Skip to main content

Thẻ: Coca-cola

Doanh thu của Coca-Cola Việt Nam đạt gần 6000 tỷ trong nửa năm 2023

Swire Coca-Cola, đơn vị đã mua lại quyền sản xuất, tiếp thị và phân phối tại Việt Nam, ghi nhận hơn 5.600 tỷ đồng doanh thu 6 tháng, tương ứng 30 tỷ mỗi ngày.

Doanh thu của Coca-Cola Việt Nam đạt gần 6000 tỷ trong nửa năm 2023
Doanh thu của Coca-Cola Việt Nam đạt gần 6000 tỷ trong nửa năm 2023

Trong báo cáo kết quả kinh doanh 6 tháng đầu năm 2023, Swire Pacific cho biết hoạt động kinh doanh của công ty con chuyên về đồ uống – Swire Coca-Cola, tại Việt Nam ghi nhận doanh thu hơn 1.850 triệu đôla Hong Kong (HKD), tương đương hơn 5.673 tỷ đồng.

Lợi nhuận trước thuế, khấu hao và lãi vay (EBITDA) đạt hơn 260 triệu HKD (gần 804 tỷ đồng) và lợi nhuận phân bổ trực tiếp cho công ty mẹ hơn 90 triệu KHD (khoảng 281 tỷ đồng).

Việt Nam là thị trường có kết quả kinh doanh cao thứ ba của Swire Coca-Cola, chỉ sau Trung Quốc đại lục và Mỹ.

Trung bình mỗi ngày, công ty này bỏ túi hơn 31 tỷ đồng doanh thu và 4 tỷ đồng lãi EBITDA. Nếu xét về biên lợi nhuận EBITDA, thị trường Việt Nam đạt mức cao nhất với khoảng 15,9%. Con số này ở Mỹ là 13,9% và Trung Quốc là 10,6%.

Tháng 7/2022, Swire Pacific tuyên bố tiến vào thị trường đồ uống (F&B) Đông Nam Á thông qua thương vụ mua lại dây chuyền sản xuất của Coca-Cola Việt Nam và Campuchia.

Thương vụ có giá trị hơn 1 tỷ USD và hoàn tất ngày 2/1 năm nay. Việc mua lại dây chuyền sản xuất ở hai nước đã giúp Swire Coca-Cola mở rộng thị trường tới 877 triệu khách hàng.

Vào thời điểm mua lại, Công ty TNHH Nước giải khát Coca-Cola Việt Nam đang có gần 1.750 triệu HKD tiền gửi ngân hàng (tương đương 5.300 tỷ đồng). Ở chiều ngược lại, công ty có khoảng 1.275 triệu HKD nợ phải trả (gần 3.900 tỷ đồng).

Tại Việt Nam, Coca-Cola có mặt từ năm 1994 và hiện sở hữu ba nhà máy, phân phối 10 nhãn hàng. Trước dịch, doanh thu của Coca-Cola tăng trưởng đều đặn mỗi năm. Từ hơn 5.000 tỷ đồng năm 2014, Coca-Cola Việt Nam đã đạt doanh thu gần 9.300 tỷ đồng năm 2019.

Dịch bệnh khiến doanh thu của Coca-Cola Việt Nam giảm 14% còn xấp xỉ 8.000 tỷ đồng năm 2020. Tuy nhiên, lợi nhuận sau thuế của công ty này vẫn tăng trưởng từ 811 tỷ đồng lên khoảng 838 tỷ đồng. Đến năm ngoái, doanh thu của Coca-Cola Việt Nam phục hồi lên mức gần 8.500 tỷ nhưng lãi lại giảm 13%, xuống 729 tỷ đồng.

Swire Coca-Cola đang độc quyền sản xuất, tiếp thị và phân phối các sản phẩm của Công ty Coca-Cola tại 11 tỉnh thành ở Trung Quốc đại lục, Hong Kong, Đài Loan, Việt Nam, Campuchia và một khu vực rộng lớn của miền Tây nước Mỹ. Tại Việt Nam, công ty này nhượng quyền sở hữu hoàn toàn hoạt động kinh doanh.

Trong nửa đầu năm 2023, Swire Coca-Cola ghi nhận doanh thu hơn 30,4 tỷ HKD, tăng hơn 15% so với cùng kỳ năm ngoái. EBITDA toàn công ty đạt hơn 3,4 tỷ đồng, tăng 24%. Trong đó, Việt Nam đóng góp 6% doanh thu và 8% lợi nhuận trước thuế, khấu hao và lãi vay.

Ban lãnh đạo Swire Pacific đánh giá trong nửa đầu năm 2023, hoạt động mua lại tại Việt Nam rất tốt và bắt đầu có những đóng góp đáng kể cho tập đoàn này.

Trong khi đó, hoạt động kinh doanh tại Campuchia ghi nhận khoản lỗ 22 triệu HKD cho công ty mẹ (khoảng 67 tỷ đồng) do điều kiện khó khăn, dù được mua lại cùng lúc.

Những tháng cuối năm, công ty dự báo hoạt động nhượng quyền Coca-Cola tại Việt Nam sẽ ổn định và tiếp tục đóng góp lớn cho kết quả kinh doanh cả năm, còn hoạt động tại Campuchia sẽ dần cải thiện.

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer

Theo VnExpress

Coca-Cola bắt tay cùng siêu sao Win Metawin trong chiến dịch “A Recipe For Magic” tại Châu Á

Coca-Cola® Bắt Tay Cùng Siêu Sao Châu Á Win Metawin; Triển Khai Chiến Dịch Mới Nhất “A Recipe For Magic” (Tạm Dịch: Sự Kết Hợp Diệu Kỳ) Tại Châu Á.

 Coca-Cola bắt tay cùng siêu sao Win Metawin trong chiến dịch "A Recipe For Magic" tại Châu Á
Coca-Cola bắt tay cùng siêu sao Win Metawin trong chiến dịch “A Recipe For Magic” tại Châu Á

Ngày 02 tháng 08 năm 2023 – Coca-Cola® giới thiệu Đại sứ thương hiệu đầu tiên của khu vực Đông Nam Á – siêu sao, diễn viên và người mẫu châu Á, Win Metawin cho chiến dịch ‘A Recipe for Magic‘ (Tạm dịch: Sự Kết hợp Diệu kỳ) – chiến dịch quảng bá thương hiệu mới nhất của Coca-Cola.

Chiến dịch quảng bá làm nổi bật sự kỳ diệu của những bữa ăn sum vầy với mục đích truyền cảm hứng cho mọi người trong việc cùng nhau tạo ra những khoảnh khắc ý nghĩa trong các bữa ăn.

Chiến dịch ‘A Recipe for Magic’ (Tạm dịch: Sự Kết hợp Diệu kỳ) tôn vinh điều kỳ diệu của những bữa ăn và sự gắn kết tuyệt vời khi chúng ta quây quần cùng nhau thưởng thức bữa ăn.

Coca-Cola mong muốn truyền cảm hứng để mọi người xích lại gần nhau hơn và chia sẻ cho nhau không chỉ là những món ăn ngon, mà còn là những khoảnh khắc thú vị và say mê diệu kỳ thông qua trải nghiệm ăn uống của mình – cùng Đại sứ thương hiệu khu vực Đông Nam Á của Coca-Cola, Win Metawin, cũng là người tiên phong trải nghiệm.

Đại sứ thương hiệu khu vực Đông Nam Á của Coca-Cola, Win Metawin chia sẻ: “Các bữa ăn chiếm một vị trí quan trọng trong trái tim tôi. Trong suốt khoảng thời gian thơ ấu, tôi nhớ mãi những buổi tối hạnh phúc khi gia đình tôi quây quần bên nhau trên bàn ăn.

Những khoảnh khắc quý giá khi tôi sum họp cùng gia đình và bạn bè chính là lúc mà tôi háo hức lắng nghe những điều thú vị đang diễn ra trong cuộc sống của họ. Bữa ăn thực sự là những khoảnh khắc kỳ diệu đối với tôi.”

