vào đâu để đánh giá chất lượng của một nhà hàng hay quán cafe nào đó?
Phải chăng, bạn đã từng dựa rất nhiều vào yếu tố trực quan, những góc quán đông đúc hay bãi đỗ xe dày đặc là những minh chứng cho chất lượng dịch vụ của thương hiệu.
Trong khi thuật ngữ Social Proof hay Bằng chứng xã hội vẫn phát triển mạnh trong bối cảnh kinh doanh hiện đại ngày này, nó vốn dĩ đã tồn tại từ rất lâu trước khi cả Internet hay thương mại điện tử ra đời.
Được xây dựng và phát triển từ những năm 1971, tức trước gần 30 năm so với ngày Google ra đời (năm 1998), Starbucks vốn đã không phụ thuộc vào internet trong việc kinh doanh của mình.
Thách thức lớn nhất lúc bấy giờ mà Starbucks phải đối mặt là làm thế nào để các cửa hàng của mình luôn “tấp nập” người, thứ có thể giúp những người khác cảm nhận được “giá trị thương hiệu” của Starbucks.
Với giá trị thương hiệu (Brand Value) hơn 13 tỷ USD tính đến hết năm 2021, Starbucks đã từng bắt đầu với những chiến lược xây dựng thương hiệu và marketing dù ít tốn kém nhưng lại rất sáng tạo. Từ các chiến thuật dịch vụ khách hàng trị giá chỉ vài đô la đến các chiến dịch thương hiệu toàn cầu.
Và một trong số đó là Free Refill, chính sách “Tái đổ đầy” thức uống miễn phí.
Chính sách Free Refill của Starbucks.
Như đã phân tích ở trên, để tạo ra một quán cà phê náo nhiệt tràn đầy sức sống, bạn cần thu hút mọi người vào bên trong cửa hàng và khiến họ nán lại. Bằng cách cung cấp những lần tái đổ đầy thức uống miễn phí, Starbucks đã làm được điều này.
Chính sách Free Refill của Starbucks hoạt động như sau:
Tại các cửa hàng tham gia, bạn có thể sử dụng Thẻ Starbucks (Starbucks Card) đã đăng ký của mình hoặc ứng dụng Starbucks (Starbucks app) để mua đồ uống và sau đó cũng từ các ứng dụng và thẻ này, bạn được đổ đầy miễn phí cà phê và trà (không phụ thuộc vào thức uống đã mua ban đầu) trong cùng một lần ghé thăm cửa hàng.
Nếu khách hàng chưa có tài khoản, họ cũng có thể mua những lần tái đổ đầy miễn phí này với một mức giá rất ưu đãi.
Chiến lược này của Starbucks không chỉ làm cho khách hàng cảm thấy thoải mái và “hời” hơn với mỗi lần ghé thăm Starbucks, nó còn làm cho trải nghiệm của khách hàng với thương hiệu tốt hơn nhiều.
Xây dựng thương hiệu là một chiến lược dài hạn quan trọng.
Thương hiệu vốn là một thông báo hay dấu hiệu giúp khách hàng ra các quyết định mua hàng của họ – thường ở cấp độ tiềm thức. Đó là điều khiến người tiêu dùng lựa chọn một doanh nghiệp nào đó thay vì đối thủ.
Trong trường hợp của Starbucks, đó là lý do tại sao người tiêu dùng bỏ qua vô số các lựa chọn thay thế khi di chuyển trên đường, cho dù đó là các cửa hàng cà phê địa phương, hay những cửa hàng cà phê tiện lợi khác.
Mọi người dù phải chờ đợi hay xếp hàng lâu hơn, trả giá cao hơn và thậm chí có thể nhận được ít sản phẩm hơn với cùng một mức giá. Họ vẫn chọn Starbucks đơn giản là vì nó nằm trong tâm trí của họ, là vì Starbucks “có thương hiệu”.
Thương hiệu cũng giải thích lý do tại sao với phần đông mọi người, khi có ý định mua một chiếc máy tính nào đó, Apple có thể là gợi ý đầu tiên.
Giải quyết vấn đề một cách hiệu quả là một chiến lược xây dựng thương hiệu khôn ngoan.
Nếu bạn là một Marketer, bạn hiểu rằng xây dựng thương hiệu hiệu quả không chỉ đơn giản là việc thuyết phục công chúng nên lựa chọn thương hiệu hay doanh nghiệp của bạn thông qua các chiến dịch quảng cáo.