Trong chiến dịch này, Win – một tín đồ ẩm thực chính hiệu – sẽ hợp tác cùng Coca-Cola® để ra mắt Sự Kết hợp Diệu kỳ cho người hâm mộ nói riêng và khán giả nói chung. Chiến dịch với nhiều hoạt động thú vị bao gồm quảng bá, tương tác trên các nền tảng mạng xã hội và nhiều hoạt động hấp dẫn khác.

Để đánh dấu lần ra mắt đầu tiên tại thị trường Đông Nam Á, chiến dịch hợp tác giữa Coca-Cola và Win sẽ được triển khai tại Thái Lan, Philippines, Việt Nam, Campuchia, Myanmar, Indonesia, Malaysia và Singapore.

Chiến dịch hợp tác này dựa trên triết lý thương hiệu toàn cầu “Real Magic“, bắt nguồn từ niềm tin những khoảnh khắc trong bữa ăn sẽ trở nên kỳ diệu khi chúng ta cùng nhau thưởng thức. Tất cả mọi thứ chúng ta cần chỉ là sự kết hợp đơn giản giữa các yếu tố phù hợp – thức ăn ngon, sự quây quần và lon Coca-Cola mát lạnh.

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer

Hà Anh  | MarketingTrips   

Doanh số của PepsiCo cao hơn gấp đôi so với Coca-Cola trong năm 2022

Mặc dù được xem là đối thủ truyền kiếp với nhau trong ngành F&B, doanh số của PepsiCo lại cao hơn nhiều so với Coca-Cola. Doanh số của PepsiCo cao hơn gấp 2 lần so với Coca-Cola trong năm 2022.

Doanh số của PepsiCo cao hơn gấp đôi so với Coca-Cola trong năm 2022
Doanh số của PepsiCo cao hơn gấp đôi so với Coca-Cola trong năm 2022

Cụ thể doanh số của PepsiCo trong năm 2022 là hơn 86 tỷ USD, trong khi đó của đối thủ Coca-Cola chỉ là 43 tỷ USD.

Dù vậy, doanh số của Coca-Cola cũng tăng trưởng khá tích cực trong thời gian gần đây.

CEO của Coca-Cola, James Quincey cho biết: “Về mặt tích cực, nhiều áp lực trong chuỗi cung ứng đã giảm bớt, mối lo ngại xung quanh lĩnh vực ngân hàng suy giảm và giá năng lượng cũng tiếp tục giảm từ mức cao kỷ lục.”

Trong khi bức tranh chung của Cola-Cola rất khả quan, có không ít khách hàng đã rời bỏ thương hiệu để chuyển sang các nhãn hàng riêng (private label) có giá rẻ hơn trong suốt thời kỳ khi nền kinh tế khó khăn.

Doanh thu quý 2 của Coca-Cola đạt mức 11,97 tỷ USD so với mức dự báo là 11,75 tỷ USD.

Ở phía đối thủ là PepsiCo, theo số liệu từ Yahoo Finance, doanh thu quý 2 năm 2023 của PepsiCo đạt mức hơn 22 tỷ USD, tăng 10% so với cùng kỳ năm 2022, tức vẫn giữ mức gấp đôi doanh thu của Coca-Cola của năm 2022.

Cũng giống như nhiều công ty thực phẩm và đồ uống (Food and Beverage) khác, Coca-Cola đã tăng giá sản phẩm của mình để đối phó với việc chi phí hàng hóa tăng cao trong suốt giai đoạn khi kinh tế rơi vào lạm phát và suy thoái.

Chiến lược định giá của Coca-Cola mặc dù chưa gây ra các phản ứng tiêu cực từ phía khách hàng, tuy nhiên có không ít khách hàng đã chuyển sang sử dụng các sản phẩm thay thế khác với giá rẻ hơn ví dụ như các nhãn hàng riêng (không có thương hiệu).

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer

Hà Anh  | MarketingTrips   

Coca Cola và Pepsi có thể phải thay đổi công thức đồ uống vì quyết định mới của WHO

Tổ chức y tế thế giới (WHO) đã có công bố chính thức về chất tạo ngọt nhân tạo Aspartame có trong sản phẩm đồ uống không đường của Coca Cola và Pepsi.

Coca Cola và Pepsi có thể phải thay đổi công thức đồ uống vì quyết định mới của WHO
Coca Cola và Pepsi có thể phải thay đổi công thức đồ uống vì quyết định mới của WHO

Hãng tin CNBC cho hay cảnh báo mới đây của Tổ chức y tế thế giới (WHO) về chất tạo ngọt nhân tạo có trong các sản phẩm nước ngọt không đường như Diet Coke, Coke Zero, Pepsi Zero Sugar hay Diet Mountain Dew có thể gây ung thư sẽ gây ảnh hưởng lớn đến thị trường F&B nói chung, thậm chí khiến các doanh nghiệp phải thay đổi công thức.

Trên thực tế, lượng tiêu thụ nước ngọt có ga đã liên tục sụt giảm trong 20 năm qua khi người tiêu dùng ngày càng quan tâm đến sức khỏe hơn, chuyển sang uống nước lọc hoặc chọn những đồ uống ít đường.

Nắm bắt được tình hình này, nhiều hãng nước ngọt như Coca Cola hay Pepsi đã tung ra những sản phẩm nước ngọt không đường, qua đó đánh vào tâm lý của các khách hàng béo phì, ăn kiêng hay muốn giảm cân.

Hiện mảng nước ngọt không đường đang chiếm đến 1/4 tổng doanh số của thị trường nước ngọt có ga nói chung. Hàng loạt những cái tên như Diet Coke, Coke Zero, Pepsi Zero Sugar hay Diet Mountain Dew đã trở thành mỏ vàng mới cho các tập đoàn nước giải khát.

Thế nhưng một báo cáo nghiên cứu của Cơ quan nghiên cứu ung thư quốc tế (IARC) trực thuộc WHO cho thấy mối liên quan giữa chất tạo ngọt nhân tạo (Aspartame) có trong những đồ uống này với bệnh ung thư gan đã làm đảo lộn tất cả.

Mặc dù WHO đã chính thức cảnh báo nhưng cũng đồng thời cho biết cần nhiều nghiên cứu thêm về tác động của Aspartame với bệnh ung thư.

Theo Fortune, chất tạo ngọt nhân tạo Aspartame được dùng phổ biến trong các loại thực phẩm và đồ uống hiện nay, từ Coca không đường (Diet Coke), kẹo cao su không đường cho đến sữa chua ít đường của Dannon Activia. Thậm chí chất này còn được dùng trong một số loại thuốc ho ngọt không đường cùng một số kem đánh răng.

Đánh giá của IARC khiến WHO phải xem xét Aspartame là chất gây ung thư không nói rõ liều lượng dùng an toàn hàng ngày mà một cơ thể có thể hấp thụ. Đây là điều mà Ủy ban chuyên gia về thực phẩm (JECFA) trực thuộc Tổ chức nông lương quốc tế (FAO) và WHO sẽ phải làm việc.

Lần cuối cùng WHO có nghiên cứu về Aspartame là vào năm 1981 với kết quả liều dùng hàng ngày có thể chấp nhận được không vượt quá 40mg trên mỗi kg trọng lượng cơ thể. Tuy nhiên những nghiên cứu mới sẽ được thực hiện dựa trên những kết quả thí nghiệm mới của IARC.

Trong một báo cáo cùng ngày của JECFA, một người trưởng thành nặng 70kg nếu uống 9-14 lon nước ngọt không đường dùng chất tạo ngọt nhân tạo Aspartame mỗi ngày trong thời gian dài có thể gây nguy hiểm đến sức khỏe.

Bởi vậy, việc uống 1 lon Coca không đường mỗi ngày hay nhai kẹo cao su có Aspartame sẽ chẳng gây ảnh hưởng đến sức khỏe trừ phi tiêu thụ với lượng cực kỳ lớn mỗi ngày trong thời gian dài.

Mặc dù vậy, một số nghiên cứu khác như của PLOS Medicine trên hơn 100.000 người Pháp công bố năm 2022 cho thấy những người uống chưa đến 1 lon nước ngọt không đường mỗi ngày có tỷ lệ bị ung thư cao hơn 15% so với những người không sử dụng.