Một thương hiệu hiệu quả cần không ngừng xây dựng danh tiếng – lòng trung thành của khách hàng với thương hiệu (Brand Loyalty) – và thông qua các chiến lược hành động cụ thể hơn là những gì mà họ hứa và nói.
Và rõ ràng là trong trường hợp này, Starbucks sẽ dần mất đi thương hiệu của nó nếu nó không bao gồm những sản phẩm cafe chất lượng, dịch vụ khách hàng hiệu quả, những địa điểm “vàng” và hơn thế nữa.
Xây dựng thương hiệu không nhất thiết phải rất tốn kém.
Mặc dù việc xây dựng thương hiệu có thể là một nỗ lực rất tốn kém đối với không ít các doanh nghiệp, tuy nhiên điều này không phải là điều kiện bắt buộc hay duy nhất.
Xét cho cùng, mọi vấn đề của thị trường hay khách hàng đều có thể tạo ra những cơ hội tiềm ẩn nào đó mà thương hiệu có thể nhanh chóng chớp lấy và gìn giữ – nếu bạn nỗ lực đưa ra các giải pháp thông minh giống như cách Starbucks từng làm với khách hàng của họ, bạn sẽ sớm nhận thấy sự khác biệt (mà không cần đầu tư quá nhiều tiền).
Tham gia Cộng đồng We’re Marketer để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: Link
Lãnh đạo Thế Giới Di Động cho rằng việc đóng cửa hoặc mở cửa là bình thường, cần phải thực hiện thường xuyên và liên tục. Cái nào kinh doanh không hiệu thì phải sắp xếp lại để phát triển tốt hơn.
Thế Giới Di Động (MWG) tiếp tục đóng cửa thêm hai chuỗi bán lẻ AVAFashion và AVAJi. Nguyên nhân dẫn đến đóng cửa các chuỗi trên là do kinh doanh không hiệu quả, nên cần sắp xếp lại.
Trước đó, ngày 10-1-2022, Công ty Cổ phần Đầu tư Thế Giới Di Động đồng loạt ra mắt cùng lúc 5 chuỗi bán lẻ với các lĩnh vực kinh doanh hoàn toàn mới bao gồm:
AVAFashion – chuỗi cửa hàng thời trang, AVASport – chuỗi cửa hàng chuyên đồ thể thao chính hãng, AVAKids – chuỗi cửa hàng cho mẹ và bé, AVAJi – hệ thống bán lẻ đồng hồ, trang sức, mắt kính và AVACycle – chuỗi cửa hàng xe đạp dưới hình thức “shop in shop” tại hệ thống Điện máy Xanh.
Việc chào sân đồng loạt của 5 thương hiệu này cho thấy bước đi quyết liệt của Thế Giới Di Động trong giai đoạn hậu dịch với tham vọng chinh phục những thị trường mới tiềm năng.
Thế Giới Di Động tự tin với dân số gần 100 triệu dân của nước ta và được xếp vào nhóm các quốc gia tăng trưởng tầng lớp trung lưu mạnh nhất thập kỷ, thế nên, dù chịu tác động của dịch bệnh, thị trường bán lẻ Việt Nam dường như chưa bao giờ giảm đi sức hấp dẫn.
Hoạt động lâu trong ngành, Thế Giới Di Động tìm thấy cơ hội trong bối cảnh thị trường bán lẻ có nhiều khoảng trống sau các làn sóng dịch bệnh, đồng thời các lĩnh vực mới đều chưa thực sự có đơn vị nào dẫn dắt thị trường.
Nói về tiềm năng, lĩnh vực bán lẻ đồ thể thao hiện vẫn chưa có thương hiệu nào thực sự chiếm lĩnh. Tập luyện thể thao là nhu cầu tất yếu và ngày càng gia tăng trong bối cảnh mới, đó chính là một lợi thế cho AVASport.
Hệ thống chuyên bán các sản phẩm thời trang, giầy dép, thiết bị, phụ kiện, đồng hồ thể thao… chính hãng phục vụ tập luyện của những thương hiệu nổi tiếng thế giới như Nike, Puma, Adidas, Reebok….
Đối với chuỗi AVAKids, chuỗi nhắm đến thị trường đầy tiềm năng cho lĩnh vực mẹ và bé, mẹ bầu… Việt Nam có tỉ lệ hộ gia đình có trẻ em cao nhất Đông Nam Á, với 12% hộ gia đình có con dưới 1 tuổi và 20% hộ gia đình có con từ 1-2 tuổi.