Các thương hiệu F&B có thể phải thay đổi công thức.

Theo CNBC, mặc dù báo cáo của WHO không nhắm đến những người tiêu thụ lượng nhỏ nước ngọt không đường dùng Aspartame nhưng chúng sẽ tác động đến tâm lý người tiêu dùng, gây giảm doanh số và thậm chí dẫn đến khả năng phải thay đổi công thức sản phẩm.

Số liệu của TD Cowen cho thấy nước ngọt không đường thường được dùng phổ biến trong giới có thu nhập cao và đây lại là những đối tượng cực kỳ quan tâm đến sức khỏe.

Trong khi đó, chuyên gia Gerald Pascarelli của Wedbush nhận định các tập đoàn nước giải khát rất nhanh thích nghi với môi trường kinh doanh và sẵn sàng làm mọi thứ có thể để duy trì thương hiệu của mình.

Chất Aspartame đã được dùng trong Diet Pepsi vào năm 2015 nhưng bị ngừng sử dụng sau 1 năm vì phản ứng quyết liệt từ người tiêu dùng. Thế nhưng điều này không tồn tại được lâu khi hãng quyết định đưa Aspartame trở lại Diet Pepsi vào năm 2020, trong khi dòng Pepsi Zero Sugar thì vẫn đang liên tục dùng chất tạo ngọt nhân tạo này.

Với Coca Cola, các sản phẩm như Diet Coke hay Coke Zero của hãng đều dùng Aspartame từ đầu, tuy nhiên họ có thể đổi công thức sang dùng cây cỏ ngọt (Stevia) trong tương lai nếu thành phần chất tạo ngọt nhân tạo gây phản ứng trên thị trường.

Tuy nhiên quyết định thay đổi công thức này chưa chắc đã xảy ra khi Aspartame ngọt gấp 200 lần so với đường thông thường, giúp hãng có thể sử dụng liều lượng cực ít mà vẫn tạo được độ ngọt cho đồ uống, qua đó giảm lượng Calories để tạo nên sản phẩm không đường cho người ăn kiêng. Đây là điều mà không nhiều thành phần có thể làm được nếu muốn giữ nguyên hương vị.

Hãng tin CNBC cho biết hiện Aspartame được sử dụng trong hơn 6.000 sản phẩm khắp thế giới. Chất tạo ngọt nhân tạo này lần đầu tiên được phát hiện vào năm 1965 và ngay từ khi được phê duyệt lần đầu đã gây nên tranh cãi cực kỳ lớn về tác hại của chúng đến sức khỏe con người.

Cơ quan quản lý dược phẩm và thực phẩm Mỹ (FDA) lần đầu tiên phê duyệt Aspartame vào năm 1974 như một chất phụ gia trong một số thực phẩm nhất định, nhưng đã tạm dừng quyết định này trong nhiều năm do các tranh cãi liên quan đến khả năng gây ung thư não.

Cuối cùng vào năm 1981, FDA đã kết luận chắc chắn rằng Aspartame không phải nguyên nhân gây ung thư não và cấp phép thông qua cho chất phụ gia này. Đến năm 1996, Aspartame được phê duyệt trở thành chất tạo ngọt nhân tạo đa năng được dùng cho hàng loạt sản phẩm.

Hiện FDA cho biết đang theo dõi tiếp tình hình về Aspartame.

Kiện cáo và đền bù.

Tờ Fortune cho biết tuyên bố của WHO là đòn mới nhất từ tổ chức này đến các sản phẩm tạo ngọt nhân tạo. Vào tháng trước, chính WHO đã khuyến cáo người dùng ngừng sử dụng chất tạo ngọt nhân tạo cho việc kiểm soát cân nặng vì nó chẳng có hiệu quả giảm cân.

Tuy nhiên hướng dẫn này không chỉ ra bất kỳ rủi ro sức khỏe nào có thể xảy ra nếu người tiêu dùng sử dụng Aspartame.

Trong khi đó, những báo cáo gây ung thư của IARC đã có tiền lệ khiến các doanh nghiệp phải lao đao. Năm 2015, tổ chức này đã tiến hành nghiên cứu, đánh giá và phát hiện ra rằng chất Glyphosate trong thuốc diệt cỏ gây ung thư.

Đến năm 2021, công ty kinh doanh thuốc trừ sâu của Đức là Bayer đã thua trong lần kháng cáo thứ 3 tại Mỹ khi bị các khách hàng cáo buộc sản phẩm của họ khiến người dùng gây ung thư, qua đó yêu cầu bồi thường thiệt hại 86 triệu USD.

Quay trở lại câu chuyện, báo cáo của IARC cũng như tuyên bố của WHO đang làm xôn xao giới truyền thông và người nổi tiếng khi vô số người tiêu dùng hiện nay chuộng các sản phẩm không đường nhưng sử dụng chất tạo ngọt nhân tạo.

Những cái tên như Cựu Tổng thống Mỹ Donald Trump, Cựu Tổng thống Mỹ Bill Clinton, tỷ phú Elon Musk, tài tử Tom Hanks hay Ben Affleck đều được biết là thích dùng Coca không đường. Thậm chí Cựu Tổng thống Donald Trump được cho là có hẳn một nút riêng để gọi đồ uống Coca không đường trên bàn làm việc ở Nhà Trắng khi còn tại vị.

Theo khảo sát của hãng nghiên cứu Mintel, khoảng 43% số người lớn được hỏi cho biết chất tạo ngọt nhân tạo có hại cho sức khỏe người dùng, khoảng 70% số phụ huynh có con dưới 18 tuổi nhận định tương tự.

*Nguồn: CNBC, Bloomberg, Fortune

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer của MarketingTrips (Trang tin trực tuyến về Marketing và Kinh doanh) để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer

Theo Băng Băng | Markettimes

insights director của Coca-Cola: Marketer hiếm khi hành động một cách có chiến lược

Trong một chia sẻ mới đây, người đứng đầu bộ phận am hiểu khách hàng là insights director của Coca-Cola cho biết, người làm marketing hiện chưa thực sự hành động một cách có chiến lược.

insights director của Coca-Cola: Marketer quá bận rộn để hành động một cách có chiến lược
insights director của Coca-Cola: Marketer quá bận rộn để hành động một cách có chiến lược

Theo đó, các chuyên gia khuyên rằng các thương hiệu nên đảm bảo rằng các nhà tiếp thị hay người làm marketing có đủ thời gian để sử dụng cả yếu tố dữ liệu (data) lẫn những hiểu biết sâu sắc về con người (human insight) khi xây dựng một chiến lược marketing hay kinh doanh dài hạn.

Bà Fiona Lovatt, insights director của Coca-Cola tại Châu Âu cho biết là trên thực tế, các nhà quản lý thương hiệu thường không có khả năng hành động một cách có chiến lược.

“Mặc dù hầu hết các nhà tiếp thị đều tuyên bố là họ có chiến lược, nhưng thực tế vấn đề lại không diễn ra theo cách đó.

Tôi nghĩ rằng nếu bạn có thể hình dung hay vào thử vai của một nhà quản lý thương hiệu, bạn sẽ bị sốc về sự ngắn hạn của các nhiệm vụ mà người này thường làm.

Có những thứ rất đơn giản nhưng lại có thể khiến các nhà tiếp thị bị mắc kẹt và do đó, họ thiếu thời gian để tập trung vào những tư duy dài hạn. Cũng từ đây, người làm marketing nói chung rất dễ mắc bẫy khi đưa ra các quyết định ngắn hạn.

Thứ mà họ thực sự cần đó là một chiến lược dài hạn.”

Đồng ý với góc nhìn này, người đứng đầu bộ phận marketing và phân tích dữ liệu của Philips chia sẻ rằng, đội nhóm marketing của thương hiệu này được yêu cầu tập trung nhiều hơn vào người tiêu dùng và do đó, họ luôn nhìn mọi thứ với tư duy dài hạn.

“Điều quan trọng là các thành viên trong nhóm phải dành thời gian để nói chuyện trực tiếp với người tiêu dùng và không chỉ tập trung vào các vấn đề nội bộ của thương hiệu hay doanh nghiệp.

Tư duy chiến lược (strategic thinking) ngày càng trở nên quan trọng hơn trong một thế giới khó đo lường hơn với nhiều sự bất ổn hơn, vì nó mang đến cho các thương hiệu cơ hội chứng minh tầm quan trọng của họ đối với cuộc sống của người tiêu dùng.”

insights director của Coca-Cola tiếp lời:

“Thế giới hiện đang phức tạp hơn bao giờ hết. Với vô số những sự bất ổn ngoài kia, một chiến lược đúng rất quan trọng vì nó đóng vai trò là kim chỉ nam cho mọi quyết định dù là từ marketing hay kinh doanh.

Điều quan trọng là phải xác định được chiến lược thực sự là gì, chiến lược nào nên được ưu tiên và chiến lược nào thì không. Tôi nghĩ rằng việc phân biệt rõ khái niệm chiến thuật, chiến lược và thực thi cũng rất quan trọng.”

Đại dịch, lạm phát, và sau đó là cuộc khủng hoảng kinh tế diễn ra trên phạm vi toàn cầu, đã nhắc lại tầm quan trọng của việc “làm thật tốt những điều cơ bản”. Điều này có nghĩa là người làm marketing hãy sử dụng những insight để hiểu cảm giác của người tiêu dùng, đặc biệt là trong bối cảnh khi mà mọi thứ luôn thay đổi một cách nhanh chóng.

Tầm quan trọng của yếu tố con người hay nói cách khác là am hiểu con người.

Các yếu tố công nghệ có thể rất hữu ích trong việc chuyển tiếp chiến lược tới một mức độ nào đó, tuy nhiên lượng dữ liệu dồi dào mà các nền tảng công nghệ tạo ra có thể có nghĩa là các nhóm marketing đang khai thác dữ liệu theo góc nhìn riêng của họ để giải quyết các vấn đề của khách hàng và thị trường.

Người làm marketing không nên nhìn vào dữ liệu để tự giải quyết vấn đề một cách độc lập. Thay vào đó, điều quan trọng là hãy kết hợp sự am hiểu sâu sắc về con người kết hợp với dữ liệu để xây dựng chiến lược.

Sự hiểu biết sâu sắc về con người và công nghệ nên được sử dụng song song với nhau.

“Để đạt được các mục tiêu chiến lược của mình, các nhà tiếp thị cần phải có sự đồng hành của các bên liên quan khác trong nội bộ. Điều này đòi hỏi một sự kết nối về mặt cảm xúc và sự hiểu biết về các bên liên quan.”

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: We’re Marketer

Hà Anh  | MarketingTrips   

Điều gì xảy ra khi các công ty đua nhau tiến vào Metaverse

Không chỉ các công ty công nghệ, lĩnh vực thời trang hay đồ uống cũng đang chạy đua nhằm chiếm chỗ trong vũ trụ ảo Metaverse.

Metaverse

Suốt nhiều năm qua, lĩnh vực sắc đẹp và thời trang thường hay đi sau so với các ngành nghề khác. Tuy nhiên, khi kỉ nguyên vũ trụ ảo (metaverse) đang hiện hữu, không ai muốn đứng chờ.

“Tôi cho rằng công ty nào cũng đang có những bước tiến mạnh mẽ vào metaverse”, Dina Fierro, Phó tổng giám đốc hãng mỹ phẩm tại Pháp NARS chia sẻ.

Danh sách công ty đang đầu tư nghiên cứu về metaverse ngày càng dài. Sotheby, công ty chuyên đấu giá tác phẩm nghệ thuật vừa mở một gian hàng trưng bày trong vũ trụ ảo Decentraland. CocaCola cũng tung ra bộ sưu tập NFT nhằm “định hình cho xu hướng vũ trụ ảo”.

Thời trang là lĩnh vực đầu tư mạnh nhất vào metaverse. Adidas, ông trùm trang phục thể thao đã hợp tác với tổ chức đứng sau bộ sưu tập token không thể thay thế (NFT) Bored Ape Yacht Club để phát hành bộ sưu tập NFT “Đi vào thế giới metaverse”.

Ngoài ra còn có những cái tên nổi bật khác. Gucci kết hợp với công ty làm game Roblox nhằm phát hành không gian ảo “Khu vườn Gucci”. Balenciaga cũng đã đặt một chân vào thế giới metaverse khi liên kết với trò chơi Fortnite để bán một số trang phục ảo.

Thay đổi chiến lược.

Tuy vậy, các công ty đã có sự thay đổi về cách họ tiếp cận với metaverse. “Hiện tại cơn sốt đã qua đi. Nhiều công ty đang tập trung vào các dự án có tầm nhìn dài hạn.

Họ không còn đơn thuần muốn tận dụng sức nóng truyền thông để lôi kéo khách hàng nữa”, Cathy Hackl, chuyên gia tư vấn về metaverse nhận định.

Bằng chứng cho những kế hoạch dài hạn bắt đầu bằng việc Nike sáp nhập hãng thời trang ảo RTFKT và thành lập bộ phận phát triển sản phẩm số.

Tiếp đó, Microsoft làm nức lòng giới blockchain khi CEO Satya Nadella cho biết thương vụ gần 70 tỷ USD thâu tóm Activision Blizzard nhằm phục vụ cho kế hoạch metaverse. Apple cũng tham gia cuộc đua khi CEO Tim Cook nhận định “Ban lãnh đạo thấy metaverse có nhiều tiềm năng và chúng tôi đang đầu tư vào đây”.

“Tiềm năng” mà Tim Cook đề cập chính là lợi nhuận mà lĩnh vực này có thể đem lại. Grayscale, công ty con của quỹ đầu tư Digital Currency Group dự đoán metaverse là thị trường có vốn hoá 1.000 tỷ USD.

Vũ trụ ảo mở ra một thị trường kinh doanh mới. Trang phục số hay một căn nhà ảo trong Decentraland trở nên giá trị hơn. Việc chi 2,9 triệu USD cho một bức hình con vượn bỗng nhiên trở thành chuyện thường ngày.

“Chúng ta đang bước vào giai đoạn mà tài sản số như Bitcoin có giá trị ngang hoặc cao hơn nhiều loại tài sản thực”, Michael Toner, Giám đốc quảng cáo tại Threedium, công ty tư vấn về metaverse chia sẻ.

Quyền sở hữu tài sản số không khác mấy so với sở hữu trí tuệ hiện nay. “Không bao lâu nữa, đồng hồ, bàn ghế, nội thất ảo sẽ trở thành xu hướng và được giao dịch đại trà. Giống như cách sách điện tử được mua bán”, Michael Toner chia sẻ.

Các khách hàng của ông Toner đều tạo ra 2 phiên bản thực và ảo cho sản phẩm của họ. Thay vì sở hữu một bộ đồ Hugo Boss thật, người dùng có thể lên cửa hàng trong Decentraland và mua phiên bản số của chúng. “Chúng ta đang bước vào kỉ nguyên kinh doanh trên vũ trụ ảo (meta-commerce)”, Toner nhận định.

Những vấn đề vũ trụ ảo có thể giải quyết.

Lindsey McInerney, trưởng bộ phận xu hướng toàn cầu tại AB InBev, công ty mẹ của 3 hãng bia Budweiser, Corona và Beck’s tin rằng lĩnh vực đồ uống có thể thu được lợi nhuận khủng khi metaverse hoàn thiện. Từng là một chuyên gia về mạng xã hội, McInerney luôn dõi theo mọi xu hướng, trong đó có thực tế ảo và blockchain.

McInerney làm ngỡ ngàng đồng nghiệp khi cô tung ra một bài luận về Web3 và vũ trụ ảo. Cô tin rằng đang có một sự kiện “rung chuyển thế giới” và ban lãnh đạo cần hiểu rõ chúng.

“Thật ngoạn mục. Metaverse và Web3 có tác động giống như thương mại điện tử hiện nay vậy. Có thể hơn thế nữa. Mọi thứ đang thay đổi với tốc độ chóng mặt”, McInerney chia sẻ.