Ngoài ra, với khoảng 68% số dân có độ tuổi từ 15 – 64, Việt Nam vẫn đang trong giai đoạn “cơ cấu dân số vàng” vì vậy số lượng gia đình trẻ gia tăng là tất yếu.
Với AVACycle, Thế Giới Di Động đã có bước đệm vững chắc từ thử nghiệm của năm 2021, đạt 150 shop với tốc độ mở mới 2 shop mỗi ngày bất chấp bối cảnh dịch bệnh. Năm 2022, AVACycle hướng đến cột mốc 500 tỉ đồng doanh thu.
Tương tự, ngành hàng đồng hồ đem về thành công lớn sau hơn 2 năm ra mắt, với doanh thu 1.500 tỉ năm 2021 đã tạo động lực để nhà bán lẻ hoàn thiện hơn thế giới phụ kiện qua việc mở rộng kinh doanh sang trang sức, mắt kính chính hãng của AVAJi.
Tại sự kiện trên ông Đoàn Văn Hiểu Em, CEO Công ty Cổ phần Thế Giới Di Động, cho biết: “Sự ra đời của 5 chuỗi cửa hàng AVA mới: AVASport, AVAKids, AVAFashion, AVAJi và AVACycle chính là giấc mơ thứ 4 của Thế Giới Di Động.
Đây là bước đi tất yếu cho mục tiêu đưa Thế Giới Di Động trở thành nhà bán lẻ đa ngành hàng và trở thành nhà bán lẻ top đầu khu vực”. CEO này cũng cho biết thị trường còn nhiều khoảng trống, nhiều cơ hội, ai nhảy vào nhanh nhất sẽ thắng nhanh nhất.
Tham gia Cộng đồng We’re Marketer để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: Link
Sự phổ biến và tính gây nghiện của TikTok đang được những nhà phân tích Phố Wall so sánh với một loại thuốc phiện dạng mạnh, theo Insider.
Trong khoảng 5 năm, lượng người dùng hàng tháng của ứng dụng này tăng lên hơn 1 tỷ.
“Những dòng cập nhật trạng thái cùng với ảnh và tình trạng không biết nên xem gì khi lên mạng đã được giải quyết bằng cơn sốt video có thời lượng ngắn được cung cấp bởi một công ty Trung Quốc”, các chuyên gia của Bernstein Research cho hay.
Dù vậy, sự lên ngôi của video dạng ngắn học theo TikTok lại đang dấy lên nguy cơ đối với những ứng dụng khác, người dùng, người phát triển nội dung và nhà quảng cáo.
Cơn nghiện video ngắn.
Các nền tảng công nghệ, mở đầu là Facebook, đã lao vào cuộc cạnh tranh về nội dung tương tự với TikTok. Hiện tượng này đã tạo nên “cơn nghiện kỹ thuật số”.
Một trong số những sản phẩm đáng chú ý là chức năng Reels, được ra mắt trên Instagram năm 2020. Cùng năm, các chức năng tương tự như Spotlight trên Snapchat, YouTube với Shorts, Idea Pins trên Pinterest và Fast Laughs của Netflix lần lượt xuất hiện.
Amazon cũng bắt đầu tham gia vào cuộc chơi với chức năng Inspire đang được thử nghiệm.
Theo thông tin từ Facebook, người dùng trên Instagram đang dành ra 25% thời gian cho Reels. Có khoảng 1,5 tỷ người đang tiếp cận với 30 tỷ video mỗi tháng được đăng tải trên Shorts của YouTube.
Và chỉ riêng TikTok đã chiếm tới 16% lượng quảng cáo kỹ thuật số trên toàn cầu năm 2022.
Cuộc cạnh tranh này được các nhà phân tích đánh giá là cực đoan. Nó tạo ra một “đại dịch” thực sự, tàn phá cộng đồng và làm hại hàng nghìn người.
Các nhà phân tích của Bernstein cũng chỉ ra rằng TikTok không thực sự cướp đi sinh mạng của ai. Tuy nhiên, khả năng gây nghiện của nền tảng là không thể phủ nhận.
Những hậu quả khó lường.
Minh chứng dễ thấy nhất cho tính gây nghiện của ứng dụng đó là sự phổ biến nhanh chóng của nó. Cùng với đó là những hậu quả ứng dụng này có thể gây ra với nền kinh tế kỹ thuật số.