Trong giai đoạn thử nghiệm, McInerney yêu cầu ban lãnh đạo hãy hợp tác với Zed Run, một trò chơi đua ngựa vận hành bằng blockchain. McInerney tự tin rằng dòng bia Stella Artois của công ty cô có thể được dùng để quảng cáo trong Zed Run.

AB inBev đã tung ra bộ trang phục cho các con ngựa ảo theo phong cách của bia Stella Artois và bán đấu giá chúng dưới dạng NFT. Lần đầu tiên, một thương hiệu bia có tiếng xuất hiện trong vũ trụ ảo.

Chương trình đã thành công vang dội. McInerney cho biết dòng bia Stella đã thu hút 100 triệu lượt tương tác chỉ trong tuần đầu tiên, xuất hiện trên trang bìa Forbes và AdWeek. McInerney cho rằng đây chỉ là phần nổi của tảng băng chìm. “Metaverse không chỉ nâng tầm lĩnh vực thương mại điện tử. Mọi thứ đều sẽ bị ảnh hưởng”.

“Một mảnh ghép khác trong lĩnh vực quảng cáo đang gặp phải vấn đề chính là chương trình khách hàng thành viên. Các chương trình tích điểm thành viên thường là một trải nghiệm tồi tệ.

Kevin Wright, quản lý bộ phận thương hiệu tại Adidas cho rằng ít người nhận ra vấn đề này. Chương trình thành viên bằng token có thể giải quyết những khuất mắc tồn đọng. Mọi thứ đều được lập trình sẵn và không có sai sót con người.

Các chuyên gia Web3 như Jeremiah Owyang tại thung lũng Silicon cũng đồng tình với ý kiến của ông Wright. “Điểm số của khách hàng nên được chuyển đổi thành 1 loại token”, chuyên gia Jeremiah bình luận.

Theo ông Wright, những điểm thưởng này là “một khoản nợ khổng lồ đối với công ty”. Giống như cách ngân hàng vận hành, nếu họ nhận lượng lớn yêu cầu rút tiền từ những cá nhân gửi tiền để nhận lãi suất trong khoảng thời gian ngắn, chủ ngân hàng sẽ không thể thanh toán hết và dẫn đến vỡ nợ.

“Dù chuyện này chưa từng xảy ra với các chương trình quà tặng, nhưng nếu chuyện đó xảy ra thì công ty lớn như Starbucks cũng phải gặp rắc rối”, Wright chia sẻ.

Một chương trình thẻ thành viên vận hành bằng token sẽ giảm thiểu các rắc rối tài chính và kế toán như trên. Tuy nhiên ông Wright không chia sẻ cơ chế để quản lý chương trình này.

“Đã đến lúc ứng dụng metaverse vào quá trình quản lý các chương trình này”, Wright đề cập với CoinDesk. “Chúng ta đang dành quá nhiều thời gian cho việc phát triển sản phẩm mà chưa chú tâm giải quyết những yếu tố liên quan đến tài chính, kế toán”, ông Wright bình luận.

Các cuộc họp, sự kiện được tổ chức trên vũ trụ ảo là một xu hướng tất yếu. Janet Balis, cố vấn tại công ty kiểm toán Ernst & Young (EY) cho rằng dù đại dịch Covid-19 có qua đi, nhiều sự kiện vẫn sẽ được tổ chức hoàn toàn trực tuyến.

“Metaverse là cách giúp các công ty có thể tổ chức sự kiện khi nhiều nhân viên phải làm việc tại nhà”, bà Balis chia sẻ.

Trong bài nghiên cứu đăng trên tạp chí Harvard Business Review, bà Balis cho rằng các bác sĩ có thể được huấn luyện chuyên môn thông qua nhân vật trong vũ trụ ảo của Microsoft.

Gã khổng lồ Nvidia cho biết họ có thể cắt giảm chi phí trong quá trình sản xuất và đem lại kết quả nghiên cứu tốt hơn nhờ vào môi trường giả lập trên metaverse. Hãng máy bay Boeing đang sử dụng vũ trụ ảo để thiết kế máy bay được sắc sảo hơn.

Không chỉ các công ty tăng trưởng và có đội ngũ nghiên cứu hùng hậu, nhiều công ty truyền thống cũng thích nghi với thời đại. Ban lãnh đạo của Want Branding, một công ty tư vấn cho biết họ liên tục bị đối tác chất vấn về blockchain.

“Khách hàng của chúng tôi đều quan tâm đến blockchain. Họ liên tục hỏi rằng công nghệ này có tác động như thế nào đến độ nhận diện thương hiệu”, John Downey, Giám đốc quảng cáo tại Want Branding bình luận.

Công ty kiểm toán EY cũng đưa ra kết luận tương tự. “Hầu hết công ty đều muốn triển khai một chiến dịch quảng cáo trên metaverse hoặc cho phép người dùng trải nghiệm vũ trụ ảo”, bà Balis chia sẻ.

EY thậm chí đã thành lập bộ phận metaverse nhằm phục vụ cho các yêu cầu của khách hàng. Deloitte, đối thủ của EY đã mở một cửa hàng trong vũ trụ ảo nhằm “hỗ trợ, hướng dẫn và truyền cảm hứng cho khách hàng về mục tiêu của họ trong metaverse”.

Hao tốn tiền của.

Rủi ro mà metaverse có thể đem lại cũng không ít. Dù ủng hộ ý tưởng về vũ trụ ảo, bà McInerney luôn đảm bảo những kế hoạch đề ra phải hiệu quả.

Không thể trông chờ vào việc phát hành 10.000 bức hình NFT rồi đợi giá chúng tăng phi mã. Chi phí quảng cáo, thiết kế, xây dựng cộng đồng khá tốn kém.

Một cách tiếp cận ít tốn kém được nhãn hàng làm đẹp Clinique triển khai thành công. Thay vì bán NFT, Clinique yêu cầu khách hàng chia sẻ những câu chuyện tích cực trên Instagram.

Sau đó Clinique sẽ tặng NFT và 10 năm sử dụng sản phẩm cho các cá nhân có những câu chuyện truyền cảm hứng.

“Lòng trung thành và sự tương tác giữa công ty và khách hàng được đẩy lên tầm cao mới”, Roxanne Iyer, Phó tổng giám đốc bộ phận chăm sóc khách hàng chia sẻ.

Hầu hết chiến dịch quảng cáo đều thất bại. Công ty nào cũng mơ ước thành công được như sự kiện phát hành NFT của Pepsi. Chuỗi bài đăng về sự kiện “Mic drop” của Pepsi luôn đạt mức tương tác cao, thậm chí được Meta phản hồi trên ứng dụng Twitter.

Các công ty cần nhiều bằng chứng hơn về khả năng thành công của metaverse. “Tôi muốn làm rõ những rủi ro khi triển khai một chiến dịch trên vũ trụ ảo”, bà Balis chất vấn.

Yếu tố pháp lý như thế nào? Liệu có bị thu thuế? Đây là những câu hỏi mà một nhãn hàng lớn như Adidas luôn muốn làm rõ.

“Chúng tôi có hơn 60.000 nhân viên với nhiều thương hiệu đang được vận hành với phong cách khác nhau”, ông Wright chia sẻ. Hoặc đơn cử như loại tiền tệ được sử dụng trong thanh toán.

Châu Âu sẽ dùng Euro, Mỹ thì dùng USD và phí giao dịch NFT là một loại token nào đó. “Đối với một công ty đa quốc gia, đem NFT vào hoạt động kinh doanh là vấn đề phức tạp”, Wright nói thêm.

Theo ông Fierro, công ty mỹ phẩm NARS của ông đã phải chi nhiều tiền và thời gian để hoàn thiện các sản phẩm NFT. “Thành thật mà nói thì một chiến dịch NFT tiêu tốn nguồn lực ở mức độ mà nhiều công ty khó có thể chấp nhận”, ông Fierro chia sẻ.

Một sự thật khiến metaverse vẫn còn nhiều bất cập nếu muốn ứng dụng rộng rãi chính là cơ sở hạ tầng chưa đủ sức đáp ứng nhu cầu.

“Một số vũ trụ ảo chỉ có thể truy cập thông qua kính thực tế ảo. Một số khác thì qua màn hình máy tính”, Balis chia sẻ. Có vũ trụ ảo thì dành cho bản di động. Phần lớn metaverse thực ra được lưu trữ tập trung. Chỉ có số ít được lưu trữ phi tập trung ở nhiều máy chủ.

Theo ông Wright tại Adidas, vấn đề nổi cộm mà giới làm metaverse cần giải quyết chính là những vụ lừa đảo, đầu cơ token hoặc rút thảm (rug pull). “Với mỗi vụ lừa đảo trên sàn giao dịch NFT OpenSea, chúng ta mất đi 10-15 người dùng”, Wright chia sẻ.

Nhìn chung, những vấn đề trên cũng là điều mà các chuyên gia về thương hiệu cần giải quyết khi tiến vào vũ trụ ảo. “Metaverse có phải là nơi mà tôi đem lại cho khách hàng của mình trải nghiệm tốt nhất?

Cách nào để quảng bá thương hiệu của mình một cách chân thật nhất? Liệu tôi có thể kể câu chuyện của mình một cách nhịp nhàng”, Balis đưa ra những câu hỏi quan trọng mà các thương hiệu cần tự chất vấn.

Chiến lược của AB InBev.

Chiến lược tiếp thị của McInerney, trưởng bộ phận xu hướng toàn cầu đặt ra câu hỏi hệ trọng: Uống và đặt mua bia trong metaverse có cảm giác như thế nào?

Theo McInerney, uống bia ảo chắc chắn không có cảm giác sảng khoái như những lon bia ướp lạnh ngoài đời thực. Nhưng nếu nhìn ở góc độ quảng cáo, so với những tấm biển nhàm chán trên các tòa nhà, bia ảo hơn hẳn về độ ấn tượng.

Trong tương lai, ngành bia hoàn toàn có thể kiếm tiền trong thế giới metaverse. McInerney cho rằng sự kết hợp giữa thế giới thực và ảo là xu hướng trong nhiều năm tới.

“Khi tôi ở London, Anh còn bạn ở bang Denver, Mỹ cùng nhau vào xem một cuộc đua ngựa ảo trên Zed Run. Sau đó chúng ta đi vào một quán bia trên vũ trụ ảo Decentraland và đặt vài cốc bia. 20 phút sau, bia thật sẽ được giao đến tận nhà bạn bởi các tài xế Uber”, McInerney chia sẻ về trải nghiệm kết hợp thực-ảo.

Có người cho rằng đó là sự ảo tưởng. Vài cá nhân tin rằng chúng là thật. Các doanh nghiệp thì luôn hướng về cùng một chí hướng, đó là kiếm lời nhờ vào metaverse.

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: Link

 

Nam Nguyen (Theo Zing)

Pepsi, Coca-Cola, McDonald’s, Starbucks ở Nga đua nhau đóng cửa

Thời gian gần đây, cả 4 nhãn hàng đều bị chỉ trích vì tiếp tục hoạt động ở Nga trong khi nhiều công ty Mỹ khác đã tuyên bố dừng hoạt động.

Pepsi Coca-Cola McDonald's Starbucks đóng cửa ở nga

Theo CNBC, hôm 8/3, hàng loạt nhãn hàng F&B lớn như Pepsi, Coca-Cola, McDonald’s, Starbucks thông báo ngừng kinh doanh ở Nga. Đây là động thái đầu tiên của 4 nhãn hàng lớn mang biểu tượng của Mỹ nhằm phản đối cuộc chiến ở Ukraine.

Pepsi đã hiện diện ở Nga trong suốt 6 thập kỷ. Nga cũng đại diện cho số ít khu vực trên thế giới nơi thị phần Pepsi áp đảo Coca-Cola.

Trong báo cáo, Coca-Cola cho biết hoạt động kinh doanh ở Ukraine và Nga chỉ đóng góp từ 1-2% tổng doanh thu thuần và thu nhập hợp nhất trong năm 2021.

Mặt khác, khoảng 4% doanh thu của Pepsi đến từ Nga. Công ty cho biết sẽ tiếp tục bán một số sản phẩm thiết yếu như sữa bột, sữa tươi và thức ăn cho trẻ em.

Những mảng kinh doanh bị tạm dừng là Pepsi-Cola, 7UP, Mirinda, vốn đầu tư, quảng cáo và khuyến mại.

Theo Wall Street Journal, Pepsi đang cân nhắc việc rút hoàn toàn khỏi Nga. Song, việc xuất hiện các biện pháp trừng phạt khiến quá trình thoái thác ở Nga phức tạp hơn.

Kể từ thời điểm Nga sáp nhập Crimea vào năm 2014, nhiều công ty Mỹ cũng tìm cách giảm sự hiện diện ở cả Nga và Ukraine.

Đối với McDonald’s, thương hiệu này mở cửa hàng đầu tiên bên ngoài “Bức màn sắt” ở Moscow, chỉ vài tháng trước khi Liên bang Xô Viết tan rã.

Hôm 8/3, công ty thông báo tất cả 850 nhà hàng của McDonald’s sẽ tạm thời đóng cửa. Khoảng 84% chi nhánh tại Nga thuộc sở hữu của McDonald’s, số còn lại kinh doanh theo hình thức nhượng quyền.

Starbucks tiến xa hơn McDonald’s khi tuyên bố sẽ đình chỉ mọi hoạt động kinh doanh của Nga, bao gồm cả việc vận chuyển sản phẩm. CEO công ty là Kevin Johnson cũng lên tiếng chỉ trích cuộc tấn công.

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: Link

Hà Anh

Làm mới thương hiệu: Bài toán không dễ của các hãng nổi tiếng

Tạo ra một thương hiệu có khi chỉ cần vài ngày, nhưng làm cho cái “hiệu” đó được “thương” đôi khi phải mất rất nhiều năm. Làm mới thương hiệu cũng vậy.

Làm mới thương hiệu
Getty Images

Khách hàng lại luôn cần điều mới, thương hiệu cần thay đổi, làm mới mình. Đổi mới thương hiệu là điều không hề dễ dàng khi thương hiệu đã có một chỗ đứng trong lòng khách hàng.

Từ những tờ séc triệu đô bị “đốt”.

Ngày 4/10/2010, logo mới của thương hiệu thời trang danh tiếng GAP của Mỹ được tung ra trên trang web của hãng. Theo đại diện truyền thông của GAP, đây là một sự thay đổi lớn, chuyển mình từ “cổ điển và nghiêm túc” sang “hiện đại, gợi cảm và trẻ trung”.

Tuy nhiên, khách hàng quay lưng lại với thương hiệu, các nhà chuyên môn phân tích rằng logo mới quá giống của đối thủ cạnh tranh. Sự thay đổi quá đột ngột và ô vuông đặc màu xanh của giới tài chính ngân hàng đã làm cho sự “chuyển mình” này thất bại.

Chỉ sau 7 ngày được tung ra, cổ phiếu của hãng đã bị mất giá và tờ séc 100 triệu đô chi cho cuộc thay đổi này đã tan tành mây khói. Cuối cùng, GAP quyết định quay lại với logo xưa cũ của mình.

Làm mới thương hiệu

Đó là chuyện thay đổi logo. Thông thường, khách hàng luôn cần cái mới, thích cái mới. Nhưng đôi khi, họ không như vậy. Khách hàng là thượng đế, mà thượng đế ít khi cho chúng ta biết “ngài” có ý định gì?

Khi sản phẩm của bạn được khách hàng tin dùng, quen dùng đến nỗi họ không muốn thay đổi thì nếu có cố gắng bơi ngược dòng, quả đắng là cái bạn nhận được dù trước đó đã thận trọng đến cỡ nào.

Một trường hợp khác là New Coke – sản phẩm mới của Coca Cola ra đời với hy vọng làm khách hàng bất ngờ thích thú. Trước đó, một khoản ngân sách khổng lồ đã được chi ra để nghiên cứu sản phẩm, nghiên cứu thị trường.

Đừng nói là Coca Cola không hiểu khách hàng của họ? Ấy thế mà New Coke của Coca Cola đã thất bại và đi vào các bài giảng marketing như một ví dụ của việc không ai biết trước, khách hàng sẽ thích gì.