Theo chuyên gia, các thuật toán hộp đen như TikTok sẽ trực tiếp đẩy những nội dung nổi bật tới người dùng. Điều đó giống như từng liều thuốc kích thích được bơm vào sau mỗi lần lướt xem các video ngắn.
Sẽ mất một thời gian để thấy được sự ảnh hưởng. Hiệu ứng do hoạt động trên gây ra chỉ tức thời và trong thời gian ngắn. Chính vì vậy, người dùng sẽ liên tục tìm tới những video tương tự và dẫn đến nghiện.
Một trong những vấn đề khác các nền tảng và nhà quảng cáo cần quan tâm là việc video ngắn làm hạn chế các quảng cáo phản hồi trực tiếp.
Khi quảng cáo xuất hiện cùng hình thức này, người dùng sẽ khó để kịp quyết định nhấn mua, đăng kí hay đưa ra góp ý. Nhà quảng cáo cũng thiếu đi cơ sở để đánh giá hiệu quả cũng như ngân sách dự kiến cho những quảng cáo của mình.
Về lâu dài, các video này sẽ khiến việc kiếm tiền từ thời gian của người dùng không còn dễ dàng nữa. Từ đó làm cho các nền tảng và ngành quảng cáo kỹ thuật số bị sụt giảm nguồn thu.
Chuyên gia cảnh báo nếu các nền tảng như Facebook, YouTube hay TikTok không tìm ra cách để kết hợp các quảng cáo phản hồi trực tiếp với các video ngắn sẽ dẫn đến hệ quả nghiêm trọng.
Dưới tác động của những “liều thuốc 15 giây”, khả năng tập trung của con người cũng ngày càng giảm.
Các nhà phân tích nhận thấy rằng những trào lưu trên Internet luôn đi theo chiều hướng “phát triển hoặc lụi tàn” và video ngắn cũng chỉ là một xu hướng truyền thông mới nổi.
Dù vậy, họ cũng thấy được nhiều mặt trái có thể ảnh hưởng tới người dùng, các nhà sáng tạo nội dung và người làm quảng cáo.
Đến nay, khả năng kiếm tiền từ quảng cáo lồng ghép trong các video ngắn vẫn còn hạn chế, bởi người dùng có thể nhanh chóng lướt qua và hoàn toàn phớt lờ chúng.
Tuy nhiên, sự chú ý của người dùng tới những nội dung có thời lượng ngắn đang ngày càng tăng.
Các chuyên gia của Bernstein cũng dự đoán sẽ có ngày càng nhiều nội dung truyền thông trên mạng được chuyển thành dạng video ngắn. Thậm chí, những chức năng dạng chữ viết hay hình ảnh trên các nền tảng mạng xã hội có khả năng sẽ bị thay thế bởi video ngắn.
Tham gia Cộng đồng We’re Marketer để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: Link
Trong khi có không ít quan điểm cho rằng, một nhân viên xuất sắc hay một người làm việc có hiệu suất cao (high-perform) có thể trở thành người quản lý giỏi, tuy nhiên đây là một nhận định chưa đúng đắn.
Khi một doanh nghiệp hay thương hiệu cần một người quản lý cho đội nhóm, các nhà lãnh đạo cấp cao thường “để ý” tới những người làm việc hiệu quả nhất trong nhóm. Một số ngôi sao trong số này thành công trong vai trò quản lý mới của họ; nhiều người khác thì không.
Khi thất bại ở vị trí mới, phần lớn họ đều có xu hướng rời bỏ tổ chức, điều này khiến doanh nghiệp mất đi một số lượng nhân viên giỏi đáng kể. Doanh nghiệp không chỉ mất đi một người quản lý mới mà còn “làm thất thoát” một cá nhân có hiệu suất cao.
Mặt khác, chính người quản lý mới đó cũng không tránh khỏi việc nghi ngờ về giá trị của bản thân, điều mà họ không đáng phải nhận.
Vậy tại sao đa số lại thất bại trong khi một số ít khác lại thành công?
Theo một nghiên cứu của HBR, khi các nhà nghiên cứu tiến hành phân tích hành vi của những người làm việc hiệu quả nhất hay có năng suất cao nhất dựa trên các bản phân tích của 7.000 người lao động trong doanh nghiệp.
Các hành vi phổ biến được thể hiện đó là: thiết lập các mục tiêu mở rộng, thể hiện tính nhất quán, có kiến thức và chuyên môn kỹ thuật, thúc đẩy kết quả, dự đoán và giải quyết vấn đề, chủ động và hợp tác.