Đến những bài học thận trọng hơn khi cân nhắc làm mới thương hiệu.

Việc thay đổi logo, slogan hay sản sinh ra các nhãn hiệu mới trong gia đình thương hiệu của các nhãn hàng tùy theo thời cuộc là một hoạt động làm mới thương hiệu lành mạnh. Tuy nhiên, nó cần được tiến hành một cách thận trọng với các nguyên tắc sau:

1. Thay đổi từ từ.

Bộ não của con người được ‘‘thiết kế’’ tối ưu sao cho các quyết định được đưa ra nhanh nhất và cần ít năng lượng nhất.

Người ta có xu hướng vào một cửa hàng quen, mua của người quen và tìm đến những thương hiệu quen. Nếu sự thay đổi diễn ra từ từ thì con người sẽ dễ dàng chấp nhận hơn.

Làm mới thương hiệu

2. Xây dựng logo mới có tính kế thừa.

Logo của hãng BP đã được thay đổi như thế. 211 triệu đô la là giá trị của tờ séc mà Công ty Dầu khí BP đã phải chi trả để thiết kế lại logo mới, từ một lá chắn thành một bông hoa nhiều cánh màu xanh lá cây, như một lời hứa hẹn thân thiện với môi trường của thương hiệu này.

Làm mới thương hiệu - bp

Những yếu tố nên kế thừa là gì? Đó nên là triết lý, đặc tính, lời hứa thương hiệu. Là màu sắc, đường nét nhận diện.

Đôi khi cũng có thể thay đổi phông chữ, nhưng không nên thay đổi hoàn toàn phong cách của phông chữ. Đặc biệt, không nên thay đổi ngành hàng hoặc xây dựng một phong cách mới hoàn toàn so với thương hiệu hiện hữu.

Hãng Colgate khó có thể chuyển sang bán bánh mì kẹp. Điều này cũng khó nếu như McDonald’s chuyển sang bán ô tô.

Điều này không có nghĩa là bạn phải bám chặt đến sản phẩm, dịch vụ hiện tại mà không xê dịch tí nào. Sản phẩm, dịch vụ mới phải có liên quan tới giá trị cốt lõi của thương hiệu bạn.

Amazon tuyên bố hướng tới trở thành công ty biết lắng nghe khách hàng nhất trên thế giới và xây dựng một nơi mà người ta có thể tìm thấy, nhìn thấy bất cứ cái gì họ muốn mua trực tuyến (online).

Chính vì thế, ngoài việc là công ty bán hàng trên mạng lớn nhất thế giới, Amazon còn kinh doanh nền tảng đám mây (cloud), giúp cho việc buôn bán, giao dịch online trở nên dễ dàng với giá cả phải chăng.

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: Link

Hà Anh

Apple trở thành công ty Mỹ đầu tiên đạt mốc 3.000 tỷ USD

Apple đã đạt mức vốn hóa thị trường (market cap) 3.000 tỷ USD trong giao dịch ngày 3/1 vừa qua, tăng gấp 3 lần định giá trong vòng chưa đầy 4 năm.

apple 3000 tỷ usd

Giao dịch trong đầu năm mới đã giúp đẩy giá cổ phiếu Apple chạm mốc kỷ lục trên 182,8 USD, tăng gấp ba lần về giá trị trong vòng chưa đầy bốn năm, Guardian đưa tin ngày 3/1.

Giá cổ phiếu tăng do các nhà đầu tư có niềm tin rằng nhà sản xuất iPhone sẽ tiếp tục tung ra các sản phẩm bán chạy nhất khi họ khám phá các thị trường mới như ôtô tự lái và thực tế ảo.

Theo ước tính, Apple giờ đây có giá trị cao hơn cả giá trị của Boeing, Coca Cola, Disney, Exxon-Mobil, McDonald’s, Netflix và Walmart cộng lại.

Cổ phiếu của hãng tăng 38% kể từ đầu năm 2021. Đây là một trong những mức tăng trưởng lớn nhất trên chỉ số bình quân công nghiệp Dow Jones.

Các nhà phân tích kỳ vọng Microsoft cũng sẽ đạt được mốc 3.000 tỷ USD vào cuối năm nay.

Cổ phiếu công nghệ tăng vọt trong thời đại đại dịch Covid-19 đã thúc đẩy các giá cổ phiếu của các công ty công nghệ lớn của Mỹ, kéo thị trường chứng khoán nước này lên theo.

Apple đã công bố thu nhập hàng quý cuối cùng của mình vào tháng 10 và kiếm được 20,6 tỷ USD trong ba tháng trước đó, mặc dù gặp phải các vấn đề liên quan đến chuỗi cung ứng do Covid-19.

Tin tức này được đưa ra trong bối cảnh thị trường chứng khoán Mỹ tràn sắc xanh và cổ phiếu châu Âu đạt mức cao kỷ lục trong ngày đầu tiên giao dịch năm 2022.

Điều này cho thấy các nhà đầu tư đặt cược vào sự phục hồi kinh tế dù số lượng trường hợp mắc Covid-19 tăng vọt do biến chủng Omicron gây ra.

Trước đó, Apple đã trở thành công ty Mỹ đầu tiên đạt mức vốn hóa thị trường 1.000 tỷ USD trong giao dịch trong ngày vào năm 2018. Công ty này tiếp tục đạt mức định giá 2.000 tỷ USD chỉ hơn hai năm sau đó.

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: Link

Hà Anh

Bài học từ P&G và Coca-Cola: Đừng cắt giảm chi tiêu quảng cáo trong khủng hoảng

P&G tăng gấp đôi ngân sách chi tiêu marketing khi Covid-19 ập đến, trong khi Coca-Cola thì làm điều ngược lại. Kết quả là, doanh thu của P&G thì tăng lên còn Coca-Cola thì sụt giảm nghiêm trọng.

Bài học từ P&G và Coca-Cola: Đừng cắt chi tiêu quảng cáo trong khủng hoảng
Bài học từ P&G và Coca-Cola: Đừng cắt giảm chi tiêu quảng cáo trong khủng hoảng

Tất cả những người làm marketing và kinh doanh nói chung đang phải trải qua những khoảng thời gian khó khăn chưa từng có do ảnh hưởng của Covid-19.

Các nhà marketer từ khắp mọi nơi trên thế giới đang phải tính toán lại mức độ hiệu quả của các khoản ngân sách chi tiêu cũng như kế hoạch sắp tới trong tương lai.

Nhiều doanh nghiệp đang phải chứng kiến sự sụt giảm doanh số nghiêm trọng khi người tiêu dùng đang thắt chặt chi tiêu nhiều hơn trong đại dịch, ở nhà nhiều hơn và tiết kiệm nhiều hơn.

Bài học từ P&G.

Có ba lý do chính khiến P&G khác biệt so với những công ty còn lại trong những thời điểm khó khăn nhất. Thứ nhất, là “tuổi đời” của thương hiệu, được thành lập từ năm 1837, P&G đã chứng kiến và vượt qua nhiều thách thức trước đó, điều này hiển nhiên làm cho họ kiên cường hơn, mạnh mẽ hơn dù cho họ đang ở trong bối cảnh khó khăn nào.

Thứ hai, P&G không chỉ liên tục điều hướng một cách kiên định trước những thách thức mà còn tận dụng chúng để phát triển thịnh vượng hơn. Đây là một trong những đặc điểm nổi bật hàng đầu của doanh nghiệp này.

Khi nhìn lại các cuộc khủng hoảng kinh tế lớn trước đó, rõ ràng là P&G thịnh vượng nhờ vào những thời kỳ khó khăn chứ không phải sợ hãi khi phải đón nhận chúng.

Và cuối cùng, P&G là doanh nghiệp đã phát triển ra hầu hết các khái niệm và mô hình vốn được xem là nền tảng của việc xây dựng thương hiệu trong thời kỳ hiện đại. Khái niệm quản trị thương hiệu có phần đóng góp không nhỏ từ P&G.

P&G cũng là một trong những doanh nghiệp tiên phong trong việc xây dựng và phát triển vai trò của một Brand Manager (Người quản lý thương hiệu). Họ xây dựng nên mô hình house of brands (ngôi nhà của những thương hiệu).

Một trong những gương mặt đại diện nổi trội nhất đứng sau tất cả những thay đổi và chiến lược của P&G là ông Jon Moeller, Giám đốc vận hành (COO) của P&G.

Bài học từ P&G và Coca-Cola: Đừng cắt chi tiêu quảng cáo trong khủng hoảng
P&G’s COO and CEO-elect, Jon Moeller

Ông nói với các nhà phân tích: “Phản ứng tốt nhất đối với những gì chúng ta đang gặp phải trong thế giới ngày nay là tiến lên phía trước chứ không phải là hoài nghi hay dừng lại”.

“Đó không phải là những thời điểm để giảm bớt hay rút lui, sự thật là chúng tôi đã tăng lên gấp đôi”.

“Chúng tôi cần nhắc nhở người tiêu dùng về những lợi ích mà họ đã trải nghiệm với các thương hiệu của chúng tôi và cách chúng tôi phục vụ nhu cầu của họ và gia đình của họ, đây là lý do tại sao, chúng tôi cần liên tục hiện diện.”

P&G không chỉ tiếp tục quảng cáo và sử dụng các khoản ngân sách đã được lên kế hoạch, họ còn tăng ngân sách lên gấp đôi khi đối mặt với Covid-19.

Ông Moeller kết luận: “Chúng tôi thực sự mong đợi bước ra khỏi cuộc khủng hoảng với một tâm thế mạnh mẽ hơn nhiều so với thời điểm chúng tôi bắt đầu đối mặt với nó.”

P&G luôn thể hiện sự sẵn sàng về mặt tinh thần, theo đuổi mục tiêu dài hạn, và sẽ không ngần ngại việc đầu tư nhiều hơn khi đối mặt với tình trạng suy thoái.

Cắt giảm đầu tư vào thương hiệu.

Đối mặt với Covid-19, hầu hết các doanh nghiệp, thậm chí là nhiều doanh nghiệp lớn đã chọn cách cắt giảm – và trong nhiều trường hợp, họ cắt giảm hoàn toàn ngân sách quảng cáo được phê duyệt trước đó.

Theo Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WeForum), tổng mức đầu tư vào quảng cáo đã giảm 10% ở Mỹ và 12% ở Anh trong nửa đầu năm 2020 khi diễn ra đại dịch.

IAB (Interactive Advertising Bureau) báo cáo rằng gần một phần tư (24%) thương hiệu đã tạm dừng tất cả các quảng cáo trước quý 2 và chìm vào trạng thái “ngủ đông”.

Ví dụ, Coca-Cola đã tạm dừng toàn bộ các nỗ lực quảng cáo toàn cầu của mình trong những thời điểm tồi tệ nhất của đại dịch.

Các khoản đầu tư quảng cáo đã bị cắt giảm 35% và 2 tỷ bảng Anh đã không còn nằm trong hạng mục ngân sách truyền thông của thương hiệu này trong năm.

Coca-Cola đã nêu ra ba lý do cho việc cắt giảm này bao gồm: do sự trì hoãn của Thế vận hội Tokyo, tạm dừng quảng cáo trên các phương tiện truyền thông mạng xã hội đang gây ra nhiều sự thù hận và mong muốn “hỗ trợ nhiều hơn cho các cộng đồng địa phương”.

Tuy nhiên trên thực tế là, Coca-Cola “không mấy mặn mà” với người tiêu dùng và thị trường trong suốt thời gian diễn ra đại dịch, họ tiếp cận ngược lại với cách mà P&G đã làm.

Ông James Quincey, CEO của Coca-Cola chia sẻ:

“Tại sao tôi lại có thể muốn chi tiêu trong những khoảng thời gian mà tôi không thể có được lợi nhuận. Chúng tôi nghĩ rằng không có hoạt động marketing nào có thể tạo ra nhiều sự khác biệt vào lúc này, vì vậy chúng tôi đã cắt giảm đi rất nhiều”.

Tại sao Coca-Cola nên học hỏi P&G, tức thay vì tạm dừng thì nên đầu tư nhiều hơn.

Về cơ bản, có 03 lý do chính cho điều này.

Đầu tiên, doanh số bán hàng ngắn hạn của Coca-Cola vẫn cần được thúc đẩy, kể cả trong đại dịch. Chắc chắn, doanh số bán hàng tại chỗ của Coke và các “thương hiệu chị em” khác của nó đã bị ảnh hưởng nặng nề bởi các lệnh đóng cửa.

Tuy nhiên, dữ liệu của Coca-Cola xác nhận rằng hầu hết, nếu không muốn nói là tất cả, doanh số bán hàng hiện tại không mất đi mà chỉ đơn giản là chuyển sang các kênh phân phối thay thế, tức họ vẫn có thể bán được hàng.

Thứ hai, trừ khi Coca-Cola nghĩ rằng Covid-19 sẽ tước đi mọi nhu cầu đối với các sản phẩm của mình trong nhiều năm tới, họ còn một vấn đề khác quan trọng hơn nhiều so với doanh số đó là xây dựng giá trị thương hiệu trong dài hạn.

Đáng lẽ ra thay vì nghĩ rằng các hoạt động marketing lúc bấy giờ sẽ không “tạo ra nhiều sự khác biệt”, vị CEO của Coca-Cola nên hiểu rằng thương hiệu của họ cần được củng cố liên tục để duy trì giá trị thương hiệu về lâu dài.

Và cuối cùng, việc “tạm dừng” có thể tạo điều kiện để các đối thủ cạnh tranh dành được nhiều vị thế hơn. Đáng chú ý nhất là PepsiCo, họ đã đi theo con đường của P&G, vẫn duy trì mức chi tiêu quảng cáo và thương hiệu trong suốt đại dịch.

Đừng nên nghĩ đến việc tạm dừng trong khủng hoảng.

Trước các khủng hoảng, các thương hiệu chọn cách cắt giảm quảng cáo vì họ và người tiêu dùng mục tiêu của họ đang phải đối mặt với nhiều khó khăn và thử thách.

Tuy nhiên, nếu một thương hiệu vẫn duy trì các khoản đầu tư marketing của họ, kết quả là họ gặt hái được nhiều hơn những gì có thể.

Họ không cắt giảm không phải vì họ hay khách hàng của họ, mà là vì đối thủ cạnh tranh của họ. Họ biết rằng khi họ cắt giảm, đối thủ về cơ bản là có gấp đôi cơ hội để nâng cao mức độ quan tâm và tiếng nói của thương hiệu với mọi người nói chung.

Covid-19 khiến mọi thương hiệu phải tự đặt ra câu hỏi. Liệu giữa một bên là tạm dừng và một bên là duy trì hay thậm chí là tăng lên về mức chi tiêu, đâu mới là “kẻ tức thời”?

Trong trường hợp của Coca-Cola, vì họ đã chọn cách tạm dừng, đối thủ không đội trời chung là PepsiCo đã chiếm thế thượng phong đáng kể và báo cáo mức tăng trưởng doanh thu thuần là 5% vào năm 2020. Ngược lại, Coca-Cola sụt giảm 11%.

Về phần P&G, việc doanh thu tăng trưởng 4% trong năm 2020 đã cho phép họ có nhiều đà tăng trưởng và lợi thế hơn trong thời kỳ hậu khủng hoảng.

Bài học từ P&G và Coca-Cola: Đừng cắt chi tiêu quảng cáo trong khủng hoảng

Theo số liệu nghiên cứu mới nhất của Tạp chí Nghiên cứu Quảng cáo (Journal of Advertising Research), việc tạm ngừng quảng cáo có thể làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến doanh số bán hàng và thị phần của thương hiệu về lâu dài.

Nghiên cứu này cũng là bài học cho những quyết định sai lầm như Coca-Cola và nhiều thương hiệu khác, những thương hiệu chọn cách “im lặng” trong những thời điểm khó khăn nhất của người tiêu dùng và thị trường.

Tham gia Cộng đồng We’re Marketer để thảo luận các chủ đề về Marketing và Business tại: Link

Hà Anh | MarketingTrips