Trong khi tất cả những hành vi hay kỹ năng này là những kỹ năng được đánh giá cao và giúp mọi người làm việc hiệu quả hơn, phần lớn trong số chúng (trừ kỹ năng hợp tác) đều tập trung vào yếu tố cá nhân hơn là tập thể, thứ mà một người quản lý hay nhà lãnh đạo cần tập trung và ưu tiên cao nhất.
Theo đó, các kỹ năng quan trọng nhất để một cá nhân (dù cho họ hiện có hiệu suất cao) có thể trở thành một “Best Manager” hay nhà quản lý xuất sắc đó là:
Cởi mở với tất cả các kiểu phản hồi và thay đổi cá nhân.
Thay vì chỉ muốn nhận được các phản phồi mà bản thân yêu thích. Một kỹ năng quan trọng đối với các nhà quản lý đó là luôn sẵn sàng tiếp nhận mọi kiểu phản hồi (tích cức hoặc tiêu cực) từ người khác.
Họ luôn tìm cách nhận thức về bản thân nhiều hơn và khiến bản thân trở nên tốt hơn.
Hỗ trợ người khác.
Tất cả các nhà lãnh đạo, cho dù họ là người giám sát hay nhà quản lý, đều cần phải quan tâm đến việc phát triển các cá nhân khác trong đội nhóm và tổ chức.
Trong khi những người có hiệu suất cao có thể tập trung vào sự phát triển của chính bản thân họ, những nhà quản lý giỏi phải tập trung vào việc giúp đỡ những người khác.
Cởi mở với (hầu hết) sự đổi mới.
Với những nhân viên có hiệu suất cá nhân cao, họ tập trung vào một quy trình đã được chứng minh là khả thi và họ cố gắng làm cho quy trình đó hoạt động hiệu quả nhất có thể.
Mặt khác, các nhà lãnh đạo hay người quản lý nhận ra rằng sự đổi mới thường không tuân theo những quy tắc có sẵn. Một nhà lãnh đạo truyền cảm hứng luôn cởi mở với sự sáng tạo và hiểu rằng điều đó có thể tiêu tốn rất nhiều thời gian.
Giao tiếp tốt.
Một trong những kỹ năng quan trọng khác đối với các nhà quản lý là khả năng trình bày ý tưởng của họ với người khác một cách thú vị và hấp dẫn.
Trong khi giao tiếp cũng là cần thiết đối với các cá nhân có năng suất cao, nhưng giao tiếp không phải là cốt lõi trung tâm của hiệu quả của họ.
Có kỹ năng giao tiếp cá nhân xuất sắc.
Đây là một yêu cầu đối với các nhà quản lý hiệu quả thực sự. Những người coi trí tuệ cảm xúc là kỹ năng lãnh đạo cần thiết nhất.
Mặc dù những cá nhân có hiệu suất cao không phải là những kẻ cô độc hay sống ẩn dật, nhưng để có năng suất cao họ thường không cần phải có các kỹ năng giao tiếp cá nhân tốt.
Hỗ trợ các thay đổi của tổ chức.
Trong khi những cá nhân có hiệu suất cao có thể tự cho mình là trung tâm, thì các nhà lãnh đạo và người quản lý phải đặt tổ chức lên trên cả bản thân họ.
Thông qua các nghiên cứu, các nhà nghiên cứu nhận thấy rằng nhiều người trong số những cá nhân làm việc hiệu quả nhất lại tỏ ra kém hiệu quả với những kỹ năng này.
Một số cá nhân có năng suất cao cũng sở hữu những đặc điểm và hành vi này, và việc có được chúng không làm giảm năng suất của họ.
Điều này giúp giải thích lý do tại sao một số người có năng suất cao lại có thể trở thành những nhà quản lý rất thành công và tại sao những người khác lại không.
Mặc dù những nhà lãnh đạo giỏi nhất là những người có năng suất cao, nhưng những người có năng suất cao nhất không phải lúc nào cũng bị thu hút bởi việc lãnh đạo những người khác.
Các nhà quản lý cần nhận thức rằng các kỹ năng giúp cá nhân đóng góp hiệu quả và có năng suất cao không phải là kỹ năng duy nhất mà họ cần để trở thành một nhà quản lý hiệu quả và mang lại giá trị cao cho tổ chức.
Tham gia Cộng đồng We’re Marketer để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: Link